• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 44
  • Sau

8Kết luận

Tổng kết những điều đã nói ở trên, về pháp môn Tịnh độ có mấy điểm quan trọng, cần đặc biệt chú ý:

Thứ nhất là “bản nguyện lực”: Chúng sinh có thể vãng sinh Tịnh độ chủ yếu là nhờ vào bản nguyện từ bi của tha lực, nếu chỉ dựa vào tự lực thì không đủ. Người tu Tịnh độ tông niệm Phật đều tôn Đại sư Tuệ Viễn Lô Sơn là Sơ tổ. Kỳ thực pháp niệm Phật của Ngài Tuệ Viễn không phải xem trọng miệng niệm mà từ Ngài Đàm Loan, Đạo Xước thời Bắc Ngụy đến Đại sư Thiện Đạo đời nhà Đường, mới đặc biệt xem trọng pháp môn xưng niệm danh hiệu Phật.

Đại sư Thiện Đạo có viết Quán kinh Tứ thiếp sớ, trong đó chú trọng nguyện lực từ bi, cho rằng trì giới, phạm giới đều có thể vãng sinh. Câu nói: “Rộng độ các căn cơ, không lựa chọn thiện ác” không sai, bởi vì trong kinh cũng có nói đến người phạm mười điều ác, năm điều ngỗ nghịch cũng có thể thành Phật. Phái này truyền đến Nhật Bản phát triển thành Chân tông, nói rằng người thiện người ác đều có thể vãng sinh; Niệm Phật không phân biệt người tại gia hay xuất gia, cho nên có thể tự do lấy vợ, ăn thịt, chủ trương bỏ Thánh đạo “Giới, Định, Tuệ” mà chuyên vào bản nguyện.

Do xem trọng bản nguyện lực cũng như tha lực của Phật A Di Đà, cho nên họ lại cho rằng, chỉ cần tin thì ngay lập tức được Phật A Di Đà tiếp độ; bình thường không cần niệm Phật, không cần niệm đến nhất tâm bất loạn, mà chỉ cần tin là được vãng sinh. Hành giả Tịnh độ ở Trung Quốc cảm thấy hành giả Tịnh độ Nhật Bản như vậy là vô cùng kỳ lạ. Nhưng thật ra họ vẫn tuân theo đường hướng cũ từ Trung Quốc đã truyền sang, chỉ là càng đi càng xa, càng xa càng nhỏ, như chui vào cái sừng trâu mà thôi.

Theo nghĩa căn bản trong Phật pháp thì vãng sinh về thế giới Cực Lạc đặc biệt xem trọng tha lực. Nếu nói ngay cả những công đức về Giới cũng không cần nữa, vậy thì Tịnh độ đâu cần có phân chia ba bậc chín phẩm chứ? Phân chia chín phẩm lấy Thánh đạo làm tiêu chuẩn, người phạm tội ngũ nghịch thập ác, nếu sinh về Tịnh độ cũng chỉ là Hạ phẩm hạ sinh. Bình thường hiếu kính thầy tổ, siêng năng giữ Giới, tu tập Định Tuệ, hiểu rõ nghĩa Không, mới có thể sinh đến Trung phẩm trở lên Thượng phẩm thượng sinh. Trong Tịnh độ tân luận tôi có nói: “Như năm đói kém mất mùa, lương thực thiếu thốn, ăn cám có thể duy trì mạng sống. Nhưng đến năm mùa màng bội thu thì nên dùng gạo mạch để nuôi thân. Nếu cứ cứng nhắc nói ăn cám là tốt nhất, những thứ khác đều không cần, như vậy không phải thành người điên khùng rồi sao?”

Nhưng niệm một câu “A Di Đà Phật” mà vãng sinh, là nói cho người từng phạm mười điều ác, năm điều ngỗ nghịch lúc sắp lâm chung, giống như gặp năm đói kém bảo người ta ăn cám, chỉ là biện pháp bất đắc dĩ. Quý vị đã không phải là người có gieo nhân đọa địa ngục của thập ác ngũ nghịch, lại không phải tướng chết hiện tiền, bình thường đến học Phật niệm Phật, tại sao không tùy theo khả năng của mình mà tu tập công đức? Tại sao không siêng năng tu hành Thánh đạo trong sự tiếp độ của nguyện lực Di Đà? Thậm chí nói chỉ cần tin, không cần niệm Phật cũng có thể vãng sinh, thật là hồ đồ quá!

Như có người rơi xuống biển, muốn người khác cứu mà không đưa tay nắm lấy phao cứu sinh và sợi dây, thử hỏi làm thế nào có thể lên bờ được? Không niệm Phật làm sao đạt được nhất tâm bất loạn? Làm sao có thể tương thông với nguyện lực của Phật? Cũng không thể nào trừ bỏ chướng ngại trong tự tâm chúng sinh, mà tương ưng với nguyện lực của Phật được? Đức Phật nói niệm Phật phải niệm đến nhất tâm bất loạn, người đó tin tưởng vào nguyện lực của Phật A Di Đà, mà không tin phương pháp tiếp thu nguyện lực Di Đà, thật là nực cười. Buông xuôi tự lực thì khác nào phát triển thần hóa theo tinh thần của thần giáo!

Thứ hai, tôi giảng pháp môn Tịnh độ, phần nhiều là căn cứ vào kinh luận của Ấn Độ, chứ không phải lấy di huấn của những Tổ sư Trung Quốc làm mực thước phải tuân theo. Chiếu theo ý nghĩa của kinh luận mà nói, không dám làm tổn hại cũng không dám cường điệu hóa, cho nên có chút khác nhau với thân phận của hành giả Tịnh độ. Đạo dễ hành không phải là vượt ra khỏi ba cõi có thể dễ dàng thành Phật, mà là pháp môn dễ học, dễ hành trì, phương pháp tương đối vững chãi.

Kỳ thực, Đạo dễ hành thì khó thành Phật, như Phật Di Lặc nói: “Đạo khó hành ngược lại dễ thành Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni”. Cho nên A Di Đà kinh nói: “Ở cõi Ta Bà tu hành một ngày hơn cả Tịnh độ rất nhiều”. Điểm đặc sắc của Tịnh độ là dựa vào tha lực mà được vãng sinh, nhưng vãng sinh lại không phải là liễu thoát sinh tử. Điều này đối với người cho rằng niệm Phật để liễu thoát sinh tử mà nói, sẽ cảm thấy chua xót. Tuy nhiên phải hiểu rằng đây không phải là xem nhẹ giá trị của pháp môn Tịnh độ.

Thứ ba, tuy nói rộng độ tất cả các căn cơ, nhưng pháp môn niệm Phật của Tịnh độ chủ yếu dành cho người sơ tâm học đạo. Có hàng chúng sinh cảm thấy Phật pháp quá sâu rộng lại rất khó thực hành. Cho dù họ dùng thời gian cả đời để tu tập, trên mặt giáo lý còn chưa rõ nên bắt đầu từ đâu, ngộ chứng đã khó mà hạnh Bồ tát khó hành, càng không thể làm được. Thoáng chốc qua một đời, cái chết đã đến trên đầu, cũng không biết đời sau rốt cuộc như thế nào nữa? Bởi vì có những chúng sinh tâm tính yếu đuối này nên có Đạo dễ hành, có pháp môn Tịnh độ phương tiện thù thắng. Như Đại thừa khởi tín luận nói: “Chúng sinh mới học pháp này... tâm họ yếu đuối... thế giới Ta bà... tâm tin tưởng lại khó thành tựu... Như Lai có phương tiện thù thắng, bảo hộ tín tâm”. Những chúng sinh tâm trí yếu kém này không dám gánh vác gia nghiệp của Như Lai, tuy học Phật nhiều năm vẫn còn sống cuộc đời muộn phiền đau khổ.

Có người còn cho rằng Phật giáo không bằng thần giáo, vì thần giáo chỉ cần tin là được cứu độ, đơn giản thuận lợi biết bao? Nghe đến luân hồi trong ba cõi, tự thấy đường trước mắt mờ mịt, cảm thấy tất cả đều không thể nắm bắt được, lòng tin bị dao động, dễ dàng thoái chuyển rơi vào ngoại đạo. Căn cơ chủ yếu mà pháp môn niệm Phật rộng độ, bảo hộ là những chúng sinh mới phát tâm này, nên nói pháp môn Tịnh độ phương tiện thù thắng.

Một khi đến Tịnh độ, cho dù là Hạ phẩm hạ sinh cũng có thể dần dần tu học đi lên, đạt đến kết quả thành Phật. Đây là diệu dụng của pháp môn Tịnh độ, hay ở chỗ là vãng sinh nhất định sẽ được “không thoái chuyển nơi A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề”. Tịnh độ có thể nói là pháp môn bảo đảm trong Phật pháp, bảo đảm sẽ không đi sai đường, cũng có thể nói là pháp môn du học. Thế giới Ta bà khó hành khổ hạnh, thành Phật độ sinh là việc không dám tự tin, lo sợ giữa đường thoái thất, công lao trước đây đều bỏ hết sinh Tịnh độ là tốt rồi. Điều này giống như tiêu chuẩn giáo dục của chúng ta thấp kém, thiết bị, máy móc, thư viện cũng không đầy đủ, không tốt bằng trường học ở nước ngoài, cho nên cần đi du học. Đi học ở nước ngoài, các điều kiện đầy đủ, việc học dễ dàng thành tựu, sau khi học thành tài có thể trở về cống hiến cho tổ quốc.

Tu học ở Tịnh độ cũng như vậy không khác, tu học đến ngộ vô sinh nhẫn rồi, sau đó quay ngược thuyền từ trở về thế giới Ta bà, cứu độ chúng sinh. Tiểu thừa thường chú trọng tự lợi, cho nên có rất nhiều A la hán xuất hiện. Thiền tông chủ trương “một mực hướng thượng” nên cũng có rất nhiều Tổ sư xuất hiện. Nhưng pháp môn Đại thừa sâu quá rộng quá, không dễ dàng để người thông thường hoàn toàn tin tưởng hành trì theo. Đại thừa Ấn Độ đã hưng thịnh thêm sự dễ dàng của pháp môn Tịnh độ, chính nhờ vậy mà được hoằng dương rộng khắp. Điểm tốt của pháp môn Tịnh độ chính là giản đơn bình dị, nếu diễn giải cao siêu quá thì sợ rằng điều đó không phải là chủ ý của việc lập ra pháp môn này nữa!

Giảng tại chùa Thiện Đạo Đài Bắc

Mùa đông năm 1953