• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 21

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 20
  • 21
  • 22
  • More pages
  • 44
  • Sau

7Vãng sinh và liễu thoát sinh tử

Vãng sinh là nói về lúc lâm chung ở thế giới này có thể sinh về thế giới Cực Lạc. Vốn là thụ sinh sau khi chết hoặc từ thế giới này sinh đến thế giới kia, khả năng để vãng sinh khác nhau nhưng thông thường nhất là do nghiệp lực. Có nghiệp của cõi trời thì sinh về cõi trời; có nghiệp của con người thì sinh vào nhân gian, v.v. Chúng sinh trong sáu đường đều theo nghiệp lực mà thụ sinh.

Ngoài ra còn có nguyện lực và thần thông lực, như trời không có nghiệp lực của nhân gian, họ có thể đến nhân gian là nhờ vào sức mạnh của thần thông. Sau khi hạ sinh họ hiện ra thân thể của nhân gian, mượn dùng tỵ thức, thiệt thức, v.v. của cõi dục giới mà khởi lên tác dụng, nhưng thân thể Thiên nhân sáng chói, tổ hợp vật chất vô cùng vi diệu. Giống như vậy, chúng ta tu được thần thông lực rồi cũng có thể sinh đến những cõi cao hơn. Hiện tại chúng sinh sinh về Tịnh độ không phải do thần thông lực mà là nguyện lực. Chúng sinh lấy nhất tâm bất loạn làm nhân chính khiến cho tâm được thanh tịnh đắc Định, lại từ nguyện của chúng sinh và nguyện của Phật A Di Đà nhiếp thụ dẫn dắt, mà được vãng sinh Tịnh độ.

Luận theo nhân mà chiêu cảm quả thì Tịnh độ chưa phải là của chúng sinh, nhưng chúng sinh vẫn có thể hưởng thụ. Như vương cung là sở hữu của vương gia, tuy nhiên những người phục dịch, nữ hầu trong vương cung vẫn có thể hưởng thụ vườn hoa cây cối đẹp đẽ, nhà cửa trang nghiêm điêu khắc lộng lẫy, ẩm thực sơn hào hải vị, âm nhạc đàn trống kèn sáo không khác gì những người thuộc hàng vương thất, tất nhiên đây không phải là tự lực. Vãng sinh Tịnh độ cũng giống như vậy, chúng sinh nhờ vào nguyện lực của Phật A Di Đà, cho nên ngay bản thân họ cũng có thể hưởng thụ pháp lạc của Tịnh độ.

Ngày nay có một số người hoằng dương Tịnh độ, cho rằng liễu thoát sinh tử chính là niệm Phật, vậy nên lấy từ “niệm Phật” để thay thế cho việc “liễu thoát sinh tử”. Kết luận như vậy làm trở ngại vô lượng vô biên pháp môn của Phật pháp. “Liễu thoát sinh tử” lẽ nào chỉ giới hạn ở một pháp môn niệm Phật ư? Hơn nữa liễu thoát sinh tử và vãng sinh là hai việc khác nhau, ở giữa chúng còn có một khoảng cách rất khác biệt. Trên mặt tư tưởng, xem vãng sinh là liễu thoát sinh tử là có sự nhầm lẫn rất lớn. Sinh tử là sống chết liên tục của việc sinh ra rồi chết đi, chết đi rồi sinh ra. Liễu thoát sinh tử không phải là hiểu rõ về sinh tử, mà là đã triệt để giải quyết xong việc sinh tử rồi, không còn luân hồi qua lại trong vòng sinh tử nữa. Sinh tử là quả khổ từ nghiệp phiền não mà có, có phiền não tức tạo nghiệp, tạo nghiệp thì chiêu cảm quả khổ, ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ lưu chuyển như vòng tròn.

Căn bản của phiền não là chấp ngã hoặc nói là vô minh, chưa đạt đến trình độ thấy ta và muôn pháp là tính Không. Phiền não, chấp ngã, chấp pháp là căn bản của sinh tử; phiền não có thể dẫn đến các loại nghiệp ác nghiệp thiện, có nghiệp thì ắt có quả. Sinh tử là việc như vậy, muốn liễu thoát sinh tử, nhất định phải phá trừ căn bản của sinh tử, thông đạt tính vô ngã, thấy rõ lý chân thật, không khởi chấp ngã chấp pháp, đoạn trừ căn bản phiền não. Một khi phiền não được đoạn trừ thì chỉ còn lại nghiệp lực. Khi nghiệp lực không còn bị phiền não tưới tẩm, dần dần sẽ mất đi hiệu lực mà không khởi sinh tác dụng nữa, không chiêu cảm sinh tử nữa.

Liễu thoát sinh tử, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa đều như nhau, nhưng trên nguyên tắc chính thì không có ngoại lệ. Theo đó mà nói, vãng sinh Tịnh độ chưa thấy được chân lý, chưa đoạn hết phiền não. Phiền não chưa đoạn hết thì làm sao có thể liễu thoát sinh tử được! Cho nên vãng sinh không phải là liễu thoát sinh tử, nếu nói họ liễu thoát sinh tử rồi, thì đó là nói tương lai họ nhất định sẽ liễu thoát được, chứ không phải nói hiện tại đã liễu thoát rồi. Chúng sinh sinh đến Tịnh độ thiện duyên đầy đủ, cùng với chư Thượng thiện nhân tụ hội một nơi, tinh tấn tu học, chuyển biến tiến bộ, được bất thoái chuyển; chắc chắn sẽ đạt được mục đích liễu thoát sinh tử, chỉ là thời gian sớm hay muộn mà thôi. Cho nên nói vãng sinh Tịnh độ có thể liễu thoát sinh tử, đó chính là đang xét từ nhân mà đưa ra kết luận về quả.

Như người từ ở độ cao tầng thứ 13 nhảy xuống, trước khi anh ta rơi xuống đất mà khẳng định anh ta ngã xuống chết, tức là kết luận anh ta sau khi rơi xuống đất nhất định sẽ chết. Sự thật thì lúc ở trong không trung anh ta chưa chết. Tuy nhiên nói như vậy cũng không sai, bởi vì khi thân thể anh ta chạm đất thì chắc chắn sẽ chết.

Trong Pháp hoa kinh có ghi: “Một câu xưng Nam mô Phật cũng đều thành Phật đạo”. Bảo Vân kinh cũng có viết: “Một câu niệm Thích Ca Mâu Ni Phật cũng được bất thoái chuyển, chứng đắc Vô thượng Chính đẳng Chính giác”, đây đều là xét từ nhân đưa đến kết quả về sau, có nhân duyên niệm Phật, tu học lâu ngày ắt sẽ được liễu thoát. Đây là dựa vào vãng sinh thông thường để nói chưa thể nào liễu thoát sinh tử được. Cho dù là Thượng phẩm thượng sinh cũng phải sau khi vãng sinh hoa nở thấy Phật, ngộ vô sinh nhẫn, mới có thể phá trừ vô minh, đoạn trừ căn bản sinh tử.

Chúng ta thấy, vãng sinh và liễu thoát sinh tử rõ ràng là hai việc khác nhau không thể xem là một. Nội dung của vãng sinh và liễu thoát sinh tử nếu phân tích ra sẽ tương ưng với tất cả giáo lý. Nhưng nếu mà đẩy lên cáo quá, cho rằng vãng sinh tức là liễu thoát sinh tử thì lại trái với giáo lý mà Đức Phật đã dạy. Cho nên người suy nghĩ như vậy thì quả thật là không hiểu biết gì về Phật pháp, chúng ta không còn gì để luận bàn về hạng người này nữa. Người tu học Phật pháp khi nghe điều này mà khởi nghi hoặc, thì sẽ sinh ra chướng ngại đối với Tịnh độ.