Sau khi phát Bồ đề tâm, thì phải tích cực thực hành Lục độ Tứ nhiếp, đây chính là “hành Bồ đề tâm”. Sau khi phát nguyện Bồ đề tâm, Bồ tát phải trải qua vô số kiếp để thực hành Lục độ Tứ nhiếp, một mặt tích lũy tư lương phúc đức, một mặt tích lũy tư lương trí tuệ, đó là biểu hiện cụ thể của hành Bồ đề tâm. Lục độ Tứ nhiếp được hàm nhiếp trong hành Bồ đề tâm như sau:
Bố thí: Pháp thí, Vô úy thí, Tài thí.
Tịnh giới: Luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới.
An nhẫn: Nại tha oán hại nhẫn, An thọ chúng khổ nhẫn, Pháp tư thắng giải nhẫn.
Tinh tấn: Hoàn giáp tinh tấn, Nhiếp thiện tinh tấn, Nhiêu ích hữu tình tinh tấn.
Tĩnh lự: Hiện pháp lạc trú tĩnh lự, Năng dẫn Bồ tát đẳng trì công đức tĩnh lự, Nhiêu ích hữu tình tĩnh lự.
Bát nhã: Thông đạt thắng nghĩa tuệ, Thông đạt thế tục tuệ, Thông đạt nhiêu ích hữu tình tuệ.
Bố thí nhiếp: Bố thí (pháp) cho đại chúng khiến họ trở thành bậc pháp khí.
Ái ngữ nhiếp: Khai thị Lục độ cho đại chúng khiến họ đạt được thắng giải.
Lợi hành nhiếp: Khiến cho đại chúng nương vào Lục độ mà thực hành.
Đồng sự nhiếp: Dạy mọi người tu hành Lục độ, lấy chính mình làm mô phạm cho người.
Lục độ lấy việc thành thục tự thân là chủ yếu, Tứ nhiếp lấy việc thành thục tha nhân làm chủ yếu.
Nhằm thiết thực nỗ lực thực hành được Lục độ, chúng ta trước tiên phải hiểu rõ về ý nghĩa Lục độ. Du già sư địa luận quyển 39 viết:
“Thế nào là Bồ tát tự tính thí? Chính là các vị Bồ tát đối với tài vật của chính mình không có sự luyến tiếc, có thể bố thí được tất cả những tài vật cần thí, không khiến suy nghĩ đồng hành với tham nhân đây phát khởi, có thể bố thí tất cả vật thí thanh tịnh. Hai nghiệp thân, ngữ an trụ luật nghi. Tùy thuận A cấp ma kiến và Định hữu quả kiến, tùy theo đối tượng mong cầu mà hành ân huệ thí”.
Do đó có thể biết được rằng, bản chất của bố thí là lấy “Tư tâm sở” của vô tham làm chủ yếu, lại phối hợp liên quan với thân nghiệp và ngữ nghiệp. Cho nên, bố thí tuyệt nhiên không phải chỉ là lời nói hành động biểu hiện bên ngoài, mà là coi ý nghiệp của nội tâm làm chính. Nếu có thể hoàn toàn phá trừ tâm keo kiệt, hơn nữa còn đem tài sản và các căn lành, v.v. thành tâm thí cho người, thì viên mãn được “Bố thí Ba la mật đa”. Thực hành bố thí phải có sự kết hợp của trí tuệ, phải phù hợp với giới luật, phù hợp với kiến giải trong kinh điển, ví dụ những vật phẩm có hại thì không thể thí cho người khác.
“Tịnh giới”, Phạn văn là “Thi la”, là “làm cho ý bỏ đi tâm tổn hại người khác”. Nếu có thể đem tâm tổn hại người khác hoàn toàn đoạn trừ sạch sẽ, đồng thời nỗ lực tinh tấn, thì có thể viên mãn được “Tịnh giới Ba la mật”.
Tiếp nữa là phần trình bày về An nhẫn, Du già sư địa luận quyển 42 viết:
“Thế nào là Bồ tát tự tính nhẫn? Chư Bồ tát hoặc nhờ sức tư duy chọn lựa điều đúng đắn làm chỗ nương tựa, hoặc do tự tính kham nhẫn tất cả oán hại, nên rộng khắp tất cả đều năng kham nhẫn. Do tâm vô nhiễm thuần bi mẫn, nên năng kham nhẫn”.
“An nhẫn” là đối trị tâm sân, tâm khiếp nhược và tâm không cầu thắng giải. Ngoài việc dùng tâm bi mẫn, nhẫn nhục sự tổn hại trực tiếp từ người khác và tất cả những khổ đau mà tự thân phải chịu ra thì vẫn còn một loại an nhẫn khác, đó là khi học tập Phật pháp, đối với chỗ thâm thúy khó hiểu, cũng phải cố gắng vượt qua, để hiểu rõ điểm mấu chốt thù thắng. Nếu có thể đem tâm sân, tâm khiếp nhược và tâm không cầu thắng giải hoàn toàn diệt trừ sạch sẽ, thì có thể viên mãn được “An nhẫn Ba la mật”.
Tiếp theo, Du già sư địa luận quyển 42 viết: “Thế nào là Bồ tát tự tính tinh tấn? Chư Bồ tát với tâm dũng mãnh ấy, có thể nhiếp thọ vô lượng thiện pháp, lợi ích an lạc tất cả hữu tình, mãnh liệt không ngừng, không có điên đảo, để từ đó mà động thân ngữ ý”.
“Tinh tấn” là nhằm vào đối tượng thiện lành mà khởi tâm dũng mãnh, từ đó thúc đẩy sinh ra hai nghiệp thân, ngữ.
Lại thảo luận về bản chất của “tĩnh lự”, Du già sư địa luận quyển 42 viết: “Thế nào là Bồ tát tự tính tĩnh lự? Chư Bồ tát ở nơi Bồ tát tạng lấy văn, tư làm tiền dẫn, tâm nhất cảnh tính của tất cả diệu thiện thế gian và xuất thế gian, tâm chính an trụ vào Xa ma tha phẩm, hoặc Tỳ bát xá na phẩm, hoặc cùng vận dụng để thông cả hai phẩm.
“Tĩnh lự” là một loại tâm lý diệu thiện mà trong đó đem tâm tập trung vào một đối tượng đang suy nghĩ đến mà không để cho tán loạn, có loại chỉ là “chỉ” đơn thuần (Xa ma tha), có loại liên quan với “quán” (Tỳ bát xá na), có loại “vận dụng gồm cả chỉ quán”.
Du già sư địa luận quyển 43 viết: “Thế nào là Bồ tát tự tính tuệ? Đó là Bồ tát có thể ngộ nhập tất cả sở tri (những gì mình biết), đã ngộ nhập vào tất cả sở tri thì chọn lựa các pháp đó, duyên vào khắp tất cả Ngũ minh xứ mà chuyển: Nội minh xứ, Nhân minh xứ, Y phương minh xứ, Thanh minh xứ, Công nghiệp minh xứ”.
“Bát nhã” là “đối với đối cảnh sở quán có thể chọn lựa các pháp”, là đối với sự vật được quán sát, sinh khởi một loại tâm lý phân tích, tư duy. “Bát nhã Ba la mật đa” mà Bồ tát thực hành là rộng chỉ cho “trí tuệ thông đạt Ngũ minh”. Ngũ minh là Nội minh (Phật học), Nhân minh (Logic học), Y phương minh (Y học), Thanh minh (Ngôn ngữ học), Công nghiệp minh (Khoa học kỹ thuật). Bồ tát cần thông đạt Ngũ minh, chủ yếu vẫn là để độ hóa chúng sinh.