Trên đây đã giải thích tổng thể quá trình lưu chuyển của 12 duyên khởi, có thể quy kết là: Từ vô thủy đến nay, chúng sinh vì vô minh cùng với ái và thủ mà tạo tác các loại thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, lại do sự dẫn dắt của nghiệp lực đầu thai vào trong tam giới nên quả báo thọ nhận sẽ không giống nhau. Vô minh và hành là hoặc và nghiệp của đời trước; thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ là quả khổ của đời này. Đời này lại lấy hoặc của ái và thủ để tưới tẩm cho hạt giống nghiệp đời trước tăng trưởng, làm ra vô số những hành nghiệp hữu lậu, gọi là hữu, kết quả là dưới sự dắt dẫn của nghiệp hữu lậu nên tiếp tục tái sinh, mà có lão tử. Cho nên, chúng sinh trong cõi thiện, ác, không ngừng sinh tử luân hồi, như vậy thành lập ra thuyết nghiệp lực luân hồi và thuyết nhân quả ba đời.
Dưới sự chi phối của nghiệp lực luân hồi, quả báo mà chúng sinh thọ nhận hoàn toàn là nương vào hành nghiệp trong quá khứ mà quyết định. Trong đời này, thiện nghiệp đã tạo không nhất định là sẽ thành thục liền, cái thiện quả đó có khi đến đời sau mới hiện hành, đặc biệt như quả dị thục (như đầu thai làm người hoặc sinh vào cõi trời), phải ở đời sau mới thành thục. Có người thì ngay trong đời này làm rất nhiều ác nghiệp, sức khỏe và thọ dụng của họ lại rất tốt, điều này chứng tỏ quả dị thục của ác nghiệp này (như đầu thai vào ba cõi ác) vẫn chưa đến, mà sức khỏe và thọ dụng của đời này tốt đẹp là nhờ vào quả đẳng lưu và quả tăng thượng của thiện nghiệp trong đời trước (như không sát sinh, v.v.). Cùng đạo lý đó, có người thì ngay trong đời này tuy hành vi chính trực nhưng sức khỏe và thọ dụng không được như ý, đây có thể là do nơi quả đẳng lưu và tăng thượng của bất thiện nghiệp đời trước (như sát sinh) dẫn dắt. Dưới lăng kính của nhân quả ba đời, tất cả hạnh phúc hay bất hạnh đều không ngoài nghiệp quả của chính mình hiển hiện nên mà thôi.
Thức lúc lâm chung sẽ chuyển sinh từ đời này sang đời khác ra sao? Nay ta có thể dùng ví dụ sau để nói rõ: Lúc đánh billard (bida, bi-a), sau khi một trái bi trắng di chuyển đụng vào một trái bi đỏ đang đứng yên thì trái bi trắng dừng lại và trái bi đỏ chuyển động. Về mặt vật lý thì cả hai trái bi này hoàn toàn không phải không liên quan với nhau, mà là có một động lượng tác động từ trái bi trắng lên trái bi đỏ. Cũng vậy, khi lâm chung, nhục thể không còn hoạt động, nhưng nghiệp đã tạo trong đời này tùy theo thức mà chuyển đến đời sau, cả hai đời hoàn toàn không phải không có liên quan. Những hành động tạo tác đời sau lại cấu thành nên nghiệp mới, điều này cũng giống như sau khi trái bi đỏ bị trái bi trắng đụng vào, lại chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, động lượng sẽ tiếp tục thay đổi chứ không hề cố định. Nếu như cho rằng giữa đời trước và đời sau không có quan hệ gì với nhau thì cũng giống như cho rằng giữa trái bi trắng và trái bi đỏ cả hai không có sự truyền động lượng nào, đây chính “đoạn kiến”. Còn nếu cho rằng thức và nghiệp đã mang sẽ vĩnh viễn không thể thay đổi, cũng tức là cho rằng động lượng của trái bi đỏ trong mọi thời khắc đều như nhau thì đây chính là “thường kiến”. Đối với mối quan hệ nhân quả của đời trước và đời sau, chúng ta phải thoát ly thường kiến và đoạn kiến, mới có thể nhìn rõ được chân tướng của sự thật.
Dưới sự chi phối của nghiệp lực luân hồi, dù có đạt được niềm vui ở cõi trời người nhờ vào phúc nghiệp và bất động nghiệp nhưng vẫn chưa thể thoát ly khỏi hành khổ. Khi hưởng hết phúc báo vẫn có thể bị đọa lạc ác thú. Do đó, chúng ta không nên coi phúc báo cõi trời người làm viên mãn mà nên phát khởi tâm xuất ly không hư dối, tích cực tư duy các pháp tắc hoàn diệt của 12 duyên khởi để có thể đạt được mục tiêu giải thoát tự tại.