Nơi anh sinh là vùng quê Liên Hòa, xã Thanh Liên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nơi anh ngã xuống là dòng sông Thạch Hãn, Quảng Trị, dòng sông của nhiều anh hùng liệt sĩ đã vĩnh viễn để lại tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc trong các cuộc chiến tranh. Anh hy sinh không phải trong chiến tranh mà là khi đất nước đang từng ngày đổi mới, ở cái tuổi sung sức nhất của đời người, tuổi bốn mươi lăm.
Anh là Trung tá Lê Văn Phượng - Trợ lý chính trị Ban Chỉ huy Quân sự thị xã Quảng Trị, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị, Quân khu 4, vùng đất lửa anh hùng.
Nơi sinh ra anh là vùng quê nghèo thuần nông có gần năm mươi ki-lô-mét đường biên giáp với nước bạn Lào. Thanh Chương, quê hương của phong trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh cũng là huyện nghèo của tỉnh Nghệ An hiện nay. Xã Thanh Liên là một trong những xã nghèo nhất huyện và xóm nhỏ Liên Hòa, nơi người mẹ ngót nghét chín mươi tuổi và người vợ, ba đứa con nhỏ của anh đang sống cũng là vùng đất luôn phải hứng chịu thiên tai dày đặc từ hạn hán, lũ lụt, gió lốc mà đôi khi con người không thể giải thích được.
Trước những người lính chúng tôi, mẹ Nguyễn Thị Khơi đang nằm đó trong căn nhà ba gian bão vừa làm tốc mái mà anh đã hứa với mẹ sẽ lợp lại trong đợt phép cuối năm. Nhưng lời hứa đã không thể thực hiện được nữa. Căn nhà trống hoác, gió bấc quất từng đợt răng rắc trên những tấm lợp prô xi măng xám xịt sứt mẻ nham nhở. Mọi người đều chìm vào im lặng. Chúng tôi không biết nói gì với mẹ, chỉ biết lặng lẽ gom những gộc củi chất vào chiếc chậu nhôm đặt sát giường đang ngùn ngụt bốc khói như một đám cháy nhà. Từng giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ lèo xèo vào than nóng. Mẹ đã không nói một câu nào sau khi biết anh hy sinh và cũng từ đấy mẹ không dậy được nữa. Đôi mắt đột nhiên hoàn toàn không nhìn thấy gì kể từ lúc chiếc lá vàng run rẩy trước gió chứng kiến chiếc lá non xanh, chiếc lá đầu đàn, trụ cột của gia đình rời bỏ mẹ. Không bao giờ mẹ nghĩ đến điều này. Càng không bao giờ những người ngồi bên mẹ tin đó là sự thật. Mẹ sinh được bảy đứa con trong đói nghèo, lam lũ, giặc giã triền miên. Rồi mẹ nuôi con một mình, người chồng, cha của bảy đứa con sớm rời về thế giới bên kia để lại chiếc thuyền nhỏ chèo chống nơi bến nước sông Lam thui thủi. Bao nhiêu nước sông Lam là bấy nhiêu cơ cực, tủi hờn, gian nan và thiệt thòi của mẹ. Anh là con cả, phía sau là những người em lam lũ, vất vả, đánh vật với hạt lúa củ khoai nơi vùng đất nghèo của dải đất miền Trung bão gió. Trong cơn bão định mệnh ấy, khi anh vừa điện về dặn vợ gom góp mấy tấm lợp để anh về sửa nhà cho mẹ vừa bị bão cuốn thì chính anh, ngay trong mờ sáng ngày 30 tháng 9 năm 2009, ngay sau lời hứa đã cùng đồng đội lao vào một cơn bão khác đang giáng xuống những người mẹ, những đứa trẻ thơ bên dòng Thạch Hãn. Và thật bàng hoàng, anh đã không thực hiện được lời hứa với mẹ mình.
Chúng tôi ngồi im xung quanh bên mẹ nhưng cũng biết rằng chẳng thể ngăn những cơn gió lạnh đang thổi vào tuổi già của mẹ. Và ngọn lửa, như cũng chẳng thể cất lên được ấm hơn, chỉ khói là cứ quẩn quanh cay mắt mọi người, cả trong hốc mắt đã không còn nước thấm ra của mẹ. Ngoài trời xuống dưới năm độ dương, cái mưa rét lâm thâm của miền Trung nơi biên viễn như xé nát tâm tư của mọi người. Tôi đã vượt vài trăm cây số đến bên dòng Thạch Hãn, nơi anh hy sinh và vội vã trở về đây chỉ định để nói với mẹ một điều gì nhưng đã không thể cất được thành lời nữa. Tôi biết nói gì đây khi mẹ cũng đã biết những người Bộ đội Cụ Hồ bao giờ chả xông vào nơi nguy hiểm nhất bên nhân dân, bên những người mẹ, người cha, trẻ thơ nơi nước xiết, nơi bão lốc, nơi súng nổ. Tấm lòng của mẹ bao dung và rộng lượng, để có thể chứa đựng và chịu đựng được những nỗi đau vượt quá sức chịu đựng của một con người. Đã nhiều tháng nay mẹ không nói nữa thì chắc hẳn nỗi đau ấy đã lặn sâu vào trong tim mẹ, nó như những con trai già ở dưới dòng Giăng, sông Lam, sông La, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, dòng Thạch Hãn, hay như dòng sông Cái - sông Hồng ngoài kia đang ứa máu mình ngậm ngọc. Chúng tôi bỗng cảm thấy ấm hơn khi ngồi bên mẹ, tại sao lại chính là mẹ chứ không phải ai khác đang truyền ngọn lửa ấm vững sang cho những người con.
Căn nhà bỗng trở nên rộng mênh mông kể từ ngày anh mất. Vợ anh, người phụ nữ lam làm, rau cỏ, người vợ tấm cám giần sàng lầm lụi trong căn nhà nhỏ. Chị thảng thốt mang ra những lá thư, những lá thư ố vàng nước thời gian bỗng nhiên trở thành nguồn an ủi với người phụ nữ. Chị sút hơn mười cân và dường như chỉ có sự kỳ diệu bản năng của người mẹ nơi chị khi nghĩ đến ba đứa con thơ đã giúp chị trụ vững ở cuộc đời này. Người phụ nữ lặng lẽ bên ba đứa con nhỏ, cậu út Lê Xuân Toan bốn tuổi bi bô nghịch ngợm và đột nhiên hỏi chúng tôi: “Sao hôm nay bố cháu không về. Hôm trước bố hứa đã mua đồ chơi cho cháu. Chốc nữa bố cháu có về không, hay là phải đợi đến ngày mai, ngày kia hả chú?”. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, một đồng đội đứng dậy châm nén hương trên bàn thờ liệt sĩ. Thằng bé hồn nhiên bảo: “Ảnh bố cháu đấy, nhưng sao lâu quá bố cháu không về nhỉ?”. Cô con gái lớn của anh chị đang học lớp 11 ngồi như hóa đá bên mẹ không khóc mà nước mắt cứ rịn ra. Tuổi thanh nữ của Lê Thị Phương Thúy đã sớm bị ông trời giáng xuống đòn mồ côi khi mà cháu đang rất cần những động viên, khích lệ, tâm tình, tư vấn của người cha, của người lính mà cháu lúc nào cũng thần tượng. Cậu con thứ hai Lê Xuân Thắng đã phải tạm thời nghỉ học vì em vốn mắc bệnh tim, mấy tháng nay, kể từ khi nỗi đau giáng xuống em ngất lên ngất xuống và phải thường xuyên nằm viện vì suy sụp. Những con chim non ngơ ngác trong chính cái tổ của mình. Cậu bé Thắng ngơ ngẩn như mất hồn, biếng ăn, sút cân, và hầu như toàn im lặng. Tôi cũng có một đứa con trai học lớp tám và chúng tôi quá hiểu vai trò của bố mẹ trong lứa tuổi đang vỡ ra mọi nhẽ ở đời từng ngày từng giờ này. Ai dám nghĩ những lo lắng lại sớm đến với những đứa trẻ mồ côi như vậy? Đất nước đang thanh bình, làm gì có chiến tranh giặc giã mà tính đến chuyện hy sinh. Có những sự thật không sao tin được. Chị Phan Thị Hương, vợ Liệt sĩ Lê Văn Phượng mân mê những lá thư ố vàng, rách thủng lỗ chỗ. Anh Phượng vốn là học sinh giỏi văn của tỉnh và trong hàng trăm lá thư với những lời lẽ, vần thơ, ước mơ giản dị đến thắt lòng chỉ có ở những người lính xa nhà đang cứa vào chúng tôi những đớn đau dằn vặt. Trong một lá thư anh chép: “Đời anh sẽ nghèo đi biết mấy/ Nếu mẹ hiền ngày trước chẳng sinh em... Thơ anh viết ấm từng nét chữ/ Gửi về em tất cả tấm lòng/ Từng hàng cây ngọn cỏ dòng sông/ Đều sóng sánh trái tim người lính...”. Chị bảo anh hay làm thơ tặng chị lắm. Chị thuộc tất cả thơ anh. Có những lý do không thể giải thích được như tại sao những người lính đều yêu văn thơ đến vậy. Hay phần vật chất quá nghèo nên họ chú tâm vào bồi dưỡng tâm hồn chăng. Hay hồn cốt dân tộc Việt là như thế. “Nếu tìm những người lính/ Tìm những người lính thường/ Thì tìm trong dáng đá/ Vọng Phu qua gió sương...”. Thơ ở đâu chợt thầm thì dâng lên ở trong tôi. Tôi thoáng bàng hoàng, rùng mình ngẫm ngợi. Người phụ nữ này sẽ trở thành hòn đá Vọng Phu ư? Khi chị chưa đầy bốn mươi tuổi? Sẽ có bao nhiêu hòn đá Vọng Phu nữa là vợ những người lính thường phải là câu hỏi được đặt ra chứ. Nhưng ai sẽ trả lời những câu hỏi ấy đây? Câu hỏi cứ vang sâu âm ỉ chắc không chỉ trong trí não của riêng một người nào.
*
Cái khoảnh khắc định mệnh ấy...
Ngày 29 tháng 9 năm 2009, sau khi ăn cơm chiều xong, khi cơn bão số 9 có cường độ rất mạnh vừa ập đến, Trung tá Lê Văn Phượng nhận mệnh lệnh cùng đồng đội đi giúp một số gia đình người dân gần đơn vị chuyển đồ đạc, gia súc, gia cầm đến vị trí an toàn. Đến hai giờ sáng ngày 30 tháng 9, sau khi nhận lệnh của Ban chỉ huy Quân sự thị xã, anh cùng ba đồng chí trong đơn vị và một cán bộ của Văn phòng Ủy ban nhân dân thị xã đi ứng cứu nhân dân ở phường 2, thị xã Quảng Trị. Đang trên đường đi, các anh nghe tiếng kêu cứu ở khu vực xã Triệu Thành, Triệu Phong. Những người lính lập tức hướng về nơi có tiếng kêu cứu. Trong đêm tối, vật lộn với dòng nước xiết, các anh luồn lách đưa ca nô vào các ngõ hẻm cứu dân. Anh cùng đồng đội dìu những người bị nạn lên ca nô để đưa lên trụ sở Ủy ban nhân dân xã Triệu Thành. Trên ca nô thấy các cháu nhỏ bị ướt, rét run lập cập, anh cởi ngay tấm áo mưa duy nhất của mình che cho các cháu, còn mình thì đội mưa, chịu rét tiếp tục làm nhiệm vụ. Đêm đó anh đã cùng đồng đội cứu được bảy người dân chuyển đến vị trí an toàn.
Tảng sáng ngày 30 tháng 9, ca nô bị hỏng chân vịt do hoạt động quá nhiều nhưng anh cùng đồng đội trong đêm tối vẫn quyết tâm tiếp tục cứu dân. Ban chỉ huy quân sự thị xã điều thêm một chiếc khác cho tổ của anh để có phương tiện làm nhiệm vụ và đưa ca nô hỏng về vị trí an toàn. Rạng sáng ngày 30 tháng 9, tổ đi làm nhiệm vụ của anh vừa trở về đơn vị thì lại nhận được tin nhân dân khu phố 1, khu phố 2 và xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị kêu cứu, Ban chỉ huy quân sự tiếp tục cử lực lượng đi cứu dân. Mặc dù đã dầm mình trong nước lũ suốt đêm, sức khỏe giảm sút nhưng Lê Văn Phượng vẫn xung phong đi. Chiếc ca nô của tổ cơ động đến cầu Thạch Hãn thì bị nước lũ xoay mắc kẹt ở mố cầu. Anh cùng đồng đội vật lộn với dòng nước lũ cố gắng cứu ca nô để không bị lật và tìm cách chuyển hướng. Anh cùng các đồng đội gắng sức bám vào mố cầu để khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Tuy sức lực đã cạn kiệt nhưng khi thấy trên ca nô còn đồng chí mình đang bị uy hiếp đến tính mạng, anh nhảy ngay xuống ca nô, đẩy mũi ca nô ra khỏi mố cầu để anh em thoát hiểm. Dòng nước chảy quá xiết nhấn chìm ca nô, đồng chí Quang và anh bị xoáy nước nhấn chìm. Lê Văn Phượng đã anh dũng hy sinh lúc 7 giờ 15 phút ngày 30 tháng 9 năm 2009.
Đó cũng là nội dung ghi trong hồ sơ đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Trung tá Lê Văn Phượng.
Tôi chưa thấy nội dung đề nghị truy tặng anh hùng nào giản dị, xúc động, ngắn gọn và ám ảnh đến thế.
Nó cũng chính là tấm lòng bình dị của người lính đối với nhân dân.
*
Trò chuyện với chúng tôi, người cha Phan Nguyên, bố vợ Liệt sĩ Lê Văn Phượng năm nay đã bước sang tuổi tám mươi tám nhưng còn khá minh mẫn, rất kiệm lời. Trong bốn người con rể, ông quý cậu rể út nhất. Mỗi khi sang thăm cha vợ, người lính Lê Văn Phượng thường mang hai chiếc bánh đa vừng và hai chai bia Hà Nội để bố con lai rai nói chuyện đồng áng, học hành, sức khỏe và anh thường biếu cha bộ quần áo cũ. Người cán bộ lão thành từng đảm đương nhiệm vụ Trưởng ban Dân tộc Miền núi của tỉnh Nghệ An ngồi lặng phắc như một pho tượng, mắt nhìn mãi lên ban thờ có tấm ảnh cậu rể út. Từng trải qua mấy cuộc chiến tranh, từng chứng kiến vô vàn nỗi đau không nỗi đau nào giống nỗi đau nào, làm công tác tuyên truyền vận động, chia sẻ những mất mát hy sinh với bà con nhân dân đã hơn sáu mươi năm nhưng giờ đây ông không biết nói với cô con gái út của mình như thế nào. Từ hôm con rể mất, cứ ngày ngày, người cha già lặng lẽ đạp xe đến với cô con gái và các cháu. Lặng lẽ nhìn con mà như thấy đứt từng khúc ruột. Nỗi đau như vón cục cuộn trong tảng trán cương nghị của người cán bộ lão thành. Lê Văn Phượng sớm mồ côi cha. Anh luôn coi bố vợ như cha đẻ của mình. Bao nhiêu buồn vui, mơ ước, dự định đều bàn bạc với cha. Bây giờ ông không còn được nghe tiếng nói của đứa con hiếu thuận nữa. Ngày hai đứa cưới nhau, gia đình anh Phượng nghèo lắm, nghèo đến mức không lo được đám cưới phải nhờ đơn vị, khi ấy anh công tác ở Đoàn 324. Anh chị cưới nhau ngày 18 tháng 10 năm 1990. Khi ấy cả nước đói chứ riêng gì anh chị. Sau đám cưới, khi biết con gái út và con rể đã phải ăn cháo cầm hơi nửa tháng, ông đem đến một bao thóc giống mà thương con đến ứa nước mắt. Đời người lính thường gắn với xa cách và người cha đầu bạc trắng đã phải luôn làm công tác tuyên truyền vận động cô con gái út để người lính vững tâm công tác ở nơi xa. Năm nào cũng vậy, Lê Văn Phượng đều chia phép ra làm hai và một lần xin đi tranh thủ vào mùa bão lũ để chằng níu nhà cửa khỏi bị bão cuốn. Hai lần phép một để làm giỗ bố vì anh là tộc trưởng và một vào dịp Tết Nguyên đán thờ cúng tổ tiên và mua áo mới, sách bút cho con. Đã hai mươi sáu, năm công việc diễn ra đều đặn như thế. Chị Hương ngồi nép bên cha như cây thông non bầm dập run rẩy bên cây thông già sau trận lũ quét. Chị kể hôm đưa thi thể anh về cũng là lúc trận bão đột ngột đổi hướng tràn vào huyện Thanh Chương. Nước ngập đến lưng cột nhà. Anh được đặt trên một mô đất cao cạnh Ủy ban xã trong tiếc thương vô hạn của bà con nhân dân xóm Liên Hòa, nơi cậu bé Phượng hiền lành, ham đọc sách cách đây hơn bốn mươi năm cất tiếng khóc chào đời. Người con của hai vùng đất sông Lam, Thanh Chương, Nghệ An và sông Thạch Hãn, Quảng Trị đã nằm trọn trong sự tiếc thương của đồng chí đồng đội và nhân dân xóm mạc vùng quê lúa. Đại tướng - Bộ trưởng Phùng Quang Thanh gửi vòng hoa chia buồn - đây là điều chắc chắn Đại tướng không muốn làm nhất. Từng là người lính trên chiến trường, Đại tướng quá thấu hiểu nỗi đau của sự hy sinh, nhất là ở trong thời bình này. Mỗi khi ông phải gửi một vòng hoa đến đám tang gia đình người lính là một lần trái tim ông buốt nhói. Trong mưa bão, những người lính và nhân dân như những hàng rào thép đứng mặc niệm bên mộ người vừa ngã xuống. Quân nhạc cất lên. Họ chào nhau lần cuối cùng trong mưa rơi và nước mắt. Hình ảnh ấy ăn hằn trong trí não người cha đang ngồi đây, người phụ nữ nhỏ gầy và những đứa trẻ đang ngồi đây, vào chúng tôi, những đồng đội chưa một lần gặp anh mà chỉ biết đến anh qua tấm ảnh thờ khi anh đã hy sinh.
Hôm sau chúng tôi hành quân lên đường vào nơi anh Phượng hy sinh.
Đã mươi ngày lũ rút ở nơi cửa sông, ruộng bãi, góc suối, triền đồi các huyện thuộc tỉnh Quảng Trị, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh, huyện Tuyên Hóa, Minh Hóa, Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Những huyện bị thiệt hại nặng nhất do ảnh hưởng của cơn bão vừa qua, cây lúa, cây ngô, cây đậu, rau màu và cả cỏ nữa tím tái, xác xơ, bần thần, có những chỗ không thể gượng dậy được nữa. Không ít những cánh đồng giờ chỉ một màu bùn xám loang lổ, thê lương. Những ruộng bãi rau màu, hoa đậu không còn sức gượng đứng lên. Im lìm. Hoang hoải. Cả những cây dại, cây lớn ven đường, trong làng, ngoài xóm bùn lấm láp lên tận đỉnh chạc, những rác rưởi, chứng tích va đập giận hờn oan khiên của giời đất oái ăm giáng xuống dân lành. Chỉ mấy ngày mưa bão đến, lũ về, bốn mươi sáu người chết, rất nhiều người bị thương, gần bốn mươi nghìn ngôi nhà, trạm xá, trường học bị tàn phá. Thiệt hại về vật chất rồi có thể tính ra nhưng còn những dư chấn về tinh thần dễ gì tính được. Ai biết được rồi những đứa trẻ mồ côi bố, mồ côi mẹ, những vợ mất chồng, bố mẹ mất con ấy sẽ sống ra sao trong phần đời còn lại. Và, trong phần đời còn lại ấy, thiên tai sẽ còn giáng xuống bao nhiêu tai bay vạ gió nữa.
Không có câu trả lời chính xác nào cho thấu hết nỗi đau, nhất lại là những nỗi đau từ thiên tai, địch họa. Ôi thiên nhiên sao khắc nghiệt, tàn nhẫn làm vậy. Chúng tôi, những người dân lương thiện đã làm gì sai, đã làm gì phật ý đất trời. Cả đời lam lũ, nhọc nhằn, một nắng hai sương bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tìm kiếm củ khoai, hạt lúa từ đất, từ đá và từ cát. Có miếng cơm nào không nghẹn đắng mồ hôi. Nỡ nào đất trời giáng chết chóc xuống đầu lương dân, cả cụ già, cả em thơ hãi hùng đến thế. Tám người chết do sét đánh, còn lại là do lũ cuốn ở hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình và Hà Tĩnh khi tay còn đang nâng bông lúa, tay đang cầm cuốc, cầm cày nơi ruộng bãi nghìn đời cha ông đã đổ mồ hôi và cả máu xương thì chắc khó bề siêu thoát trở về nơi cực lạc. Không có câu trả lời toàn vẹn cho những nỗi đau thì làm gì có được câu trả lời chính xác cho những phi lý trong cõi nhân gian.
Bàn chân tôi bàng hoàng giẫm lên bùn non những cánh đồng, ruộng bãi đất Hương Khê, Vụ Quang, Tuyên Hóa, Minh Hóa của Khu Bốn, nơi đất lửa anh hùng. Dưới chân là bùn non lạo xạo sỏi cát và xác những cây lúa, hoa màu, rau đậu từng nghìn năm nuôi sống con người đang thối rữa. Xa xa tầm mắt, trên các triền đồi lúp xúp những đàn trâu mỏi mệt, gầy đói và ngơ ngác gại đầu vào những tàn sim mua, cây dại, dây leo đắng đót, nhẫn nhịn. Những bãi cỏ mới hôm nào còn xanh ngọt ứa nhựa, giờ biến mất dưới lớp bùn sền sệt rải rác xác cây, xác bàn ghế, tre pheo, dứa dại, chuột bọ. Sống mãnh liệt như cỏ dại, mà mươi hôm rồi mới chỉ lấm tấm, ngoi ngóp hé ra những lá lẫm chẫm. Chắc ít ngày nữa cỏ cũng xanh thôi và lũ trâu bò quen uống nước sông La, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, sông Gianh... gặm cỏ non ấy sẽ lại được nếm mùi quen thuộc. Để lại lam làm, cày cuốc với con người. Tôi như người đến chậm, như mắc lỗi với nơi đây, mắc lỗi với lũ trâu bò lam lũ và thân thiện. Nhưng đến sớm hơn chắc cũng chả giải quyết được gì vì bản tính vốn yếu đuối và hay cả nghĩ. Trong mưa lũ, đồng đội tôi đã ngã xuống. Đã nhịn ăn, nhịn uống, nhường cơm sẻ áo cho nhân dân, đã quên mình cứu những em thơ, cụ già trong đêm thẳm nước xiết và sấm sét. Và ngay lúc này, họ đang cất nhà, dựng cột, khám bệnh, cấp thuốc, san sẻ ngày lương chia sẻ với đồng bào. Trong sự không thể tính được chắc chắn tấm lòng sẻ chia, đùm bọc, yêu thương, hy sinh vô bờ bến của bộ đội với nhân dân trong khó khăn là sự không thể tính được đáng trân trọng nhất. Cứu dân trong các cuộc thiên tai địch họa, có biết bao nhiêu người lính đã hy sinh, hy sinh ngay ở thời bình này, ngay ở ngày hôm nay, đã, đang và sẽ còn nhiều tấm gương hy sinh bởi lẽ bộ đội và nhân dân là một, là thống nhất, là cùng tim, cùng óc, cùng một ngày mai, cùng một ước mơ, cùng kề vai sát cánh sống cuộc sống làm người.
Khi bàn chân chạm sỏi đá, gai góc, xác cỏ cây nơi ít ngày trước ngập chìm trong biển nước, tôi không thể dứt khỏi những dòng suy nghĩ, hành động dũng cảm của các anh như tấm gương hy sinh của Trung tá Lê Văn Phượng - Ban Chỉ huy Quân sự thị xã Quảng Trị; Trung úy Phạm Hữu Huyên - quân y sĩ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình. Chắc cũng vẫn đồng bãi, lúa khoai nhọc nhằn, còi cọc nơi xứ Quảng, xứ Thanh, xứ Nghệ của đất Việt nuôi dưỡng anh trở thành người chiến sĩ. Và, trong đêm thẳm, giữa mịt mùng giông gió, khi anh cõng những cụ già, em bé mà mạng sống đang ngàn cân treo sợi tóc nơi đỉnh nhà, cột điện, chắc là anh đang nghĩ về ông bà mình, cha mẹ mình, vợ con mình, củ khoai hạt lúa nhà mình đã nuôi mình thành người chiến sĩ mà quên đi mọi hiểm nguy phía trước. Chân tôi bỗng giẫm phải một hòn đá sắc nhọn và bật máu. Đã có bao nhiêu giọt máu của người chiến sĩ thấm xuống lòng sông, lòng đất ngay trong chính thời bình hôm nay, có khi là vô cùng lặng lẽ, khiêm nhường.
Xưa nay chả có cơn bão lũ nào giống nhau, nhưng lòng người, lòng dân, tấm lòng của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và đặc biệt là tấm lòng người chiến sĩ với nhân dân đang trong vòng bão lũ thì vô cùng trước sau như một. Dù là chiến sĩ đang rẽ dòng nước xiết giữa đêm đen hay người chiến sĩ đang canh trời, canh biển, tuần tra biên giới khi đứng trước thông tin, hình ảnh bà con mình, đồng đội mình đang vật lộn giữa dòng bão lũ ai nấy đều thắc thỏm, ngồi đứng không yên. Cái gì đã làm nên những phẩm cách ấy? Cái gì đã tạo ra những tấm lòng ấy, suy nghĩ ấy? Câu trả lời đã thuộc nằm lòng trong huyết quản mỗi người lính chúng ta. Ngay khi lũ ập về, không kể là tướng lĩnh tư lệnh, không kể là lãnh đạo chỉ huy hay binh nhất binh nhì, mà tất cả đều một mực xông vào nơi đỉnh lũ cứu dân, đọ cùng thiên tai mà bảo vệ những người dân hôm nay vẫn còn khó khăn gian khổ lắm. Dưới sấm sét, trong đêm đen, những người lính hòa vào một khối, không kể lính biên phòng hay quân y, công binh, pháo binh, phòng không, thiết giáp, mà tất cả đều xung trận, nhịn đói, ngâm nước, dầm bão cứu dân. Người có thể ướt nhưng thuốc men, lương khô, mì tôm đến với dân phải khô ráo, lành lặn. Bộ đội có thể ở lại, bơi theo xuồng chứ người già, phụ nữ trẻ con phải ở trong xuồng, phải an toàn tuyệt đối. Các đơn vị, cá nhân địa bàn Quân khu Bốn trong đó có lực lượng bộ đội Biên phòng những ngày vượt lũ cứu dân là một cuộc chiến đấu thực sự. Ngay trước, trong và sau khi tháp tùng các đoàn cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ kịp thời đến các vùng trọng điểm của lũ lụt động viên nhân dân, Trung tướng Đoàn Sinh Hưởng, vị Tư lệnh Quân khu Bốn vốn dày dạn trận mạc kể cả nơi chiến trường bom đạn cũng như nơi bão lũ bao nhiêu năm nay lại tiến vào những vùng nóng nhất cùng với cán bộ, chiến sĩ của mình chỉ đạo cứu dân. Tướng lĩnh cũng nhịn đói, nhịn khát, cũng vượt hiểm nguy với nhân dân, những người đã nuôi dưỡng mình, chở che để mình trở thành tướng lĩnh. Khó nói hết tình cảm của bộ đội và nhân dân trong những ngày vượt lũ, chiến đấu vật lộn với giặc nước vốn đứng đầu những loại giặc thiên nhiên nguy hiểm nhất, hung hãn nhất. Trò chuyện với chúng tôi, những người lính vẫn đang còn rất bận với công việc khắc phục hậu quả của trận lũ lịch sử hàng trăm năm mới thấy vẫn tỏ ra ngẫm ngợi lắm. Cái trầm ngâm, nhỏ nhẹ, lặng lẽ của vị Đại tá Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh, khi nói về công tác đang phải làm là rất khẩn trương, dường như đang để tâm dõi theo những cột kèo, gỗ gạch, tranh tre, sắt thép mà các chiến sĩ đang gom góp, vận chuyển dựng nhà cho bà con chứ không thì cái nắng tháng Tám và gió Lào đang gào rú ngoài kia mà để chậm một giờ một khắc hẳn bà con vừa mới bị lũ vùi dập lại chịu gió khan nắng cháy nữa sao nỡ đành lòng. Bộ đội Biên phòng với nhiệm vụ chính là bảo vệ, quản lý nơi vùng biên viễn mà vẫn hết sức cùng dân chống lũ, kịp thời có mặt ở những nơi nóng bỏng nhất để cứu dân và hiện đang san sẻ đôi bàn tay, những tấm lòng, cân gạo, viên thuốc, tấm áo tới tận tay bà con. Rồi các anh ra đồng ra ruộng khơi mương, đắp đập, be bờ, nâng niu những cây lúa, rau màu từ cái thuở mông muội, khốn khó, đói khát bao nhiêu thời gian công sức mới có được cuộc sống cơm ăn no, áo mặc lành hôm nay thì thiên nhiên lại đến cướp chính các anh cũng đau lòng lắm. Lại phải nắm tay nhau mà vượt qua đận khó khăn này. Suy nghĩ của người lính, giản dị mà thấm thía, cảm động đến tất thảy mọi người. Mà ông trời có cảm động không?
Tôi bàng hoàng trước thông tin về thiệt hại mà chắc chắn chưa phải tổng hợp cuối cùng, cũng chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, phần mà những người làm con số thống kê đã gây cho tôi nhiều suy nghĩ:
Những con số thương tâm đến mủi lòng.
Những vết thương sâu thật khó lành.
*
Nào có ai đo đếm được lòng dạ thiên nhiên.
Và những gì vô giá thuộc về tình người, sự tương thân, tương ái trong đó có tấm lòng của bộ đội với nhân dân những lúc khó khăn khốc liệt nhất ví dầu như bão lũ thì cũng không thể nào đo đếm được, nhưng ở đây lại theo một nghĩa hoàn toàn khác.
Vết thương dù sâu mấy dưới bàn tay khối óc con người dần dần cũng kéo da non, cũng sẽ lành dần, xanh lên và ấm lên. Chứ không thì con người lấy gì vượt qua những vấn nạn quá sức của mình, lấy gì vượt qua những bước ngoặt cam go hoàn toàn không do mình gây nên ấy.
Tôi lại lần nữa đi sau các chị, các anh bộ đội trong quá trình chữa lành những vết thương sâu ấy. Những anh chị quân y sĩ vượt trăm ngàn cây số khi xuồng bè, khi lội bộ ngay trong và sau lũ đem thuốc men, nước uống, lương thực, thực phẩm tới bà con. Cứ thế gây lán, lập trạm, quần quật nạo bùn, đánh phèn, khử trùng, phòng dịch, tới bữa chỉ phong lương khô, mẩu bánh mì, hớp nước lọc, đêm ngả lưng ngay trên sạp tre, ván gỗ với bà con dân làng, với người già trẻ nhỏ, có khi còn kiêm nhiệm cả việc khám trâu bò ốm, chẻ củi, đánh gianh, đỡ đẻ, lợp nhà. Những cơ số thuốc mang theo đã hết thì tự kê lên ra thị xã, thành phố lân cận đấy mà mua về cấp kịp thời cho bà con. Cái sự dịch bệnh sau mùa bão lũ, những người lính quân y dù binh nhất, binh nhì nơi xa xôi hẻo lánh, quanh năm suốt tháng chỉ làm bạn với tiếng chó tiếng gà, đến các bác sĩ, tiến sĩ, giáo sư từ nhiều nơi, đều phải nhiệt tình và chu đáo lo toan, đều đến cùng nhân dân với một tấm lòng thơm thảo như nhau, tấm lòng của người chiến sĩ. Tôi lại đi sau những lớp bộ đội công binh đã dầm nước, dầm sóng chở xuồng quần thảo trong bao nhiêu ngày đêm bão lũ áo quần chưa kịp khô đã lao vào sửa đường, bắc cầu, mở đường, xẻ núi. Những công việc thầm lặng của các chị, các anh đang đêm như thế, nơi vùng sâu vùng xa như thế mấy khi ống kính nào ghi được, phải nào ai cũng biết đến, chỉ tấm lòng dân luôn ghi nhớ các anh. Hôm nay và mai đây, các anh đương đánh đá mở sông, khơi nguồn nước để tính toán biết đâu bão lũ chẳng còn tiếp tục giáng xuống. Có những sự phòng, chống chẳng phải lúc nào cũng có thể báo cáo đi đâu đó được. Trong suy nghĩ của những người chiến sĩ, thì chỉ cần để vợi bớt những khó khăn, gian khổ, thậm chí oan khuất từ thiên nhiên hoặc từ đâu đó cho nhân dân là họ lặng lẽ làm. Tôi đi sau những tấm lòng ở nơi rất xa, nhiều chỗ là ở ngoài biên giới Việt Nam đang hướng về Tổ quốc, hướng về nơi đây với bà con vùng bão lũ. Từng đồng tiền, từng cân gạo, tấm áo, đến sách bút, phấn bảng, giấy mực từ khắp nơi gửi về. Của ít lòng nhiều, tình sâu nghĩa nặng. Cảm nhận những tấm lòng ấy, những sẻ chia ấy từ bạn bè, gia đình, họ mạc nơi trời xa mà nước mắt tôi tự nhiên cứ ứa ra. Cũng thấy đất Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị là đất học, đất khoa bảng mọi thời và cả hôm nay mà càng thấy con em mình dù đi đâu làm gì cũng nặng lòng với quê hương, họ mạc.
*
Trung tá Lê Văn Phượng hy sinh rồi mà đồng đội và nhân dân tưởng như sự việc mới xảy ra hôm qua hôm kia thôi. Đại úy Trần Quốc Quang, người trong đội công tác cùng bị lật xuồng khi ấy bàng hoàng nhớ lại:
- Khi nhận mệnh lệnh tiếp tục đi cứu dân vào lúc rạng sáng hôm ấy ở xã Hải Lệ, tôi biết anh Phượng đã rất mệt do đói và rét khi đã dầm nước suốt đêm nhưng anh vẫn xung phong đi tiếp. Mấy anh em chỉ kịp cầm vài thanh lương khô đã nát mủn lên ca nô và đi luôn. Khi ca nô đến cầu Thạch Hãn nước chảy rất xiết đã đánh bạt ca nô vào chân cầu. Loay hoay chống chọi để cứu ca nô và cứu đồng đội khi những con sóng điên cuồng ập đến, anh Phượng thét lên: “Các đồng chí phải bằng mọi cách cứu được ca nô để lấy phương tiện cứu dân đang đợi chúng ta!”. Bản thân anh dũng cảm lao xuống để tìm cách đẩy ca nô khỏi vùng nước xoáy. Nhưng dòng xoáy quá mạnh, ca nô chòng chành và bị xoáy nước vật nhào. Ba đồng chí trong tổ công tác là Trung úy Nguyễn Ngọc Tiến, anh Nguyễn Đức Phong và Thiếu tá Trương Văn Nhân lao được ra khỏi ca nô còn tôi và anh Phượng không thoát được ra khi ca nô bị lật. Sau phút hoảng loạn ban đầu, tôi vừa bơi vừa dạt vào bờ Nam sông Thạch Hãn vừa gào tên anh nhưng không thấy. Anh đã bị dòng nước cuốn đi mất và hy sinh...
Trong nước mắt, chị Nguyễn Thị Lan, thôn An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nói đứt nối:
- Rạng sáng ngày 30 tháng 9, trong cơn bão số 9, sau suốt mấy ngày đêm mưa to gió lớn, nước sông lên rất to, nhà tôi bị chìm trong biển nước và trong sự tuyệt vọng kiệt cùng thì các anh bộ đội đưa ca nô đến cứu. Khi bế mẹ con tôi lên ca nô, thấy chúng tôi bị mưa ướt rét và kiệt sức. Anh Phượng cởi ngay chiếc áo mưa đưa cho mẹ con tôi, còn bản thân mình chịu mưa rét. Sau khi chúng tôi đến được nơi an toàn, các anh lại lập tức đi cứu các hộ dân khác. Khi biết anh Phượng hy sinh, tôi như thấy mất chính người thân của mình. Anh ấy thật dũng cảm và nhân hậu...
Chúng tôi lặng đi trước những giọt nước mắt của người phụ nữ.
Hành động giản dị của anh là hành động của một anh hùng, của một con người đã trải nhiều gian nan, cơ cực, biết nhường nhịn hy sinh trong những hoàn cảnh đặc biệt nhất. Trước lúc hy sinh, điều anh đang nghĩ tới là những người dân vẫn bị kẹt trong biển nước, là đồng đội của mình đang vật lộn với sự hung hãn bạo cuồng của thiên nhiên. Anh nhận sự hy sinh về mình. Người lính chưa bao giờ chần chừ khi nhân dân mình lên tiếng gọi. Đồng đội của anh cũng vậy, nơi dải đất hình chữ S lắm thiên tai khôn lường thì những người lính như anh, đồng chí đồng đội anh luôn sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
Ngoài trời vẫn tiếp tục mưa, từng mảng sương chiều xám xịt ở khắp nơi đùn lên như vây chặt căn nhà nhỏ. Những gộc củi nổ lép bép, khói quẩn lên không thoát ra được mái tranh nghèo. Người mẹ khẽ cựa mình, hầu như không gây ra một tiếng động. Người cha ngồi như một gốc cổ thụ im phăng phắc. Khói hương lẳng lặng vẽ từng sợi trắng cong queo trước tấm hình người liệt sĩ. Người vợ gầy sút đi sau biến cố kinh hoàng, đôi mắt đùng đục nhìn mãi vào xấp thư đã ngả màu vàng, đã bắt đầu mục và thủng lỗ chỗ như có vết đạn bắn. Hai đứa con lớn đã lặng lẽ rút đi đâu đó, chắc trong một góc khuất của ngôi nhà để nhớ về cha chúng. Chúng đã phải biết đến nỗi đau từ quá sớm. Chỉ duy nhất cậu bé Lê Xuân Toan bốn tuổi chạy lăng xăng nghịch ngợm chiếc máy ảnh, lúc lại vân vê đôi cầu vai của đồng đội anh, rồi cậu ngước lên nhìn những người lớn như thắc mắc sao bố cậu vẫn chưa về. Căn nhà đột nhiên trở nên tịch mịch và hoang vắng. Ngoài sân, những cây thân mộc đã trút những chiếc lá cuối cùng xuống lòng đất. Trong thân cây, bất chấp trời giá lạnh, những dòng nhựa vẫn âm thầm chuẩn bị cho công cuộc hé chồi của một mùa xuân. Ngoài xa kia, con sông Giăng quê anh, con sông cung cấp nước cho sông Lam đang vặn mình, thì thầm những lời với đất. Xa kia, dòng Thạch Hãn mùa đông im lìm, hiền hòa như chưa từng nhận vào lòng mình những cuồng nộ của đất trời giáng xuống con người những tai họa khôn lường. Người lính Lê Văn Phượng ra đi từ đồng đất Liên Hòa, Thanh Liên, Thanh Chương, Nghệ An. Anh đã đi qua nhiều vùng đất, nhiều con sông và nơi anh ngã xuống cũng là một dòng sông - sông Thạch Hãn, nơi đã thấm quá nhiều máu người chiến sĩ. Anh đã đi trọn cuộc đời mình ngay ở tuổi thanh xuân. Nhưng trong lòng Đất Mẹ, trong những suy nghĩ riêng chung, chắc chắn anh đã ứa nước mắt và mỉm cười.
Vĩ thanh
Ngay chiều hôm đó tôi nhận được lệnh hành quân vào Tây Nguyên viết bài về tuyến đường tuần tra biên giới đang được thi công khẩn trương ở Mo Ray - Kon Tum. Trên chiếc xe ca ậm ạch leo đèo đổ dốc, hình ảnh những đứa trẻ của gia đình Liệt sĩ Lê Văn Phượng cứ chập chờn. Mái tóc mẹ già chín mấy tuổi lẫn trong đám khói đốt sưởi cứ bóp nghẹt trái tim vốn nhạy cảm. Tôi hình dung, chao ôi, mẹ cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Có lẽ nào một mái nhà lành lặn khó khăn với người lính vậy sao. Họ đã quá nhiều thiệt thòi trong khó khăn dằng dặc gần một thế kỷ mà khoảng thời gian cuối cùng trong đời người lại bị thiên tai, địch hoạ giáng những đòn nghiệt ngã. Cứ miên man suy nghĩ trên hành trình một mình. Từ khi chuyển cơ quan, tôi hay được cử đi công tác một mình, lang thang biên giới hải đảo một mình như thế.
Chuyến công tác đúng như dự kiến của tôi.
Vẫn là những câu chuyện tôi ghi chép về người lính. Ở đây là những người lính mở đường.
Như một sự cơ duyên hay ông trời dường như cũng có cặp mắt xanh ở những lúc con người cần dựa vào con người nhất. Trong đoàn cán bộ dẫn tôi đi biên giới, có Đại tá Tùng, anh quê ở Liên Hoà, Thanh Liên, Thanh Chương, Nghệ An. Lúc đó anh đang là giám đốc một công ty xây dựng trong quân đội thi công gói thầu đường tuần tra biên giới ở Mo Ray. Một sự trùng lặp kì diệu. Qua câu chuyện tôi kể về gia đình người liệt sĩ, anh Tùng sốt sắng lắm. Anh nói như đinh đóng cột:
- Tôi sẽ xây cho mẹ một căn nhà. Thủ tục nhiều đấy. Tôi phải báo cáo lên trên nhưng những gì thuộc ở Quân khu thì anh Khai giúp tôi. Không thể để mẹ ở căn nhà ấy được. Cuối tháng này tôi về thị sát và có kế hoạch cụ thể luôn. Nếu anh cũng vào đó được thì tốt quá.
Tôi nắm bàn tay anh. Bàn tay người lính đã từng đi qua chiến tranh, từng ở trong rừng ra và bây giờ đây lại quay trở lại với rừng già nơi biên giới để làm đường làm cầu cho bà con bên này bên kia cột mốc. Những mạch máu chảy rần rật trong tay tôi cũng đang ấm nóng. Những người lính vốn chẳng nhiều lời. Những đồng tiền chính đáng mồ hôi nước mắt dành dụm để bớt khổ đau cho gia đình đồng đội mình cao quý lắm chứ. Tôi biết anh cũng khá lâu. Đời anh nếu có thể viết được phải một cuốn sách vài trăm trang. Anh lặng lẽ rít thuốc điếu này sang điếu khác mà không hỏi thêm gì tôi nữa bởi thực ra, suy nghĩ của chúng tôi luôn thật gần nhau.
Nửa tháng sau tôi và Đại tá Nguyễn Thanh Tùng có mặt ở Liên Hoà.
Hôm ấy có cả cán bộ chính sách quân khu, Chính trị viên Ban Chỉ huy Quân sự huyện Thanh Chương và đại diện chính quyền xã Thanh Liên.
Mọi việc diễn ra đúng theo dự kiến mà tôi phác thảo.
Và còn hơn cả thế.
Khi ngôi nhà đang mọc lên cũng là khi chị Phan Thị Hương, vợ Liệt sĩ Lê Văn Phượng đã được nhận vào làm nấu ăn tại Ban Chỉ huy Quân sự huyện Thanh Chương. Quân khu 4, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An đã dành cho chị một suất ưu tiên đặc biệt. Ở tuổi chị, được nhận làm, được biên chế ở cơ quan nhà nước thật chẳng hạnh phúc nào sánh bằng. Cuộc đời gian khổ nhưng cũng có những lý lẽ riêng.
Chúng tôi lặng lẽ nhìn sự tất bật của chị bên mấy đứa con, bên căn nhà mới đang mọc lên. Hạnh phúc người lính sau những mất mát hy sinh cũng giản dị lắm.
Chúng tôi lặng lẽ tiến tới ban thờ thắp cho anh, Liệt sĩ Lê Văn Phượng, người con của hai vùng đất mấy nén hương thơm.