• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 44
  • Sau

6Nhất tâm bất loạn

Niệm Phật cầu sinh thế giới Cực Lạc, có thể vãng sinh hay không, quan trọng nơi nhất tâm bất loạn, điều này trong Đại A Di Đà kinh và Tiểu A Di Đà kinh đều có nói đến. Đại sư Liên Trì cũng có phân biệt ra sự nhất tâm và lý nhất tâm. Sự nhất tâm lại có thể phân tích thành hai loại là tịnh niệm tương tục, định tâm hiện tiền.

Nội tâm của chúng sinh vô cùng phức tạp, đặc biệt là tập khí phiền não từ vô thỉ đến nay sẽ ẩn náu và hiện khởi bất cứ lúc nào, rất khó để đạt đến nội tâm nhất trí - không tán loạn. Công đức vô biên của Phật pháp phải từ Định lực mà khai phát ra. Tâm niệm tán loạn bất tịnh chính là tâm hư vọng phân biệt, phân biệt tức là vọng tưởng. Điều này có thể bao quát tất cả tâm hữu lậu, tất cả tâm khi ở địa vị chúng sinh đều không ngoài tâm hư vọng phân biệt.

Theo chứng ngộ mà nói, đây đều là vọng tưởng nhưng theo nhất tâm bất loạn mà nói thì vọng tưởng cũng có diệu dụng. Trong tâm hư vọng phân biệt, tâm sở pháp có hiện tiền của tâm thiện như niệm thiện đối với Phật, Pháp, Tăng, cũng có sinh khởi của tâm ác như các phiền não, tham sân. Người mới học Phật muốn nhanh chóng không còn phân biệt, không còn vọng tưởng, thật không dễ!

Cho nên trước hết phải dùng niệm thiện đối trị niệm ác, dùng niệm tịnh để trừ bỏ niệm nhiễm. Niệm Phật chính là một trong những phương pháp này, niệm Phật A Di Đà thì có thể trừ bỏ được mọi vọng niệm bất tịnh. Tuy nhiên trong niệm thiện niệm tịnh vẫn có thể là loạn tâm, lúc thì là Phật lúc lại là Pháp, có nghĩa là nội tâm thiện lành thanh tịnh nhưng vẫn còn tán loạn. Do đó cần phải thanh tịnh tâm niệm, hơn nữa phải niệm niệm liên tục. Lúc này không những niệm ác không khởi mà ngoài Phật A Di Đà thì những niệm thiện khác cũng không sinh khởi. Niệm niệm đều là Phật, liên tục như vậy nên gọi là tịnh niệm tương tục, cũng chính là trạng thái ban đầu của nhất tâm bất loạn. Điều này trên phương diện tu hành thì không quá khó, vì đây không phải là đắc Định mà chỉ dừng lại ở trạng thái ban đầu của thành tựu.

Thông thường niệm Phật, lúc tán loạn tạm dừng thì lại chuyển ra mờ mịt mê muội, kỳ thực khi ấy từng niệm không rời tạp niệm (đương nhiên không phải xúc động lớn), bản thân không biết nên rất dễ nhầm tưởng cho rằng đạt được nhất tâm rồi. Tâm chuyển trên từng niệm không chạy theo ngoại cảnh vừa mới tán loạn chạy theo ngoại cảnh, lập tức dùng niệm Phật để kéo trở lại.

Từng niệm từng niệm chỉ có câu niệm Phật, lìa trạo cử, hôn trầm, không có tạp niệm xen vào, không bị gián đoạn, rõ ràng hiện tiền, tức là nhất tâm bất loạn. Niệm Phật không quan trọng thời gian ngắn hay dài, số lượng nhiều hay ít, chủ yếu là phải đạt đến nhất tâm bất loạn. Theo kinh nói: “Niệm Phật có lúc một ngày hoặc là bảy ngày, một niệm cho đến mười niệm”. Cho nên, bất luận thời gian dài hay ngắn, nếu như thật sự có thể vạn duyên buông xuống chỉ có tịnh niệm Di Đà, cho dù là liên tục trong thời gian ngắn cũng chính là nhất tâm bất loạn. Tịnh niệm liên tục như vậy mới đảm bảo chắc chắn vãng sinh Tịnh độ. Lúc tịnh niệm liên tục hoặc có được pháp lạc thanh tịnh, hoặc thoạt nghe có mùi hương, bỗng nhìn thấy ánh sáng, Định tâm hiện tiền, đó là tiến sâu hơn một tầng nữa.

Định có điều kiện nhất định, không phải chỉ xếp bằng ngồi là đủ mà trước tiên cần phải buộc niệm vào một đề mục nhất định, Thiền - Chỉ thành tựu rồi mới có Định tâm hiện tiền. Vị đáo định (gần đạt định) thấp nhất nhỏ nhất, cũng có lẫn lộn quên mất cảnh giới thân tâm hiện tại của mình, chỉ là một vùng quang minh thanh tịnh. Niệm Phật đắc Định gọi là niệm Phật tam muội. Lúc này năm thức không khởi, chỉ có ý thức hiện tiền trong Định, xưng danh quán tướng, cũng có thể thấy được Phật A Di Đà hiện tiền. Thậm chí khi chưa đạt được tịnh niệm liên tục, trong mộng cũng có thể nhìn thấy Phật A Di Đà, đây là cảnh mộng chưa hẳn được vãng sinh. Chính Định hiện tiền nhìn thấy Phật A Di Đà, đây có thể xem là sự bảo đảm chắc chắn vãng sinh Tịnh độ.

Niệm Phật không có tín tâm và hạnh nguyện, cũng có thể đạt đến quán Phật thành tựu, nhưng không nhất định là vãng sinh (nhờ Phật giảng dạy, phát nguyện thì có thể vãng sinh). Tuy nhiên, nói Phật là bậc có tâm Đại bi rộng lớn trùm khắp, bất cứ lúc nào cũng đang cứu độ chúng sinh, chỉ là chúng sinh có thể tiếp nhận ân đức của Phật hay không? Chúng sinh có thể đưa tâm dần dần trở về một, tâm địa thanh tịnh, những chướng ngại vật như các Hoặc nghiệp dứt trừ. Khi ấy nguyện của chúng sinh sẽ có thể cảm thông với nguyện của chư Phật, nhìn thấy được Phật A Di Đà, được vãng sinh Tịnh độ, như vậy mới hiển bày được tác dụng của từ bi nguyện lực.

Có một loại chúng sinh bình thường không biết Phật pháp thoải mái làm xằng làm bậy, đến lúc lâm chung gặp được thiện hữu tri thức hướng dẫn, sám hối thống thiết về các tội ác trong quá khứ. Chúng sinh đó có thể trong một thời gian ngắn một lòng một dạ, chí thành tha thiết niệm A Di Đà Phật liền có thể vãng sinh Tịnh độ. Đó là vì một mặt lo sợ về cái chết, một mặt lo sợ bị đọa lạc, cho nên sự nhiệt thành về tín tâm và hạnh nguyện vô cùng tha thiết, có thể trong một thời gian ngắn đạt nhất tâm bất loạn, mà được vãng sinh.

Để điều hòa sự tranh luận giữa Thiền tông và Tịnh độ, Đại sư Liên Trì đề ra thuyết “Lý nhất tâm” để làm điểm chung, dung hòa giữa hai tông. Pháp môn Tịnh độ của Trung Quốc đời nhà Đường rất xem trọng tha lực, mà Thiền tông lại chủ trương ngoài tâm không có vật, dừng ngay tất cả phân biệt; cho nên phê bình có thủ (Tịnh độ), có xả (Ta bà), có niệm (Phật) phân biệt của pháp môn Tịnh độ. Kỳ thực Thiền tông và Tịnh độ mỗi bên đều có đặt trọng tâm riêng, do chấp một là tất cả mới có tranh luận, nếu quan sát toàn bộ Phật giáo thì sẽ không dẫn đến xung đột. Vì vậy Đại sư Liên Trì đặc biệt đề xướng thuyết “Lý nhất tâm”, để điều hòa tranh luận giữa Thiền tông và Tịnh độ.

Lý nhất tâm tức thể ngộ pháp tính bình đẳng không hai không khác, lìa tất cả tướng liền thấy Như Lai, như vậy Thiền tông và Tịnh độ sẽ có điểm chung. Nhưng đây là tùy thuận theo nghĩa lý sâu xa mà nói, nếu thuận theo đặc tính Đạo dễ hành và Tha tăng thượng của pháp môn Tịnh độ thì cơ duyên niệm Phật vãng sinh đã có sẵn, vốn là bảo hộ sơ tâm. Thiền tông hay Tịnh độ mỗi tông đều có đặc sắc riêng, không nhất định lấy “nhất tâm” làm điểm chung để dung hòa.

Pháp môn Tịnh độ nhờ Phật nhiếp thụ, chỉ cần “sự nhất tâm” niệm Phật là được. “Lý nhất tâm” trước hết cần phải thành tựu Định tâm, sau đó tiến thêm bước nữa là trong Định khởi quán: “Phật đã không đến, ta cũng không đi, thân ta thân Phật cùng là như huyễn như mộng, đều là do tâm phân biệt hư vọng hiển hiện ra”. Quán như thế là thoát khỏi chấp trước về danh sắc và tướng trạng, xa lìa tất cả chấp trước mà hiện chứng pháp tính.

Đến bước này rồi mà có nguyện vãng sinh Cực Lạc, thì luận về phẩm vị có lẽ phải từ Thượng phẩm thượng sinh trở lên. Nếu như không có mong muốn đặc biệt vãng sinh thế giới Cực Lạc, thì không nhất định sinh về Cực Lạc, còn nếu vãng sinh thì “mười phương Tịnh độ tùy nguyện vãng sinh”.