• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 19

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 44
  • Sau

5Niệm Phật

5.1 - Niệm

Pháp môn Tịnh độ thông thường đều lấy “xưng niệm danh hiệu Phật” là chính, rất nhiều người cho rằng xưng niệm danh hiệu chính là niệm Phật. Tuy nhiên, nên biết rằng, xưng danh không tương đồng với niệm Phật, niệm Phật có thể không xưng danh, mà xưng danh cũng không nhất định là niệm Phật.

Niệm là tâm niệm, Niệm là một trong những tâm sở pháp, là niệm tâm sở trong Năm biệt cảnh. Ý nghĩa của “niệm” là buộc niệm chuyên chú vào một cảnh giới nào đó, nhớ rõ không quên, giống như buộc tâm chúng ta vào một cảnh giới vậy. Ức niệm mà chúng ta thường nói là chỉ cho cảnh giới mà tâm niệm đã buộc vào trong quá khứ. Nhưng niệm trong xưng niệm ở đây là thông cả ba cõi, là buộc tâm vào cảnh giới khiến cho cảnh giới đó hiển hiện rõ ràng. Niệm là một phương pháp tu hành trong Phật pháp, như Sổ tức quán chính là An ban niệm. Lại có Sáu phương pháp niệm cho đến Bốn niệm xứ trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều lấy niệm làm pháp tu.

Muốn đắc Định thì phải tu niệm này, từ niệm mà đắc Định. Trong kinh nói, tâm chúng ta phiền động, tán loạn, suy đông nghĩ tây, một sát na cũng không dừng nghỉ, nhất định phải cho nó một vật để nương vào để dừng lại, sau đó mới dần dần an trú. Nếu như nhà chúng ta có nuôi một con chó, nó hiếu động chạy lung tung khắp chốn. Chúng ta liền lấy dây buộc nó vào cây cột, nó chạy quanh một lúc tự nhiên sẽ dừng lại , nằm xuống đất nghỉ ngơi. Tâm cũng như vậy, nếu có thể buộc niệm tại một nơi thì có thể từ đó mà đắc Định. Định này chính là do tu quán tu tuệ, cũng lấy niệm là điều kiện cần phải có để đắc được Định. Nên niệm ở trong Phật pháp vô cùng quan trọng.

Niệm có nhiều loại, đối tượng của niệm cũng khác nhau, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tứ đế, v.v. Nay nói niệm Phật, lấy Phật làm cảnh giới để niệm, tâm chuyển trên cảnh Phật, nếu nhờ đây mà đắc Định thì gọi là niệm Phật tam muội. Niệm quan trọng ở chuyên tâm tha thiết, nếu không chuyên tâm không tha thiết thì niệm sẽ không dễ hiện bày rõ ràng, Định cũng không dễ thành tựu. Hành giả phải giữ tâm không tán loạn, không đi theo đường khác, chỉ chuyên chú tập trung nơi một cảnh thì tu niệm mới có thể thành công.

Trong kinh thí dụ rằng, có người đắc tội với quốc vương, sắp bị chém đầu. Quốc vương dùng một bát dầu thật đầy, yêu cầu ông ấy bưng đi trên đường, nếu như có thể giữ không cho giọt dầu nào đổ ra ngoài thì tha cho tội chết. Người này vì bị uy hiếp về mạng sống, một lòng một dạ giữ gìn bát dầu trên tay. Trên đường đi có người ca hát nhảy múa, ông không nghe không nhìn; có người đánh nhau chửi nhau, ông ấy cũng không quan tâm; cho đến ngựa xe phóng qua và các cảnh vật khác, ông ấy cũng không để mắt đến, chỉ một lòng nhìn bát dầu trên tay. Cuối cùng ông ấy đem dầu đến chỗ quốc vương đã chỉ định mà không bị tràn ra một giọt nào, vì thế nên được tha tội chết.

Điều này giống như chúng sinh chìm đắm trong thế gian vô thường, chịu các bức bách của sinh tử khổ nạn. Muốn ra khỏi sinh tử, thoát khỏi sự trói buộc của ba cõi, thì chúng sinh phải tu niệm, chuyên tâm một lòng mà niệm, kiên định không để cảnh giới năm dục đầy rẫy tham ái xoay chuyển; đối với cảnh đáng sân không khởi tâm sân hận; có cảnh tán loạn hiện tiền, tâm cũng không bị dao động. Chuyên chú buộc tâm như vậy, tham, sân, phiền não, vọng động không khởi, tâm trở nên chuyên nhất, an trú vắng lặng, đắc Định phát Tuệ, công đức vô biên cũng từ đây mà có. Ngược lại, nếu không tu niệm, định tâm không thành, tuy đọc kinh học giáo lý, bố thí trì giới, cũng không thể đạt được công đức thù thắng của Phật giáo, chỉ giống như có thêm một ít tri thức, tu thêm một ít phúc báu mà thôi.

5.2 - Niệm Phật

Thông thường người ta chỉ biết niệm Phật bằng miệng, mà không hiểu được nghĩa lý sâu sắc ở bên trong những tiếng niệm Phật đó. Nếu chỉ là miệng xưng niệm danh hiệu Phật, tâm không buộc vào niệm, thật sự không thể gọi là niệm Phật được. Niệm thật sự là phải tâm tâm buộc niệm vào cảnh Phật, rõ ràng không quên. Nhưng cảnh giới mà Phật hiển hiện trong tâm cảnh của phàm phu cũng chỉ là ba loại: Tên gọi, hình tướng, phân biệt.

5.2.1 - Y danh khởi niệm:

Đó là xưng niệm danh hiệu Phật, thông thường là dựa vào tên trên mặt chữ nghĩa mà khởi niệm, như xưng niệm sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, tức là danh. Trong danh có nghĩa, nương vào câu danh hiệu mà buộc niệm vào cảnh Phật, dùng “Nam mô A Di Đà Phật” để làm cảnh niệm. Đây là dựa vào danh hiệu để khởi niệm, nên gọi xưng niệm danh hiệu là niệm Phật.

Xưng niệm danh hiệu Phật nhất định phải hiểu ý nghĩa bao hàm trong danh hiệu Phật. Nếu không biết hoặc dùng danh hiệu Phật làm công đức để dành sau khi chết, tuy cũng có thể thành cảnh niệm, từ đó đắc Định, nhưng cuối cùng không thể vãng sinh Cực Lạc. Xưng niệm như vậy không thể xếp vào phương pháp thực hành pháp môn Tịnh độ niệm Phật, bởi vì họ chưa từng hiểu cảnh giới của thế giới Cực Lạc và từ bi nguyện lực của Phật A Di Đà. Không có tín tâm, không có hạnh nguyện, chỉ có xưng niệm danh hiệu thì có khác gì việc niệm Phật của con vẹt học nói hay cái máy ghi âm đâu.

Có một câu chuyện kể rằng: Có hai thầy trò, người học trò rất ngốc, sư phụ dạy anh ta niệm Phật mà mãi cũng không niệm được, lại cứ lẽo đẽo theo hỏi sư phụ phải niệm như thế nào? Người thầy nản quá liền mắng: “Ngươi là đồ ngốc!” và đuổi người này đi. Buồn cười thay, anh học trò ngốc lại nhớ như in lời sư phụ đã mắng mình, đi đến núi sâu, từ sáng đến tối niệm: “Ngươi là đồ ngốc! Ngươi là đồ ngốc!” Thời gian sau, người thầy thương đứa học trò ngốc nghếch nên đã đi tìm, tới nơi thì nhìn thấy anh ta đang úp nồi cơm mà rửa một cách an lành, chính niệm. Cảm thấy học trò ngốc của mình đã đạt được công phu tu tập, vị sư phụ bèn hỏi: “Sao khi trước ta dạy niệm Phật mãi con cũng không nhớ được, mà giờ lại chăm chỉ đạt được công phu như vậy?” Anh ngốc ngạc nhiên trả lời: “Dạ thưa sư phụ! chính là câu niệm “Ngươi là đồ ngốc!” mà sư phụ đã dạy con đó ạ”. Sư phụ cười phá lên: “Đây là ta mắng ngươi, sao ngươi lại xem nó là niệm Phật?” Sau câu nói của vị sư phụ, người học trò hiểu được đây là lời mắng người, những công phu trước giờ có được liền mất hết. Tâm buộc vào một cảnh không phân biệt có thể sinh khởi Định cảnh tương tự, từ đó dẫn đến một năng lực khác thường. Tuy nhiên, một khi nói rõ ràng thì tâm nghi ngờ sẽ lập tức khởi lên, Định lực cũng theo đó mà bị mất.

Đương nhiên, xưng niệm danh hiệu Phật chắc chắn không chỉ đơn thuần như vậy, nếu không chúng ta cần gì phải niệm Phật, tùy tiện niệm chiếc bàn, chiếc ghế, không phải cũng giống như vậy sao? Cần phải biết, A Di Đà Phật là danh hiệu, mà danh hiệu bao hàm y báo, chính báo trang nghiêm của Phật, từ bi nguyện lực cũng như vô biên công đức của Phật. Phải hiểu một cách rõ ràng như thế mới có thể khởi tín tâm, hạnh nguyện sâu sắc. Để rồi từ trong tín tâm, hạnh nguyện mà xưng niệm danh hiệu Phật, cầu sinh Tịnh độ.

5.2.2 - Y tướng khởi niệm:

Đây là quán tưởng niệm Phật, niệm Phật A Di Đà hoặc niệm Đức Phật khác đều được. Hoặc đầu tiên quán tượng Phật, ghi nhớ cẩn thận tướng tốt trang nghiêm của Đức Phật rõ ràng phân minh ở trong tâm, sau đó ngồi yên buộc tâm vào tướng của Phật. Niệm Phật quán tưởng như vậy cũng có thể khiến cho tâm đắc Định.

Tôi từng gặp người niệm Phật, họ ngồi tĩnh tọa nhiếp tâm, trong phút chốc tướng Phật lập tức hiện tiền. Nhưng những người tôi gặp được, phần nhiều vẫn là tướng thô, mơ hồ, dễ dàng tu, nếu muốn quán đến tướng Phật trang nghiêm, vi tế rõ ràng, như ý tự tại, nhất định phải chuyên tu mới được. Hơn nữa, tướng Phật không phải chỉ là sắc tướng, mà còn có đại từ đại bi, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, năm phần pháp thân, tướng công đức thù thắng vô lượng vô biên. Buộc niệm quán tưởng trên công đức của Phật, Đại thừa gọi là “quán tướng sở nhiếp”, Tiểu thừa thì gọi là “quán Pháp thân”.

5.2.3 - Y phân biệt khởi niệm:

Nương vào tâm phân biệt khởi niệm, nhưng phải hiểu rõ Đức Phật này chỉ từ tâm hiện, gọi là “duy tâm niệm Phật”. Hai cách trước là dựa vào danh và tướng để khởi niệm, đợi đến khi tướng Phật hiện tiền, ngay lúc đó hiểu rõ tất cả tướng Phật đều duy tâm biến hiện. Ta không đến chỗ Đức Phật, Đức Phật cũng không đến chỗ của ta; tự tâm niệm Phật, tự tâm tức là Phật.

Như Đại tập Hiền Hộ kinh có ghi: “Đời này ba cõi chỉ là tâm. Vì sao vậy? Tùy theo tâm niệm vẫn tự thấy tâm. Nay ta từ tâm thấy Phật, tâm ta làm Phật, tâm ta là Phật...” Hoa nghiêm kinh cũng nói: “Tất cả chư Phật tùy ý liền thấy. Chư Như Lai kia không đi đến đây, ta cũng không đi đến đó. Biết tất cả Phật không từ đâu đến, không đi về đâu, biết tất cả Phật và tâm ta thảy đều như mộng”. Tướng tốt trang nghiêm, công đức pháp thân của Phật sáng suốt phân minh, có thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ là quán tâm sở hiện. Hiểu rõ tất cả đều do tâm hiện ra, như mộng như huyễn, nương vào (hư vọng) phân biệt mà khởi niệm. Phật pháp dùng pháp môn niệm Phật để dẫn dắt người ta đi từ cạn đến sâu, nương vào danh hiệu mà quán tưởng tướng Phật. Tướng Phật hiện tiền rồi có thể hiểu rõ đều là do hư vọng phân biệt mà hiển hiện ra.

Tiến thêm một bước nữa tức đạt đến niệm Phật Pháp thân, ngộ nhập cảnh giới pháp tính. Các nhà Duy thức nói pháp có năm loại, ngoài danh tướng phân biệt ra còn có chính trí như như, trí như vô lậu bình đẳng không hai là Pháp thân của Phật. Nương vào duy tâm quán tưởng, rồi thể ngộ thấy được tất cả pháp tính bình đẳng không hai tức là thấy Phật. Duy Ma kinh cũng nói: “Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy”, sáng suốt để thấy Phật; A Súc Phật quốc kinh, Ban chu Tam muội kinh cũng nói như vậy. Phật là bình đẳng tính Không, quán Phật tức khế hợp với tính như thật, trí như tương ưng, gọi là niệm Phật. Kim cang kinh nói: “Lìa tất cả tướng liền thấy Như Lai”. Bình thường gọi đó là thật tướng niệm Phật, niệm Phật mà đạt đến giai đoạn này thật sự đã đoạn trừ được phiền não, chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn rồi.

Từ xưng danh niệm Phật rồi nương vào tướng, cho đến hiểu rõ tất cả pháp đều là Không tính, từng bước từng bước từ nông cạn đến sâu sắc, từ vọng tưởng đến chân thật, thu nhiếp được Định Tuệ mà hoàn toàn không bị mâu thuẫn. Niệm Phật như vậy thì gần với tự lực, gần với tu Định tu Tuệ nên pháp môn niệm Phật cũng là tu Định với tu Tuệ. Nhưng theo Ban chu Tam muội kinh nói: “Nếu thấy Phật hiện tiền, hiểu rõ được đó là do tâm tưởng hiển hiện, phát nguyện được vãng sinh thế giới Cực Lạc”. Có thể thấy phương tiện niệm Phật, muốn cầu vãng sinh Tịnh độ phải có từ bi nguyện lực của Đức Phật. Trong bốn cách niệm Phật thì xưng danh niệm Phật được coi là giản đơn nhất. Pháp môn Tịnh độ thường hoằng truyền, thì xem trọng xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” và tin tưởng cầu nguyện từ bi nguyện lực của Phật A Di Đà nhiếp thụ.

5.3 - Xưng danh niệm Phật

Xưng danh niệm Phật, không phải chỉ hạn chế nơi miệng xưng niệm. Như “chấp trì danh hiệu” trong A Di Đà kinh, Ngài Huyền Trang giải thích là “tư duy”. Từ đó có thể thấy, xưng niệm danh hiệu không những chỉ là miệng niệm, nhất định nội tâm phải tư duy buộc niệm. Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, từ danh hiệu mà thể hội được công đức, thật tướng của Phật, buộc niệm tư duy mới đúng là niệm Phật. Xưng niệm danh hiệu Phật là phương pháp quan trọng, không nên chỉ dừng ở miệng xướng tụng.

Trên đây đã nói đến những cách niệm Phật phổ biến, bây giờ theo các cách xưng danh niệm Phật khác để nói rõ thêm. Phương pháp xưng danh niệm Phật có người tổng hợp gồm bốn mươi phương pháp niệm Phật, tức chuyên nói về phương tiện niệm Phật. Nhưng trong niệm Phật quan trọng nhất là “miệng niệm, tai nghe, tâm nghĩ”, ba thứ đồng thời tương ưng mà Đại sư Ấn Quang của Tịnh độ tông cũng thường nói đến. Niệm Phật rõ ràng sáng suốt, không mơ hồ, ngớ ngẩn; lúc xưng danh không chỉ là miệng xưng niệm, mà phải dùng lỗ tai mình để nghe, nghe một cách rõ ràng; trong tâm cũng phải khởi niệm theo âm thanh, niệm một cách thật nhất tâm, sáng suốt. Nói chung, miệng - tai - tâm ba thứ đều phải tương ưng buộc niệm, rõ ràng sáng suốt, như vậy thì mới dễ dàng đạt được nhất tâm bất loạn.

Rất nhiều người niệm Phật, bất kể là lên chính điện, làm việc, thậm chí nói chuyện với người khác, trong miệng dường như vẫn đang niệm Phật. Tâm không thể cùng một lúc nghĩ đến hai việc cho nên không tránh khỏi mơ hồ, tai không chú ý nghe nên cũng không thể chuyên nhất. Hoặc muốn thời gian niệm cho lâu, danh hiệu Phật niệm được nhiều, nhưng như vậy chưa hẳn có nhiều tác dụng.

Ví dụ như viết chữ, muốn viết chữ đẹp thì phải có công phu tập luyện, nắn nót mà viết từng nét, từng nét ngay ngắn. Tuy chữ viết không nhiều, nhưng nếu ngày ngày đều viết thì đến cuối cùng mới viết chữ đẹp được. Có người nhìn thấy bút thì liền cầm lên viết chữ, viết này vẽ nọ, lâu dần xem ra như rất thành thục nhưng kỳ thực chẳng có chút công lực nào. Cũng có người, lúc trẻ tuổi viết chữ đẹp nhưng đến già lại viết chữ xấu, bởi vì họ không còn tỉ mỉ, chu đáo, tùy tiện múa bút, dần dần trở nên cẩu thả không còn sửa được nữa.

Niệm Phật cũng như vậy, thời gian đừng ngại ngắn dài, niệm danh hiệu Phật cũng đừng kể ít nhiều, nhưng ba thứ “miệng, tai, tâm” cần phải chuyên nhất, buộc niệm không tán loạn. Nếu như miệng cứ lo niệm, trong tâm lại suy nghĩ tán loạn, lung tung đến ngay bản thân cũng không biết đang niệm gì, thì cho dù một ngày niệm hơn mấy vạn tiếng cũng không ích gì. Cho nên nếu một người muốn không rời niệm Phật, không rời cuộc sống hằng ngày, thì nhất định phải đạt được thành tựu rồi mới làm được.

Người mới học đạo, bảo họ đi đường cũng niệm Phật, làm việc cũng niệm Phật, đó là phương tiện để đưa họ về với Phật pháp. Niệm Phật muốn được vãng sinh thì nhất định phải tu tập chuyên cần nhất tâm. Nếu như niệm Phật mà để cho vọng tưởng tràn lan trong tâm, thời gian lâu sẽ thành thói hời hợt, lan man, nhãn nhã, biếng nhác, khó có thể đạt được nhất tâm bất loạn. Muốn niệm Phật vẫn là chân thật mới tốt!

5.4 - Âm thanh niệm Phật

Nói đến âm thanh xưng niệm danh hiệu Phật, có ba loại: 1. Lớn tiếng, 2. Nhỏ tiếng, 3. Niệm thầm. Cả ba loại này đều được sử dụng trong quá trình niệm Phật.

Nếu như quen niệm nhỏ tiếng trong thời gian dài rất dễ bị hôn trầm, liền cất giọng cao lên, niệm lớn tiếng một chút, hôn trầm sẽ hết. Người quen niệm lớn tiếng lại dễ nổi nóng, phát cáu khiến tâm tán loạn thì đổi giọng niệm thấp xuống để lắng dịu trở lại. Âm thanh lớn hay nhỏ phải dựa vào yêu cầu của tình huống thực tế mà điều chỉnh thay đổi, niệm thấp giọng hay niệm cao giọng đều không vấn đề gì. Nhưng nếu chỉ dùng miệng niệm, bất luận là niệm cao giọng hay thấp giọng đều không thể đắc Định.

Theo Phật pháp, trong Định chỉ có ý thức, năm thức trước (tiền ngũ thức) “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân” đều không khởi tác dụng, miệng niệm nghe âm thanh đương nhiên không thể nói đến cảnh Định. Mục đích của niệm Phật là đạt đến nhất tâm bất loạn cho nên cần phải niệm thầm. Niệm thầm còn gọi là “Kim cang trì” tức niệm danh hiệu Phật trong tâm, miệng không niệm ra tiếng. Tuy không có tiếng nhưng bản thân lại nghe thấy rất lớn, hơn nữa câu câu chữ chữ rõ ràng, niệm như vậy tâm dần dần hướng về một cảnh, ngoại duyên dừng lại mới có thể đắc Định.

Nói đến niệm nhanh chậm, chúng ta niệm Phật ban đầu đều rất chậm, đến lúc chuyển chuông mõ nhanh hơn liền tăng tốc dần. Điều này rất có ý nghĩa, bởi vì niệm chậm, âm thanh nhất định phải kéo dài, như: Nam - Mô - A - Di - Đà - Phật. Khoảng cách giữa mỗi chữ dài, vọng tưởng tạp niệm sẽ dễ dàng xen vào giữa các tiếng niệm, cho nên phải chuyển niệm nhanh hơn để tạp niệm không xen vào được.

Đi thiền hành nhanh với cách thức nhanh trong thiền đường cũng như vậy, thúc giục rất nhanh rất gấp, ép cho tâm chỉ chuyên vào một điểm, không kịp khởi vọng tưởng. Nhưng niệm gấp như vậy cũng không tốt, sẽ tổn khí, nếu khí không thuận thì các vọng tưởng phân biệt cũng sẽ đến theo, nên chuyển niệm chậm lại, tâm lực rộng rãi, vọng tưởng phân biệt cũng dần dần mất đi.

Đây hoàn toàn là một loại kỹ năng, hoặc chậm rãi hoặc nhanh gấp, thỉnh thoảng thay đổi điều chỉnh khiến cho tâm dần dần rời được chấp bên này bên kia, quy về trung đạo. Như cưỡi ngựa, nếu nghiêng về bên trái thì kéo cương sang bên phải, nếu nghiêng về bên phải thì kéo cương sang bên trái, lúc không trái không phải, thì khiến cho nó thuận theo đường mà đi thẳng. Niệm Phật không phải chỉ là miệng niệm, không quan trọng âm thanh nghe hay cũng không quan trọng niệm nhiều niệm lâu, mà luôn phải giữ cho tâm hướng đến bình tĩnh, hướng về chuyên nhất, đạt được nhất tâm bất loạn.