• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 23

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 44
  • Sau

BÀI 4TỊNH ĐỘ TÂN LUẬN

Tác giả: Hòa thượng Ấn Thuận

Dịch giả: Diệu Pháp

1Ý nghĩa và giá trị của Tịnh độ trong Phật pháp

1.1 - Người Trung Quốc rất coi trọng Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà và phương pháp trì danh niệm Phật. Họ đã tiếp nhận pháp môn này từ Tây Vực và dần dần phát triển hưng thịnh trên đất nước mình.

Niềm tin vào cõi Tịnh độ có vị trí cực kỳ quan trọng trong Phật pháp, vì thế người học Phật chúng ta cần phải biết rõ giá trị và ý nghĩa của pháp môn này trong giáo pháp của Đức Như Lai.

Khi nghe nói đến Tịnh độ, thường thì mọi người sẽ nghĩ ngay tới Tịnh độ Cực Lạc ở Tây phương, hoặc Đức Phật A Di Đà hay việc niệm Phật vãng sinh. Nhưng niệm Phật và Tịnh độ trong Phật giáo không chỉ giới hạn cho Tịnh độ Tây phương hay việc xưng niệm danh hiệu của Đức Phật. Đặc biệt Phật giáo Trung Quốc lại vô cùng coi trọng Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà và phương pháp trì danh niệm Phật. Họ đã tiếp nhận pháp môn này từ Tây Vực và dần dần phát triển hưng thịnh trên đất nước mình.

Bây giờ, chúng ta sẽ đứng từ tổng thể của Phật giáo nhìn nhận một cách bao quát cụ thể để trình bày rõ ràng, thông suốt về vấn đề này.

1.2 - Giới luật và Tịnh độ là mục tiêu hướng tới chung của Phật giáo, không nên phân chia thành hai tông phái riêng biệt.

Tôi thường nói rằng: “Giới luật và Tịnh độ không nên phân chia thành hai tông phái riêng biệt”. Điều này cũng giống với nhận định của Thái Hư Đại sư: “Giới luật là nền móng chung của Tam thừa, còn Tịnh độ là mái nhà chung của Tam thừa”. Đại sư thường nhấn mạnh, giới luật là nền móng căn bản của Tam thừa, bởi vì người học Phật bất luận là xuất gia hay tại gia đều không thể không hành trì và gìn giữ giới luật.

Tịnh độ là thế giới hoàn mỹ mà Đại thừa và Tiểu thừa cùng hướng về. Tất cả các tông như: Thiên thai, Hoa nghiêm, Duy thức, Tam luận, cho đến Thiền tông đều có thể tu tập theo phương thức của pháp môn Tịnh độ và hoằng dương pháp môn này. Đây là mục tiêu chung cùng hướng tới của toàn thể Phật giáo chứ không phải vấn đề riêng của một tông phái nào.

Kết luận trên được đưa ra là do đứng từ góc độ toàn diện của Phật giáo, còn với quan điểm riêng của người chỉ hoằng hóa riêng một tông phái nào đó, thì đương nhiên là có nhiều sự khác biệt.

1.3 - Sự trang nghiêm thanh tịnh được thống nhất, về lý về tình đều có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.

Trước tiên nói về ý nghĩa của hai chữ Tịnh độ. “Độ” tiếng Phạn là “Ksetra”, lược dịch là “sát”. “Ksetra”, có nghĩa là thế giới, địa phương hay nơi chốn. Tịnh độ được hiểu là nơi chốn, địa phương hoặc thế giới thanh tịnh. Trong đó “Tịnh” là không ô nhiễm, không nhơ bẩn, bao gồm cả hai ý nghĩa tiêu cực và tích cực.

Trong Phật pháp chữ tịnh thường dùng để đối trị với các loại tạp nhiễm (các pháp hữu lậu) như vô cấu, vô lậu và không, những việc này đều chú trọng vào sự phủ định, thuộc mặt tiêu cực. Còn về mặt tích cực là không có nhiễm ô mà hoàn toàn thanh tịnh; không có phiền não chỉ có trí tuệ; không có sân giận mà tràn ngập từ bi; không có lỗi lầm, tạp nhiễm mà chỉ có công đức thanh tịnh. Vì thế “Tịnh” là hoàn toàn không nhiễm ô, trong sạch tới mức một hạt bụi cũng chẳng vương, cũng có nghĩa là công đức trang nghiêm.

Các học giả phương Tây đưa ra các quan niệm về chân thiện mỹ, rồi từ ý nghĩa tôn giáo họ còn thêm một điều kiện nữa là chữ “Thánh”. Trong đó, “Chân” được Phật giáo vô cùng xem trọng, ví như các vấn đề về Thực tướng, Chân như, hay Thắng nghĩa. “Thiện” là hành vi đạo đức hay là rất nhiều các hạnh nguyện công đức được tu tập trong Phật pháp. Còn “Mỹ” thì trong Phật pháp thường không được chú trọng lắm, cụ thể như nhan sắc xinh đẹp, âm thanh ngọt ngào ở trong các kinh điển A hàm hay Nikāya thường hay bị chỉ trích là cảnh giới của ngũ dục.

Trên thực tế, sự thanh tịnh trong Phật pháp bao gồm cả hai ý nghĩa của cái đẹp mỹ lệ và sự thuần khiết, thánh thiện. Các học giả phương Tây cho rằng, Thánh không những bao gồm cả chân thiện mỹ, mà còn siêu vượt hơn cả chân thiện mỹ. Từ bỏ những nhận thức sai lầm là Chân, xa lìa những hành vi tội ác là Thiện, thanh tịnh không ô nhiễm là Mỹ. Từ đó ý nghĩa “Tịnh” trong Phật giáo không chỉ biểu đạt toàn bộ chân thiện mỹ, mà còn vượt trên hẳn những nhận thức thông thường của thế tục.

Muốn truyền bá rộng rãi tôn giáo ở trong cuộc đời này, yêu cầu về mặt nhận thức phải “chân” thật, về mặt ý chí phải thuần “thiện”, càng phải phù hợp với tính chất nghệ thuật thẩm “mỹ” cao, đem đến cuộc sống viên mãn hạnh phúc. Nên từ xưa, âm nhạc ca vịnh, điêu khắc hội họa, văn học thi từ, thí dụ ngụ ngôn, chạm khắc tượng Phật, kiến trúc chùa tháp, v.v. đối với sự phát triển của Phật giáo giữ một vị trí vô cùng quan trọng.

Chúng ta muốn đưa Phật giáo phổ biến, phát triển khắp trong nhân loại thì cần chú trọng cả hai phương diện lý trí và tình cảm. Có như thế Phật giáo mới phù hợp với nguyện vọng của quần chúng, đồng thời có thể phát triển một cách hài hòa và bền vững. Quá thiên về lý trí thì cuộc sống thường sẽ tẻ nhạt, đơn độc. Quá thiên về tình cảm, cuộc sống luôn sôi nổi, náo nhiệt, thì dễ dẫn đến phóng túng buông thả, mất đi kỷ cương và nguyên tắc của con người. Chỉ khi biết cách thống nhất, dung hòa cả lý trí và tình cảm, thì cuộc sống mới có ý nghĩa, hơn nữa là có đủ khả năng chuyển hóa, thanh tịnh lòng người thành bậc Hiền Thánh.

Sự trang nghiêm thanh tịnh của Phật pháp có một ý nghĩa sâu sắc như thế, nhưng những nhà nghiên cứu Phật học, đặc biệt là các Luận sư A tỳ đạt ma lại thường xem nhẹ ý nghĩa này. Nếu xét từ phương diện của các nhà Thí dụ sư, các học giả Đại thừa về vấn đề truyền bá Phật giáo rộng rãi trong cuộc đời, thì chúng ta có thể xác định rõ ràng ý nghĩa vô cùng quan trọng của sự trang nghiêm thanh tịnh.

1.4 - Tịnh là cốt tủy của Phật pháp, bao gồm cả “thanh tịnh chúng sinh” và “thanh tịnh thế giới”.

Tịnh độ là chỉ cho một nơi thanh tịnh hay một cõi thế giới thanh tịnh trang nghiêm. Nghĩa lý thâm sâu vi diệu của Phật pháp có thể thâu tóm trong chữ “Tịnh”, do đó Tịnh chính là cốt tủy của Phật pháp.

Tịnh ở đây thể hiện trên hai phương diện: Một là chúng sinh thanh tịnh, hai là thế giới thanh tịnh. A hàm kinh khẳng định: “Bởi tâm mình thanh tịnh nên chúng sinh thanh tịnh”. Kinh điển Đại thừa lại nhấn mạnh: “Trong tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh”. Bởi vậy tôi đã từng đưa ra khẳng định: “Tâm tịnh chúng sinh tịnh, tâm tịnh quốc độ tịnh, vô lượng ý nghĩa của Phật pháp đều lấy tịnh làm gốc”.

1.5 - Tín ngưỡng Tịnh độ không thể bị chê bai hay hủy báng. Lìa xa Tịnh độ thì Đại thừa Phật giáo sẽ không có cách nào tồn tại được. Vậy làm sao để tu tập và xây dựng Tịnh độ? Đây là những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và cẩn thận.

Hàng Thanh văn thừa xem trọng sự thanh tịnh nơi thân và tâm của chúng sinh, chú trọng vào việc đoạn trừ phiền não để hiển bày sự thanh tịnh vô lậu của tự tâm. Còn hành giả Đại thừa không chỉ muốn cho chúng sinh thanh tịnh, mà còn mong cầu cõi nước cũng được thanh tịnh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào hay bất cứ nơi đâu chỉ cần có sự xuất hiện của các loài chúng sinh thì ắt sẽ có môi trường sống của họ. Như loài chim có thế giới của loài chim, loài ong có thế giới của loài ong, các loài hữu tình đều có môi trường để hoạt động sinh sống. Chúng sinh là chính báo, thế giới là y báo, y tức là nơi nương tựa để sinh sống. Người học Phật mà chỉ chuyên tâm tu tập để tìm cầu sự thanh tịnh cho bản thân thôi thì cũng giống với hàng Thanh văn vậy.

Từ sự thanh tịnh của bản thân mà hướng tới mong cầu sự thanh tịnh cho đất nước và thế giới (bao gồm thực hiện các việc lợi ích thành tựu cho chúng sinh) mới thể hiện được nét đặc sắc của Đại thừa Phật giáo. Cho nên người tu học theo pháp Đại thừa cần phải nhận thức từ hai phương diện là tu tập phúc đức và trí tuệ. Về sự siêu việt mà nói, có phúc đức thì tạo thành thế giới thanh tịnh, có trí tuệ thì khiến cho thân tâm thanh tịnh; bỏ phúc mà tu tuệ hay bỏ tuệ chỉ tu phúc thì không phải khí chất, căn tính của hành giả Đại thừa. Do vậy, có thể có những vị A la hán không tu tập phúc đức, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện một vị Phật hay một vị Bồ tát nào mà không tu phúc đức cả.

Các hành giả Đại thừa đều từ hai phương diện này mà hướng tới tu học. Nếu chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn thì các việc lợi tha mà Bồ tát phát nguyện thực hành cũng sẽ bao gồm: Một là thành tựu chúng sinh; hai là trang nghiêm Tịnh độ; khiến các chúng sinh có thiện căn trong Năm thừa đều đủ khả năng thành tựu các thiện pháp, hoặc chứng đắc giải thoát thanh tịnh; khiến cõi thế gian mà chúng sinh đang nương tựa, đang sinh sống được chuyển hóa thành thanh tịnh. Đây là hai nhiệm vụ và hoài bão lớn lao của hàng Bồ tát tu hạnh lợi tha. Việc tu phúc tu tuệ cũng đều lấy việc thanh tịnh chúng sinh và thanh tịnh thế giới làm mục đích. Như vậy, khi hành giả trọn thành Phật đạo là đã thành tựu được trọn vẹn cả hai việc: Pháp thân viên mãn và Tịnh độ viên mãn.

Chúng sinh có y báo, chư Phật cũng có y báo, tất cả đều thành tựu viên mãn hoàn mỹ mới là chân thật thành Phật. Hiểu được điều này chúng ta mới nhận ra được mối quan hệ mật thiết giữa tư tưởng Tịnh độ và Đại thừa Phật giáo. Tín ngưỡng Tịnh độ không thể bị chê bai hay hủy báng. Lìa xa Tịnh độ thì Đại thừa Phật giáo sẽ không có cách nào tồn tại được, bởi lẽ Tịnh độ phù hợp và dung hòa với tư tưởng của Đại thừa.

Vậy rốt cuộc Tịnh độ là gì? Làm sao để xây dựng Tịnh độ? Đây là những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng và chi tiết.