• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 44
  • Sau

2Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc

2.1 - Phật A Di Đà

Kết thất niệm Phật là xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện cầu vãng sinh thế giới Cực Lạc. Cho nên trước tiên cần giải thích sơ lược về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc.

Phật là bậc giác ngộ. Phàm là bậc có công đức tự giác, giác tha, giác hành viên mãn, đoạn tận hết sạch tập khí phiền não thì đều được tôn xưng là Phật. Phật A Di Đà là một trong các vị Phật, nhưng vì Ngài biểu trưng cho công đức thù thắng vô cùng, cho nên trong các Tịnh độ của chư Phật, (đặc biệt tại Trung Quốc) Phật A Di Đà có sự tôn kính tối cao và phổ biến rộng rãi hơn cả. Cổ đức nói: “Các kinh đều tán thán, là Phật A Di Đà”. Chúng ta mở kinh tạng ra xem, kỳ thực trong kinh điển Đại thừa phần nhiều đều tán dương Phật A Di Đà và Tịnh độ của Ngài. Muốn hiểu rõ lý do vì sao trong kinh nói như vậy, chúng ta có thể từ trên ý nghĩa chữ A Di Đà để mà lý giải.

“A Di Đà” thông thường đều được hiểu là Vô lượng quang, Vô lượng thọ. Vô lượng quang là Amitābha, Vô lượng thọ là Amitāyus, đây đều là A Di Đà rồi thêm nghĩa của chữ vào. Nghĩa căn bản của A Di Đà dịch ra tiếng Trung Quốc là vô lượng, nên Phật A Di Đà là Phật Vô lượng. Vô lượng là rốt ráo, viên mãn, không bị giới hạn, bởi vì nếu có giới hạn thì không thể bao hàm tất cả, vô lượng mới bao hàm tất cả công đức. Không những ánh sáng và thọ mạng của Phật vô lượng, mà trí tuệ, nguyện lực, thần thông, v.v. của Phật cũng đều vô lượng. Nhưng vì chúng sinh đặc biệt xem trọng ánh sáng và thọ mạng, cho nên mới thuận theo tâm chúng sinh mà đặc biệt nói về ánh sáng và thọ mạng vô lượng mà thôi.

Tất cả công đức của Phật đều rốt ráo, viên mãn, không có giới hạn. Hơn nữa, Phật A Di Đà lại dùng vô lượng để xưng danh, dùng đức mà đặt tên, chú trọng quả đức viên mãn “một là tất cả, tất cả là một”. Ban chu Tam muội kinh nói: “Lúc quán Phật A Di Đà thành tựu rồi liền thấy tất cả chư Phật”. Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh cũng nói: “Lúc quán Phật A Di Đà thành tựu sẽ thấy tất cả chư Phật”. Quán Phật là lấy công đức thân tướng của một Đức Phật làm đối tượng, để tâm suy tư, quán sát đến thành tựu thì Phật A Di Đà liền hiện trước mắt. Quán Phật A Di Đà, lẽ ra chỉ thấy một Đức Phật hiện tiền, nhưng kinh nói dùng quán Phật A Di Đà làm phương tiện liền thấy tất cả chư Phật. Bởi vì A Di Đà là vô lượng, vô lượng tức là tất cả nên thấy vô lượng Đức Phật, tức là thấy tất cả chư Phật hiện tiền. Trong giáo lý Phật giáo có nói: “Phật Phật đạo đồng, ngàn Phật vạn Phật đều giống một Phật, không mảy may sai biệt, bình đẳng với nhau”. Thanh văn thừa nói: “Pháp thân, ý lạc, công đức của tất cả chư Phật đều bình đẳng”, pháp Thanh văn còn như vậy huống gì là pháp Đại thừa. Một vị Phật tức là tất cả chư Phật, tất cả chư Phật tức là một vị Phật, cho nên thấy một vị Phật cũng giống như thấy tất cả chư Phật. A Di Đà dịch nghĩa là vô lượng, danh hiệu này biểu thị quả đức rốt ráo của tất cả chư Phật, đây là nghĩa gốc của Phật A Di Đà. Mười phương ba đời vô lượng vô biên tất cả chư Phật dường như không thể tính kể, cho nên từ “A Di Đà” đại biểu cho tất cả các Đức Phật, biểu thị Phật đức chung của tất cả chư Phật. Trong các kinh tán thán Phật A Di Đà cũng như các kinh tán thán chư Phật, dùng từ chỉ chung cho vô lượng chư Phật trở thành tên riêng của một vị Phật, điều này được dùng để hiển bày cho ý nghĩa Phật Phật đạo đồng.

Trên phương diện tên gọi, Phật A Di Đà đạt được ưu việt thù thắng, cho nên niềm tin của người học Phật tự nhiên tập trung đến Phật A Di Đà.

Có người nói: “Phật A Di Đà là Phật căn bản đại diện của tất cả các Đức Phật”, điều này chưa hẳn chính xác. Mỗi vị Phật đều có đầy đủ ba thân (Báo thân, Hóa thân, Pháp thân), giữa Phật và Phật có gì là gốc hay ngọn chứ? Lại có người nói: “Nguyện lực của Phật A Di Đà lớn - 48 nguyện. Ngài lại đặc biệt có duyên với thế giới Ta bà, cho nên mọi người tin tưởng, ngưỡng mộ Phật A Di Đà”. Đây cũng chỉ là phương tiện mà nói, thệ nguyện của Phật vô lượng vô biên, há chỉ là 48 nguyện thôi sao? Nguyện lực của Phật bình đẳng, đâu có gì khác nhau. Phật muốn cứu độ tất cả chúng sinh, lẽ nào ngoài chúng sinh của thế giới Ta bà, chúng sinh cõi khác Phật A Di Đà sẽ không hóa độ sao? Nếu như theo phương diện này mà nói, thì không thể hiển bày sự thù thắng của Phật A Di Đà.

Trên đây là nói về phương diện danh xưng, bây giờ tôi nói đến công đức thù thắng đặc biệt của Phật A Di Đà. Trong tất cả chư Phật, công đức thù thắng đặc biệt mà Phật A Di Đà có được chính là từ bi cứu tế. Đương nhiên tất cả chư Phật đều có từ bi cứu tế chứ không chỉ riêng Phật A Di Đà mới có. Ở đây là xét từ phương diện công đức biểu trưng trong Phật pháp, như: Đại bi của Ngài Quán Âm, Đại hạnh của Ngài Phổ Hiền, Đại trí của Ngài Văn Thù, v.v. Tất cả những điều này đều là dựa trên phương diện công đức đặc biệt mà các Ngài thể hiện để nói.

Pháp hội Phật A Di Đà có hai vị Bồ tát Quán Âm và Đại Thế Chí. Công đức đặc trưng của Bồ tát Quán Âm là đại từ, đại bi, cứu tế chúng sinh, tuy nhiên trọng tâm từ bi cứu tế của Bồ tát Quán Âm và Phật A Di Đà có khác nhau. Cứu tế của Bồ tát Quán Âm chú trọng vào hiện thực thế gian thông thường, như cứu giúp nạn nước, nạn lửa, nạn gió; cứu giúp sự nghèo cùng, bệnh tật, không có con cái, v.v. Còn Phật A Di Đà thì chú trọng giải thoát sinh tử, hướng dẫn chúng sinh đi vào Phật trí.

Chúng sinh thế gian thông thường luôn chịu sinh tử lưu chuyển không có khi nào chấm dứt. Nơi cõi đời ô trược khổ nạn này, để thành tựu đại nghiệp giải thoát sinh tử, thành Phật độ chúng sinh là việc không hề dễ dàng. Cho nên, hành giả tu tập phải dùng Bi nguyện trang nghiêm cõi Tịnh, tiếp độ chúng sinh làm thềm thang tu hành thoát hẳn sinh tử, tự độ, độ người. Bởi vì một khi hành giả đã sinh về cõi Tịnh độ thì không bao giờ thoái chuyển, thẳng tiến đi lên. Công đức đặc biệt của Phật A Di Đà là từ bi cứu tế, đó cũng chính là công đức từ bi của tất cả chư Phật. Công đức của Phật A Di Đà hiển bày như thế nên mọi người có thể nhận biết một cách rõ ràng.

Ví dụ như trong một tổ chức của chính phủ, có người phụ trách về ngoại giao, có người phụ trách nội chính, có người phụ trách quân sự, v.v. mỗi cơ quan có chức vụ riêng. Người giữ chức ngoại giao không nhất định là không hiểu về nội chính; người giữ chức quân sự không nhất định là không hiểu về ngoại giao. Chẳng qua trong cùng một tổ chức, mỗi người đại diện cho một bộ phận mà thôi.

Công đức đặc biệt của Phật và Bồ tát cũng như vậy, Phật A Di Đà có được công đức đặc biệt về từ bi cứu tế của chư Phật. Bồ tát Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm thì có công đức đặc biệt về Đại hạnh, Đại trí, Đại bi của Bồ tát. Trên phương diện từ bi cứu tế của Phật giáo thì Phật A Di Đà là tiêu biểu cho chư Phật, Bồ tát Quán Âm là tiêu biểu cho chư vị Bồ tát. Cho nên câu: “Nhà nhà Di Đà, ngõ ngõ Quán Âm” cũng không phải là tự nhiên mà trở thành lời nói cửa miệng của mọi người như vậy. Từ bi cứu tế của Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Âm, là tiếp cận chúng sinh, đi vào lòng người, bởi vậy mà nhà nào cũng hiểu rõ và hành trì theo.

2.2 - Thế giới Cực Lạc

Thế giới Cực Lạc chính là cõi Tịnh độ. Cõi Tịnh độ có thật hay không? Nếu như đối với người trong Phật giáo, họ xây dựng niềm tin được căn cứ vào lời dạy của Đức Phật (Thánh giáo lượng), thì đương nhiên điều này không thành vấn đề. Còn đối với những người không tin Phật giáo, mà chúng ta dùng Thánh giáo để nói với họ thì không có tác dụng. Bởi vì quý vị lấy lời Phật thuyết làm giáo lượng, họ có thể lấy Phệ Đà, Tân Ước, Cựu Ước và kinh Koran của Thần thuyết làm giáo lượng. Mỗi người có một niềm tin, vậy thì không thể giải quyết vấn đề khiến cho họ tin được.

Muốn nói rõ việc có hay không cõi Tịnh độ, không cần phải có thiên nhãn mới nhìn thấy được, cũng không cần phải có thần thông mới đi đến được nơi đó. Bởi vì thiên nhãn hay thần thông, đối với người không tin thì họ sẽ cho là quý vị đang bị ảo giác mà thôi. Cho nên, quý vị muốn nói rõ về cõi Tịnh độ thì phải dùng luận chứng hợp lý để nói. Phật giáo nói có vô lượng thế giới, điều này được đưa ra từ nhiều thế kỷ trước, thật khó để người ta chấp nhận, tuy nhiên đối với hiện tại thì vấn đề đó lại không hề khó tin. Các nhà thiên văn học thừa nhận ngoài trái đất còn có vô số hành tinh giống như trái đất vậy; có những thế giới còn tệ hơn thế giới chúng ta và các thế giới chắc chắn không hoàn toàn giống y hệt nhau. Thế giới này của chúng ta, không phải là thế giới lý tưởng nhất. Thế giới tốt đẹp hơn, lý tưởng hơn chính là Tịnh độ.

Căn cứ vào Phật pháp có thể khẳng định: “Cõi Tịnh độ không phải chỉ có một, thế giới Cực Lạc cũng chỉ là một trong vô số các cõi Tịnh độ”, thậm chí nói Tây phương thì cũng không hẳn là ở phía tây. Phương hướng vốn không có tính tuyệt đối, đứng phía đông thì nói phía đối diện là phía tây, đứng phía tây thì nói đối diện mình là phía đông. Hướng đông hướng tây đều được như chúng ta đến châu Âu, rồi hướng về phía tây, hướng về phía đông đều được vậy. Trong vũ trụ vô cùng này, y cứ vào thế giới chúng ta đang sống, quan niệm phương hướng dựa theo hướng mặt trời mọc hay mặt trời lặn mà nói là phương đông, phương tây (nơi mặt trời lặn mang ý nghĩa sâu xa, xin xem thêm trong Tịnh độ tân luận). Chỉ phương lập hướng như vậy là khẳng định thêm một phần sự thật, dễ dàng khiến cho người ta khởi lòng tin chắc chắn, kiên định. Thế giới Cực Lạc, tuy tôi và quý vị đều không nhìn thấy, đều chưa từng đi đến nơi đó, nhưng theo lý mà nói thì thế giới Cực Lạc này hoàn toàn có thể tồn tại. Điều có thể tồn tại và lại còn do chính Đức Phật nói ra thì sao chúng ta lại không tin?

Nói đến tổng quan về cõi Tịnh độ, nên biết đó là nơi thích ứng với căn cơ của chúng sinh, trong phạm vi trí tuệ mà chúng sinh có thể hình dung được, rồi mô tả trần thuật thêm. Như Đức Phật xuất hiện ở Ấn Độ, hiện ra có 32 tướng mà người Ấn Độ xem trọng, còn tượng Phật của Nhật Bản đều có râu ngắn kiểu Nhật, tượng Phật của Myanmar có phần nhân trung (là rãnh lõm có vị trí từ dưới mũi đến giữa môi trên) rất ngắn, v.v. Những đặc điểm đó đều là do tâm lý chủ quan, thẩm mỹ của mỗi dân tộc phản ánh lên bức tượng. Tịnh độ của Phật cũng như vậy, đều là trải qua chủ quan mà biểu đạt. Đức Phật xuất hiện ở Ấn Độ, Tịnh độ mà Đức Phật thuyết cũng là thích ứng với khả năng hiểu biết và niềm tin của người Ấn Độ đương thời. Còn Tịnh độ thật sự của chư Phật, theo tôi nhận thấy có lẽ còn mỹ mãn, trang nghiêm hơn rất nhiều so với những điều đã nói trong kinh! Tổng quan về Tịnh độ có thể chia thành ba điểm để trình bày:

(1) Sự sung túc đẹp đẽ của giới tự nhiên: Căn cứ theo A Di Đà kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh đã nói, giới tự nhiên của Tịnh độ Cực Lạc vô cùng trang nghiêm. Ở đó đất đai bằng phẳng, không có núi đồi gồ ghề, không phân biệt ngày đêm, luôn luôn ở trong ánh sáng, cây báu thành hàng, cát vàng trải đất, sự hưởng thụ cuộc sống vật chất vô cùng phong phú. Những điều cần thiết trong cuộc sống lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn lại có thể tự do lấy cho, không có nghèo khổ thiếu thốn, không bất bình đẳng giống như thế giới Ta bà của chúng ta.

(2) Sự thù thắng an lạc của con người: Thế giới ô nhiễm xấu ác của chúng ta, giữa người và người đầy rẫy tranh giành, tật đố, sân hận, tạo thành đau khổ vô biên. Ngược lại, tại thế giới Cực Lạc giữa người và người bình đẳng an vui, không có loài thú, chim muông thì do biến hóa sinh ra. Phàm là chúng sinh sinh đến thế giới Cực Lạc đều là chư Thượng thiện nhân có công đức thù thắng. Trong đó Bồ tát Nhất sinh bổ xứ cũng không ít, Bồ tát và Thánh giả Thanh văn vô lượng vô số, ngoài ra đều là người thiện một lòng, một dạ tu học Phật đạo thanh tịnh. Dưới sự khích lệ của thầy hiền bạn tốt, tất cả họ đều không ngừng hướng thượng, cho nên con người nơi ấy có sự hòa bình, an vui thù thắng.

(3) Thân tâm thanh tịnh: Chúng sinh được sinh đến thế giới Cực Lạc đều là từ hoa sen hóa sinh. Chúng sinh nơi này nhờ nguyện lực của bản thân, nguyện lực từ bi của chư Phật, Bồ tát nên không cần cha mẹ làm duyên, mà hóa sinh từ trong hoa sen. Trong kinh Phật nói chư Phật, Bồ tát, mỗi vị đều ngự ở trên tòa hoa sen. Hoa sen mọc lên từ bùn mà trong sạch, đã lìa tất cả phiền não, đạt đến thân tâm thanh tịnh, trở thành bậc Thánh, do đó lấy hoa sen mọc lên từ bùn mà không ô nhiễm làm ví dụ. Tu hạnh niệm Phật mà sinh Tịnh độ thì cũng hóa sinh từ trong hoa sen.

Chúng sinh nơi Tịnh độ Cực Lạc, thân không có khổ già bệnh chết. Các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh thông thường đều có nỗi khổ già bệnh, còn loài hóa sinh thì không có những nỗi thống khổ này. Những hóa sinh khác vẫn có nỗi khổ chết, còn chúng sinh ở thế giới Cực Lạc, khi chưa đạt được Vô sinh pháp nhẫn thì chắc chắn không bị chết, mà khi đạt được Vô sinh pháp nhẫn rồi, cũng sẽ không còn cảm thấy sự đau khổ của chết nữa. Trong Tịnh độ không những không có sự đau khổ về già, bệnh, chết của thân, mà ngay cả sự khổ về tham, sân, si, phiền não trong tâm cũng không có. Chúng sinh mới sinh về Tịnh độ, đương nhiên tập khí phiền não chưa được đoạn trừ hết, nhưng do sự đặc biệt thù thắng của hoàn cảnh, nên tuy có phiền não mà duyên không đủ nên không thể sinh khởi. Vàng ở Tịnh độ như đất cát, nhu cầu về vật chất có thể tự nhiên lấy cho, thì chúng sinh nơi này đâu còn sinh tâm tham gì nữa. Chư Thượng thiện nhân cùng tụ hội một nơi, hòa hợp an vui nên không có chuyện khởi tâm sân. Chính tín chính hạnh nên đương nhiên sẽ không khởi các tâm si mê, tà kiến. Nhân duyên khởi phiền não không đủ cho nên sẽ không có phiền não, thân tâm đều vô cùng thanh tịnh.

Cũng bởi vì thế giới tự nhiên sung túc đẹp đẽ, chúng sinh thù thắng an vui, thân tâm thanh tịnh, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Thế giới này do công đức vô biên của Phật A Di Đà trang nghiêm mà thành, muốn phương tiện nhiếp hóa chúng sinh, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ thì lấy đây làm mục tiêu.