Trước khi phân tích, có thể chia 12 chi phần duyên khởi làm ba loại là hoặc, nghiệp, khổ:
Do vậy, bản thân 12 chi chính là “hoặc, nghiệp, khổ; hoặc, nghiệp, khổ”. Dưới đây sẽ áp dụng phương thức nêu bảng biểu trước sau đó tiến hành phân tích.
1) Vô minh - Hoặc
Theo quan điểm của Đại thừa A tỳ đạt ma tập luận quyển 4 thì bản thân vô minh chia thành hai loại ngu si. Loại thứ nhất, “ngu si về quả dị thục”, là không có hiểu biết đối với nhân quả báo ứng; loại thứ hai, “ngu si về chân thật nghĩa”, là không có hiểu biết đối với nghĩa chân thật của vô ngã và Tứ diệu đế, đây chính là vô minh căn bản.
Người thuộc loại ngu si về quả dị thục, nghĩ rằng: “Vốn dĩ không có gì là báo ứng, vốn không có gì là đời sau. Bây giờ ta có thể đạt được, hưởng thọ được, cố gắng mà làm”. Kết quả là làm ra những việc hồ đồ sai quấy; tất cả việc ác họ tạo được gọi là “phi phúc hành”. Đây là loại người không hiểu biết nhân quả báo ứng, đối với chân thật nghĩa đương nhiên càng không hiểu, những việc họ làm ra đều là bất thiện nghiệp.
Người thuộc loại ngu si về chân thật nghĩa, chỉ cho một số người tuy không có “ngu si về quả dị thục”, họ tin có nhân quả báo ứng nhưng chấp trước có ngã, không thể hiểu rõ đạo lý vô ngã của Phật pháp. Ví dụ, có rất nhiều người hành thiện và tu thân dưỡng tính trên đời đều tin tưởng nhân quả, cho rằng thiện có thiện báo, ác có ác báo, nhưng đối với vô ngã lại không hiểu rõ. Những việc mà loại người này tạo ra được gọi là “phúc hành” và “bất động hành”. Phúc hành thuộc thiện nghiệp của Dục giới. Bất động hành thuộc thiện nghiệp của Sắc giới và Vô sắc giới, ở đây cần phải tu tập thiền định. Do hai loại ngu si (vô minh) ở trên nên sinh ra ba loại hành vi hữu lậu: Phi phúc hành, Phúc hành và Bất động hành. Pháp uẩn túc luận quyển 11 viết: “Do tà kiến nên khởi tà tư duy, do tà tư duy nên khởi tà ngữ, do tà ngữ nên khởi tà nghiệp, do tà nghiệp nên khởi tà mạng, do tà mạng nên khởi tà cần (sự siêng năng sai lầm), do tà cần nên khởi tà niệm, do tà niệm nên khởi tà định. Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định này được gọi là vô minh duyên hành”.
Ở đây ý nói, vì vô minh mà lìa xa chính kiến, do vậy mà sinh khởi tất cả tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định đó gọi là vô minh duyên hành.
2) Hành - Nghiệp
Lấy vô minh làm duyên mà có ba loại hành: Phi phúc hành, Phúc hành và Bất động hành. Ba loại này còn được gọi là Phi phúc nghiệp, Phúc nghiệp và Bất động nghiệp. Do Phi phúc hành, Phúc hành và Bất động hành mà chúng sinh đã tạo mỗi mỗi không giống nhau nên kết quả là không ngừng lưu lại hạt giống của nghiệp (một sức mạnh tiềm ẩn sau mỗi hành động) khác nhau. “Thức” lúc này được gọi chung là “nhân vị thức”, là thức tạp nhiễm trong giai đoạn “nhân”. Đến sau khi mạng chung, “thức” phải đi đầu thai, được gọi là “quả vị thức”, lúc này tùy vào sự tạo tác trong đời này cộng với duyên lúc lâm chung, để rồi sức mạnh lớn của nghiệp đã thành thục sẽ dẫn dắt quả vị thức đi đầu thai (điều này nói lên tầm quan trọng của ý niệm trước khi lâm chung). Ví dụ, hạt giống của Phi phúc hành thành thục rồi thì sẽ đầu thai vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh); hạt giống của Phúc hành thành thục rồi thì sẽ đầu thai vào cõi người, trời hoặc phi thiên (A tu la) trong cõi Dục; hạt giống của Bất động hành thành thục rồi thì sẽ đầu thai vào cõi thiện Sắc giới và Vô sắc giới. Vì vô minh chưa đoạn, ba hành này đều là nghiệp hữu lậu, do đó nhất định phải luân hồi trong tam giới, không thể nào tránh khỏi được.
3) Thức, Danh sắc, Lục xứ, Xúc, Thọ - Khổ
Trong giai đoạn nhân vị thức, đã tạo tác tam hành (ba loại hành), tích lũy vô vàn những hạt giống của thiện nghiệp và ác nghiệp. Đến quả vị thức, theo sự yếu hay mạnh của nghiệp mà sinh vào tam giới, đây chính là thuyết “nghiệp lực luân hồi”. Sinh đến Vô sắc giới, chỉ có danh (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn), không có sắc; sinh đến Sắc giới và Dục giới thì có danh sắc. Nay lấy người sinh vào Dục giới làm ví dụ, quả vị thức kết hợp với tinh cha huyết mẹ hình thành danh sắc, là thể kết hợp giữa vật chất và tinh thần, là ngũ uẩn của con người lúc ban sơ còn trong bụng mẹ. Sau đó danh sắc lớn lên, hình thành lục xứ, mà sau đó có lục xúc như sau:
Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỵ xứ, thiệt xứ và thân xứ thuộc lục xứ là ngũ căn của thân thể, cấu thành nội thể của con người; ý xứ đại biểu cho tinh thần của con người. Sau khi sinh ra, vì có sự hòa hợp giữa căn, cảnh và thức mà sinh ra lục xúc. Lấy lục xúc làm duyên thì có ba loại cảm thọ sinh ra:
Khổ thọ là cảm thọ không như ý, lạc thọ là cảm thọ như ý, bất khổ bất lạc thọ gọi chung là xả thọ. Năm chi thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ ở trên hoàn toàn thuộc về Khổ đế, lấy hai chi phía trước là vô minh, hành làm duyên sinh ra quả khổ. Từ vô minh đến thọ đã tiến thêm một lần kết hợp của hoặc, nghiệp, khổ. Hoặc và nghiệp hợp thành Tập đế, là nhân của đời trước; khổ là Khổ đế, là quả của đời này. Đến đây cũng đã hiển thị một lớp nhân quả cùng với Khổ đế và Tập đế trong hai đời. Đây là do nhân quả luân hồi đời trước đến đời này.
4) Ái, Thủ - Hoặc
Ái và thủ thuộc “hoặc”. Trong Câu xá luận quyển 4 có đề cập tới hai loại ái, một loại là ái có nhiễm ô, thuộc về “tham”, chính là ái mà chúng ta nói ở đây. Một loại khác là ái không nhiễm ô, thuộc về “tín”, như yêu kính sư trưởng. Ái trong 12 chi là chỉ cho tham ái có nhiễm ô, có thể phân thành hai loại: một loại là tham ái đối với cảnh của Dục giới, một loại khác là tham ái đối với cảnh của Sắc giới và Vô sắc giới. Loại trước là phiền não tham đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc của Dục giới, “triền” (trói buộc) tức là phiền não. Loại thứ hai là không có hứng thú với cảnh của Dục giới, dùng thiền định đè nén các phiền não của Dục giới, lấy Sắc giới và Vô sắc giới làm mục tiêu, từ đó sinh khởi sự trói buộc của tham (tham triền) đối với Sắc giới và Vô sắc giới. Đây là do sau khi sinh ra chi “thọ” phía trước, đối với điều được ưa thích càng khởi tâm ái mà tích cực truy cầu, đợi đến lúc “ái” đã tăng trưởng mãnh liệt rồi, thì gọi là “thủ”. Cho nên thủ, bản thân nó là một loại ái mãnh liệt, là một loại phiền não mãnh liệt.
Thủ có thể phân thành bốn loại thủ: Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã ngữ thủ. Dục thủ là hưởng thụ những thứ của Dục giới như sắc, thanh, hương, vị, xúc bằng chấp ái mãnh liệt. Thông thường người tại gia đều là vì dục mà tranh chấp hơn thua lẫn nhau. Kiến thủ, Giới cấm thủ, Ngã ngữ thủ là chỉ người tu hành tranh chấp về kiến giải. Kiến thủ là chấp trước về kiến giải sai lầm, thường chỉ cho thường kiến và đoạn kiến của ngoại đạo. Giới cấm thủ cũng từ “kiến” mà xuất hiện, cho rằng một loại khổ hạnh nào đó có thể đạt được giải thoát, khởi tâm ái mãnh liệt để thực hiện. Chính vì Kiến thủ và Giới cấm thủ đã khiến cho các ngoại đạo tranh cãi lẫn nhau. Ngã ngữ thủ chủ yếu là ngoại đạo tranh chấp với Phật giáo về kiến giải, bởi vì ngoại đạo phần lớn cho rằng hữu ngã (có một cái ngã đích thực tồn tại), mà Phật giáo chủ trương vô ngã, cho nên ngoại đạo chấp trước kiến giải sai lầm dẫn đến tranh chấp với Phật giáo, họ đối với cái thấy hữu ngã sai lầm của mình, sinh ra chấp trước rất sâu, đây chính là Ngã ngữ thủ. Bốn loại thủ nêu trên đều là một loại chấp ái mãnh liệt, dưới sự thúc dục của cái ái này nên gây ra đủ loại hành vi, đó chính là chi tiếp theo: Hữu.
5) Hữu - Nghiệp
Câu xá luận quyển 9 viết: “Vì hướng về sự khát cầu nên tập hợp tích chứa dẫn đến nghiệp quả, đây được gọi là hữu”. Ý nói: Bởi gắng sức truy cầu hai mặt dục và kiến, hành vi (tam hành) của chúng sinh được tích chứa tập hợp rồi dẫn đến quả báo đầu thai trong tam hữu (ba cõi) ở tương lai, loại nghiệp này được gọi là hữu.
Pháp uẩn túc luận quyển 12 viết: “Nếu nghiệp có thể chiêu cảm ra đời sau (hậu hữu) thì đó là hữu”.
6) Sinh, Lão tử - Khổ
Ái và thủ là “hoặc”, hữu là “nghiệp”, do hoặc và nghiệp mà có “sinh” và “lão tử”, đây là quả khổ. Sinh và lão tử của đời sau theo sự dẫn dắt của nghiệp lực đời này mà đi đầu thai, sau khi sinh, tiếp theo đó là già đi và chết. Ái đến lão tử lại hình thành thêm một vòng “hoặc, nghiệp, khổ”. Ái, thủ, hữu hợp thành Tập đế, là nhân đã tạo trong đời này; Sinh và lão tử hợp thành Khổ đế, là quả sẽ chiêu cảm ở đời sau. Trong vòng nhân nhân quả quả ấy cũng đã hiển thị được một lớp nhân quả của hai đời cùng với Khổ đế và Tập đế, chỉ ra được nhân quả luân hồi của đời này cho đến đời sau.
Nếu tính từ “vô minh” cho đến “lão tử” thì có tổng cộng hai vòng “hoặc, nghiệp, khổ”, cấu thành hai lớp nhân quả của ba đời.