Trước khi phát tâm Bồ đề, nhất định phải phát khởi tâm đại bi trước, Đại thừa bảo yếu nghĩa luận quyển 2 viết: “Nên biết người phát đại Bồ đề tâm thì lấy tâm đại bi làm thầy dẫn đường”.
Phát khởi tâm đại bi, lại cần phải lấy Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) làm căn bản. Ý nghĩa của Tứ vô lượng tâm là gì? Câu xá luận quyển 29 viết:
“Làm thế nào để khiến cho các loài hữu tình đạt được sự an lạc như vậy? Tư duy như vậy, vào Từ đẳng chí.
Làm thế nàọ để khiến cho các loài hữu tình thoát ly khổ như vậy? Tư duy như vậy, vào Bi đẳng chí.
Các loài hữu tình lìa khổ được vui há chẳng phải mau chóng sao? Tư duy như vậy, vào Hỷ đẳng chí.
Các loài hữu tình bình đẳng bình đẳng, không có thân oán! Tư duy như vậy, vào Xả đẳng chí”.
Do đó có thể biết, tâm từ là tâm khiến cho chúng sinh được đầy đủ an lạc và nhân của an lạc; tâm bi là tâm khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn rời khổ và nhân của khổ; tâm hỷ là tâm tùy hỷ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui; tâm xả là tâm viễn ly tất cả sự yêu ghét đối với chúng sinh, trụ nơi xả bình đẳng. Bản chất của từ là vô sân; bản chất của bi là bất hại; bản chất của hỷ là hỷ thọ; bản chất của xả là vô tham.
Thế nào là “vô sân”, “bất hại”, “vô tham” vậy? Đại thừa ngũ uẩn luận viết:
“Thế nào là vô sân? Chính là đối trị sân, lấy từ làm tính”.
“Thế nào là bất hại? Chính là đối trị hại, lấy bi làm tính”.
“Thế nào là vô tham? Chính là đối trị tham, khiến (chúng sinh) chán ghét (sinh tử) sâu sắc, lấy không chấp trước làm tính”.
Do đó có thể biết, không khởi lên tâm sân và tâm làm tổn thương đối với chúng sinh thì đó là biểu hiện của từ; tùy hỷ đối với niềm vui của chúng sinh, đó là biểu hiện của bi; không khởi tâm phân biệt người thân hay kẻ lạ với chúng sinh, chính là biểu hiện của hỷ và xả. Muốn đạt được loại tâm lý này thì phải lần lượt nhớ nghĩ đến chúng sinh đều đã từng là cha mẹ mình, mà sau đó nghĩ nhớ ân đức của họ, lại phải nghĩ rằng chính mình cũng cần phải báo đáp ân đức của họ. Từng bước từng bước suy nghĩ sâu sắc như vậy, sau đó sẽ sinh khởi tâm từ và tâm bi. Dùng những phương pháp cơ bản này, tiến thêm một bước nữa mới có thể phát khởi tâm “gánh vác mọi thống khổ cho tất cả chúng sinh”, có thể phát khởi được tâm này, chính là “tâm đại bi”.
Có được tâm đại bi rồi, kế tiếp sinh khởi tâm “vì muốn diệt trừ khổ đau của chúng sinh mà thượng cầu Vô thượng Bồ đề”, đây chính là “phát tâm Bồ đề”. Hiện quán trang nghiêm luận viết: “Phát tâm làm lợi tha, cầu chính đẳng Bồ đề”.
Nửa bài tụng này rõ ràng chỉ ra “phát tâm” bao gồm hai nguyện vọng: Một là tâm nguyện hạ hóa chúng sinh (lợi tha); hai là tâm nguyện mong muốn thượng cầu Phật đạo (cầu chính đẳng Bồ đề). “Tâm hy vọng” (gọi tắt là Dục) và “Tâm tham dục” (gọi tắt là Tham) là hai tâm sở có bản chất không giống nhau, phải phân biệt rõ ràng. Tập luận quyển 1 viết:
“Thế nào là tham? Ái nhiễm trong ba cõi là thể, khổ đau của chúng sinh là nghiệp”.
“Thế nào là dục? Từ tất cả niềm vui mà dẫn phát sự mong cầu là thể, nơi nương tựa của chính cần là nghiệp”.
Do đó có thể biết, tham là tâm lý nhiễm trước đối với tất cả những hiện tượng trong tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), là một loại phiền não (hoặc) mãnh liệt, vì vậy mà sinh ra vô vàn khổ đau. Dục là đối với tất cả niềm vui ham thích khởi lên tâm mong cầu, do đó mà nỗ lực hành động. Trong khi phát tâm, phải có sự kết hợp của hai loại dục tâm là “dưới hóa độ chúng sinh” (hạ hóa chúng sinh) và “trên cầu Phật đạo” (thượng cầu Phật đạo).
Trên đây đã phân tích rõ ràng căn bản của sự phát tâm và các tâm lý liên quan. Có thể thấy được, trước khi phát tâm Bồ đề, nhất định phải lấy tâm đại bi làm nền tảng căn bản trước, đồng thời phải phối hợp với sự sâu rộng của “văn, tư, tu”, như vậy tâm Bồ đề được phát khởi mới chân thành khẩn thiết, mới có thể lâu dài được.
Để phát tâm được chân thành tha thiết, Bồ tát Tịch Thiên đặc biệt chỉ dạy phương pháp “hoán đổi giữa mình và người”: luôn đặt vị trí của mình vào người khác. Trong lúc chuyển đổi, cần phải nhận thức rằng chúng ta sở dĩ không ngừng luân hồi sinh tử, là bởi vì “yêu mình quên người”. Tiến thêm một bước, là phải thể hội và nhận thức được rằng “yêu người quên mình” (tích cực đi nhổ trừ gốc rễ khổ đau của người khác, mà không màng đến niềm vui của chính mình), đó mới là công đức. Thay đổi lại cách suy nghĩ vốn có được như vậy, thì có thể bắt đầu lội ngược dòng mà thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Trong quá trình chuyển ngược tư duy, có hai loại tâm lý chướng ngại cần phải bài trừ. Chướng ngại thứ nhất là cho rằng: “Anh là anh, tôi là tôi, cả hai căn bản tuyệt nhiên không có sự liên quan nào, tôi hà tất phải đặt vị trí vào anh?” Phương pháp để loại trừ tâm lý này là nghĩ, chính mình và người kia không phải hoàn toàn không có quan hệ. Ta và người cùng nhau quan tâm đối đãi, cùng dựa vào nhau mà tồn tại, cả hai mặt nhân ngã đều không có tính thực tại, đều không có tính độc lập thuần túy, do đó mà không phải hoàn toàn không có quan hệ gì.
Chướng ngại thứ hai cho rằng đau khổ của người khác thì có liên hệ gì tới ta? Cách để trừ bỏ chướng ngại này là phải nghĩ rằng tất cả những thọ dụng ăn mặc của ta, không một thứ nào là không nhờ vào sự lao động của người khác mà có, cho nên phải nghĩ tới cái ơn của người khác. Hoàn cảnh tốt hay xấu cũng có sự ảnh hưởng trực tiếp đối với chúng ta, tuyệt không phải là không liên quan. Đồng thời phải thể nhận được rằng chúng sinh đều từng là cha mẹ của ta, trước kia đã chăm sóc khi ta đau khổ, bây giờ đau khổ của họ, đương nhiên chúng ta phải gánh vác. Thông qua những suy nghĩ này, có thể biết được nỗi khổ của họ với chúng ta không phải hoàn toàn không có liên hệ.
Sau khi trừ đi hai chướng ngại nói trên, mới có thể không màng đến niềm vui của chính mình, tích cực nhổ trừ sự đau khổ cho người khác. Cứ như vậy lần lượt sinh ra tâm từ, tâm bi và tâm đại bi, chân chính đạt được phép “hoán đổi giữa mình và người”, chân chính phát khởi được tâm Bồ đề.