Tập luận quyển 4 viết: “Thế nào là Tập đế? Nghĩa là các nghiệp được sinh ra bởi phiền não và sự tăng trưởng của phiền não, đều được gọi là Tập đế”.
Tập đế chính là hai thứ, phiền não (hoặc) và nghiệp hữu lậu, được chia ra như sau:
1) Phiền não mà Tập đế sở nhiếp
Định nghĩa của phiền não là gì? Tập luận quyển 4 viết: “Nếu như khi pháp được sinh khởi thì tướng không tịch tĩnh, vì sự sinh này nên thân tâm (theo đó) biến chuyển không tịch tĩnh tương tục, đó là tướng phiền não”.
Khi một sự vật sự việc nào đó sinh khởi thì hành tướng của nó không tịch tĩnh, khiến thân tâm chúng ta cũng theo đó mà đi vào trạng thái không tịch tĩnh, đây chính là “phiền não”, ví như tâm tham, tâm sân khiến tâm chúng ta không còn bình tĩnh được nữa; thậm chí tâm tình trống vắng và mất phương hướng cũng đều là biểu hiện của tâm bất an, những thứ này đều là phiền não, đều thuộc Tập đế. Phiền não chủ yếu nhất có mười loại, gọi là mười phiền não căn bản, tên gọi và định nghĩa của chúng dựa vào Tập luận quyển 1 như sau:
Tham: ái ở ba cõi (ái nhiễm ở ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).
Sân: khổ và khổ cụ, tâm khuể (sự thống khổ và sự tồn tại của khổ sinh ra oán hận của các loại hữu tình).
Mạn: y chỉ vào Tát già da kiến (thân kiến), tâm cao cử (ở nơi thân tâm, v.v. chấp trước vào ngã và ngã sở mà ngạo mạn).
Vô minh: vô tri về ba cõi (trong ba cõi có hai loại vô tri: một là vô tri về nhân quả, hai là vô tri về vô ngã).
Nghi: do dự về Đế (đối với các chân lý như Tứ thánh đế, v.v. sinh tâm nghi hoặc).
Tát già da kiến (Hữu thân kiến: tức là cho rằng có thân): ở nơi ngũ thủ uẩn, v.v. tùy quán về các loại nhẫn, dục, giác, quán, kiến khi “chấp ngã và ngã sở” (chấp trước vào các loại đồng thuận, cách nghĩ, tri giải, phân biệt, kiến giải của ngã và ngã sở nơi thân tâm, v.v.).
Biên chấp kiến: ở nơi ngũ thủ uẩn, v.v. tùy quán về các loại nhẫn, dục, giác, quán, kiến khi “chấp trước đoạn kiến hoặc thường kiến” (chấp trước vào các loại đồng thuận, cách nghĩ, tri giải, phân biệt, kiến giải về đoạn kiến hoặc là thường kiến nơi thân tâm, v.v.).
Kiến thủ: ở nơi các loại kiến giải và kiến giải nương vào ngũ thủ uẩn, v.v. tùy quán về các loại nhẫn, dục, giác, quán, kiến khi “chấp vi tối, vi thắng, vi thượng, vi diệu” (đối với kiến giải của chính mình và thân tâm dựa vào kiến giải, v.v. chấp trước vào các loại đồng thuận, cách nghĩ, tri giải, phân biệt, kiến giải là tối thắng thượng diệu).
Giới cấm thủ: ở nơi các giới cấm và giới cấm nương vào ngũ thủ uẩn, v.v. tùy quán về nhẫn, dục, giác, quán, kiến khi “chấp (đó là) là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly” (đối với giới cấm mà mình chấp giữ như đảo lập, rửa ruột và thân tâm nơi nương vào của giới cấm, chấp trước vào các loại đồng thuận, cách nghĩ, tri giải, phân biệt, kiến giải là thanh tịnh, giải thoát, xuất ly).
Tà kiến: “Phỉ báng nhân, phỉ báng quả, phỉ báng tác dụng” hoặc “hoại thật sự” hoặc tà kiến phân biệt các nhẫn, dục, giác, quán, kiến (các loại đồng thuận, cách nghĩ, tri giải, phân biệt, kiến giải điên đảo cho rằng không có nhân, quả, tác dụng và thật sự. “Tác dụng” chỉ cho tác dụng qua lại của kiếp trước kiếp sau, và tác dụng tương tục trước sau; “thật sự” chỉ cho giải thoát và A la hán v.v.).
Trong đó, tham, sân và mạn là do phi lý tác ý (tư duy trái với chân lý), đối với đối tượng sinh ra tham nhiễm, oán hận hoặc hạ thấp quá mức. Năm kiến sau được gọi chung là “ác kiến”. Phiền não trong tam giới có thể chia làm hai loại: Phiền não được đoạn trừ khi kiến đạo và phiền não được đoạn trừ khi tu đạo. Tập luận quyển 4 viết: “Hai nhóm phiền não, một là được đoạn nhờ kiến đạo, hai là được đoạn nhờ tu đạo”.
Nhóm phiền não được đoạn nhờ kiến đạo lại có bốn loại: một là nhóm phiền não đoạn nhờ kiến khổ, hai là nhóm phiền não đoạn nhờ kiến tập, ba là nhóm phiền não được đoạn nhờ kiến diệt và bốn là nhóm phiền não được đoạn nhờ kiến đạo.
Phiền não được đoạn nhờ kiến khổ ở Dục giới gồm đủ cả mười loại; giống như phiền não được đoạn nhờ kiến khổ thì các phiền não được đoạn nhờ kiến tập, kiến diệt, kiến đạo cũng như vậy. Trừ sân ra, còn lại chín phiền não được đoạn trừ nhờ bốn loại (kiến khổ, kiến tập, kiến diệt, kiến đạo) ở Sắc giới; cũng như Sắc giới thì Vô sắc giới cũng vậy. Như vậy, nhóm phiền não được đoạn nhờ kiến đạo tổng cộng có 112 phiền não.
Phiền não được đoạn nhờ tu đạo ở Dục giới có sáu loại: Vị câu sinh Tát già da kiến, biên chấp kiến, cho đến tham, sân, mạn, vô minh. Trừ sân ra, còn lại năm phiền não được đoạn nhờ tu đạo ở Sắc giới; như Sắc giới, Vô sắc giới cũng vậy. Như vậy nhóm phiền não đã được đoạn nhờ tu đạo, tổng cộng có 16 phiền não.
Phiền não được đoạn nhờ kiến đạo thuộc Dục giới (được đoạn do thấy Tứ đế) có 40 phiền não, thuộc Sắc giới và Vô sắc giới có 36 phiền não, như vậy tổng cộng có 112 phiền não. Phiền não được đoạn nhờ tu đạo thuộc Dục giới có sáu loại, thuộc Sắc giới và Vô sắc giới mỗi loại có năm phiền não, như vậy tổng cộng có 16 phiền não.
Tu hành Thanh văn đạo là phải đoạn trừ được 112 loại phiền não nhờ kiến (kiến hoặc) và 16 loại phiền não nhờ tu (tư hoặc).
Mười phiền não là tham, sân, v.v. được thuật ở trên; chín phiền não là mười phiền não trên bỏ đi sân; sáu phiền não là tham, sân, mạn, vô minh, Tát già da kiến và biên chấp kiến; năm phiền não là sáu phiền não trên bỏ đi sân.
2) Nghiệp mà Tập đế sở nhiếp
Tập luận quyển 4 viết: “Tư nghiệp và tư dĩ nghiệp được gọi chung là nghiệp tướng”.
Duy thức tông cho rằng, bất luận là thân nghiệp, ngữ nghiệp hay ý nghiệp, bản thân của nghiệp chính là tư tâm sở. Nghiệp tùy vào quả báo dị thục bất đồng, có thể phân loại như sau:
“Dị thục” là chỉ cho quả báo trong sinh tử luân hồi, quả báo sẽ được quyết định bởi tâm thái và hành vi trong lúc người đương sự tạo nghiệp.
“Hắc hắc dị thục nghiệp” là nói tâm thái và hành vi lúc tạo nghiệp đó đều là ác, quả báo đó cũng là ác.
“Bạch bạch dị thục nghiệp” là nói tâm thái và hành vi lúc tạo nghiệp đều là thiện, quả báo đó cũng là thiện.
“Hắc bạch hắc bạch nghiệp” có hai loại, một là tâm thái với mục đích là ác mà hành vi biểu hiện bên ngoài là thiện. Ví dụ muốn lừa gạt người khác mà cố ý thân cận, giúp đỡ. Loại thứ hai là tâm thái thiện mà hành vi biểu hiện bên ngoài là ác. Ví dụ phạt giam giữ người phạm tội. Loại quả báo này chính là thiện ác xen lẫn.
“Phi hắc bạch, vô dị thục, nặng tận chư nghiệp” là một loại tư nghiệp vô lậu. Ví dụ “Khổ pháp trí nhẫn” của tâm ngay sát na đầu tiên khi kiến đạo, chính là tư nghiệp vô lậu. Nghiệp đó là “phi hắc”, bởi vì đã lìa khỏi cấu uế phiền não. Nghiệp đó là “bạch”, là bởi vì thuần túy thanh tịnh. Nghiệp đó là “vô dị thục”, bởi vì tương phản với sinh tử luân hồi. Nghiệp đó là “năng tận chư nghiệp” bởi vì tư nghiệp vô lậu này có thể nhổ trừ hạt giống của nghiệp hữu lậu và nghiệp dị thục. Nên nghiệp này là để đối trị ba loại nghiệp trước, chứ không phải tất cả các nghiệp đều không tốt. Ba loại nghiệp trước là các nghiệp sinh ra từ hai loại phiền não tăng trưởng, là thuộc nghiệp mà Tập đế sở nhiếp. Nghiệp thứ tư thì không phải là nghiệp mà Tập đế sở nhiếp. Nay đem bốn câu về nghiệp và Tập đế xem xét như sau:
Câu thứ nhất: là nghiệp, lại là Tập đế. Câu thứ hai: là nghiệp, không phải là Tập đế. Câu thứ ba: không phải là nghiệp, là Tập đế. Câu thứ tư: không phải là nghiệp, lại không phải là Tập đế. Trong đó, câu thứ nhất là bất thiện nghiệp. Câu thứ hai là tư nghiệp vô lậu. Câu thứ ba ví như tham, không phải nghiệp (mà là “hoặc”), là Tập đế. Câu thứ tư ví như Diệt đế, không phải là nghiệp, cũng không phải là Tập đế.
Trong lúc tu quán, chúng ta phải quán sát bốn hành tướng của Tập đế: Nhân tướng, Tập tướng, Sinh tướng, Duyên tướng.
Nhân tướng: Nhân tướng của Tập đế chính là phá trừ kiến giải sai lầm khổ là “vô nhân”. Kỳ thực, khổ đến từ phiền não và nghiệp hữu lậu. Nghiệp hữu lậu và phiền não cũng chính là nhân tướng của Khổ.
Tập tướng: Tập tướng của Tập đế chính là phá trừ kiến giải sai lầm khổ do “một nhân” sinh ra.
Sinh tướng: Sinh tướng của Tập đế chính là phá trừ kiến giải sai lầm “biến nhân” (tự tính là thường mà xét trên giai đoạn thì lại là vô thường).
Duyên tướng: Duyên tướng của Tập đế chính là phá trừ kiến giải sai lầm “tri tiên nhân” (do nơi Tự tại thiên, v.v. động tâm mà tạo tác ra vạn vật).