Tập luận quyển 5 viết: “Thế nào là Đạo đế? Ý nói nhờ đạo này mà biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo, là nói lược về tướng của Đạo đế”.
Nhờ Đạo đế mà hiểu rõ được quả Khổ, đoạn trừ nhân Tập, chứng ngộ Diệt đế và y vào đó tu Đạo. Trong lúc tu quán, phải tư duy về bốn hành tướng của Đạo đế: Đạo tướng, Như tướng, Hành tướng và Xuất tướng.
Đạo tướng: Đạo tướng của Đạo đế, chính là phá trừ kiến giải sai lầm “vô đạo” (không có đạo giải thoát).
Như tướng: Như tướng của Đạo đế, chính là phá trừ kiến giải sai lầm “tà đạo” (cho rằng trí tuệ vô ngã không phải là đạo giải thoát).
Hành tướng: Hành tướng của Đạo đế, chính là phá trừ kiến giải sai lầm “dư đạo” (cho rằng đạo khác, như thiền định thù thắng là đạo giải thoát).
Xuất tướng: Xuất tướng của Đạo đế, chính là phá trừ kiến giải sai lầm “thoái đạo” (cho rằng vốn không có đạo đoạn khổ).
Trong khi tu hành, toàn bộ Đạo có thể chia thành năm tầng lớp, Tập luận quyển 5 viết: “Đạo có năm loại, chính là Tư lương đạo, Gia hành đạo, Kiến đạo, Tu đạo và Cứu cánh đạo”.
Quá trình tu hành của Thanh văn, Độc giác và Bồ tát đều y vào thứ lớp, trải qua Tư lương đạo, Gia hành đạo, Kiến đạo và Tu đạo mà đạt được Cứu cánh đạo. Hành giả Thanh văn lúc đạt đến Cứu cánh đạo chính là quả Thanh văn A la hán, hành giả Độc giác lúc đạt được Cứu cánh chính là quả Độc giác A la hán, hành giả Bồ tát lúc đạt được cứu cánh chính là quả Phật. Hành giả Thanh văn và Độc giác, lúc nào mới được xem là nhập vào Tư lương đạo vậy? Chỉ lúc mà “bất kỳ hành giả tu hành nào phát khởi tâm xuất ly không hư ngụy” mới được xem là nhập vào Tư lương đạo, nếu không thì không được. Đối với hành giả Bồ tát là lúc “phát khởi tâm Bồ đề không hư ngụy” thì mới xem như đã nhập vào Tư lương đạo của Bồ tát, nếu không cũng không được xem là đã vào.
Bây giờ y cứ vào Tập luận, đem nội dung tu tập trong ngũ đạo của Thanh văn phối hợp với 37 pháp Bồ đề phần (từ Tứ niệm trụ cho đến Bát thánh đạo), xếp theo bảng biểu sau, rồi tiến hành phân tích rõ.
Tư lương đạo phân thành ba phẩm thượng, trung, hạ. Hạ phẩm là tu Tứ niệm trụ (Thân niệm trụ, Thọ niệm trụ, Tâm niệm trụ, Pháp niệm trụ); trung phẩm là tu Tứ chính đoạn (việc ác chưa sinh khiến cho không sinh, việc ác đã sinh khiến cho đoạn diệt, việc thiện chưa sinh khiến cho sinh khởi, việc thiện đã sinh khiến cho tăng trưởng); thượng phẩm là tu Tứ thần túc (Dục thần túc, Cần thần túc, Tâm thần túc, Quán thần túc). Theo quan điểm của Biện trung biên luận phẩm 4, tu “quán thân bất tịnh” trong Tứ niệm trụ là để thông đạt được Khổ đế, “quán thọ thị khổ” là để thông đạt được Tập đế, “quán tâm vô thường” là để thông đạt được Diệt đế, “quán pháp vô ngã” là để thông đạt Đạo đế. Tứ chính đoạn thuộc pháp tu trung phẩm là lấy “tinh thần” làm thể tính, đối với đạo lý của Tứ thánh đế càng phải tiến thêm bước nữa để tu. Tứ thần túc thì tiếp tục phối hợp với thiền định khiến việc tu Tứ thánh đế sẽ càng trở nên thành thục hơn.
Sau khi viên mãn Tư lương đạo thì sẽ tiến vào Noãn vị của Gia hành đạo. Noãn, Đỉnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp gọi chung là bốn thiện căn hoặc bốn gia hành. Gia hành đạo là công tác chuẩn bị trước khi vào Kiến đạo, nội dung cũng là quán tu 16 hành tướng của Tứ đế. Hai gia hành Noãn và Đỉnh, tu phát ra Ngũ căn (Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn); hai gia hành Nhẫn và Thế đệ nhất pháp tu phát ra Ngũ lực (Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực). Sau Thế đệ nhất pháp lại tiến thêm tới Kiến đạo vị mà trở thành thánh giả, lúc này đầy đủ Thất đẳng giác chi (Niệm đẳng giác chi, Trạch pháp đẳng giác chi, Tinh tấn đẳng giác chi, Hỷ đẳng giác chi, Khinh an đẳng giác chi, Định đẳng giác chi, Xả đẳng giác chi).
Theo quan điểm của Duy thức tông, Kiến đạo vị tổng cộng có 16 sát na tâm. Sát na tâm thứ nhất của Kiến đạo được gọi là “Khổ pháp trí nhẫn”, là Vô gián đạo, đối tượng quán chiếu chính là bốn hành tướng của Khổ đế, lúc này có thể đoạn mười phiền não căn bản nhờ kiến khổ trong Dục giới. Sát na tâm thứ hai được gọi là “Khổ pháp trí”, là Giải thoát đạo. Vô gián đạo giống như đuổi giặc ra khỏi cửa, Giải thoát đạo giống như đóng cửa lại. Sát na tâm thứ ba được gọi là “Khổ loại trí nhẫn”, lúc này đã đoạn chín phiền não trong Sắc, Vô sắc giới. Sát na tâm thứ tư chính là “Khổ loại trí”. Cũng theo đạo lý đó, mỗi loại kiến tập, kiến diệt và kiến đạo cũng đều có bốn sát na. Như vậy, lần theo thứ tự của Khổ, Tập, Diệt, Đạo, từng bước từng bước đoạn trừ đi 112 phiền não nhờ kiến đạo trong Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Sau khi đã diệt trừ được rồi liền chứng đắc “Dự lưu quả” (Ghi chú: theo quan điểm của Thuyết hữu bộ, 15 sát na tâm trước là Kiến đạo vị, sát na tâm thứ 16 là thuộc Tu đạo vị).
Tám chi thánh đạo (Bát thánh đạo chi) của Tu đạo vị (Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn, Chính niệm, Chính định) là đạo chỉ thánh giả mới có, tức là nắm chắc chân lý vô ngã mọi lúc ngay trong cuộc sống hằng ngày, khiến nó được thuần thục rồi sau chỉ dạy cho chúng sinh. Trong Tu đạo vị, đối với sáu loại phiền não cần phải đoạn nhờ tu đạo ở Dục giới thì mỗi loại được phân thành chín phẩm, lúc đoạn trừ được sáu phẩm ban đầu thì chứng được Nhất lai quả; khi đoạn trừ được ba phẩm còn lại thì chứng đắc được Bất hoàn quả; sau khi đã hoàn toàn đoạn trừ năm loại phiền não (mỗi loại phân làm chín phẩm) cần phải đoạn nhờ tu đạo ở cõi Sắc giới và Vô sắc giới thì sẽ tiến vào Cứu cánh đạo mà chứng đắc A la hán. Nay đem tất cả phiền não cần phải đoạn trong tam giới đã được nêu ở trên, liệt kê thành bảng biểu như sau: