Tịnh độ là nơi quy hướng chung của Tam thừa và thu nhiếp dung thông tất cả Phật pháp.
2.1 - Ba loại Tịnh độ
Tịnh độ là nơi quy hướng chung của Tam thừa, có rất nhiều loại Tịnh độ được Phật giáo Đại thừa đặc biệt đề cao truyền bá. Trong Phật pháp, Tịnh độ thu nhiếp dung thông tất cả, vì lý do đó có thể phân làm ba loại gồm: Tịnh độ chung của Năm thừa, Tịnh độ chung của Ba thừa và Tịnh độ riêng của Đại thừa.
2.1.1 - Tịnh độ chung của Năm thừa
Không chỉ trong giới Phật giáo, bình thường mọi người cũng có ấn tượng về cõi Tịnh độ này. Bắc Câu Lô châu (một trong bốn châu) tiếng Phạn là Uttara-kuru, nghĩa là phúc lạc vô cùng, là nơi có phúc báo và niềm vui không đâu sánh bằng. Người dân Ấn Độ đều thừa nhận sự tồn tại của thế giới này. Ở Trung Quốc, trong tư tưởng truyền bá của Nho giáo và Lão giáo cũng cùng giới thiệu về một nơi giống như vậy.
2.1.2 - Tịnh độ chung của Ba thừa
Đây là nơi mà Đại thừa và Tiểu thừa cùng đề cập tới, nổi bật nhất là Tịnh độ Đâu Suất. Trước khi thành Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Bồ tát trên cung trời Đâu Suất. Ngài từ cõi trời này mà đản sinh xuống thế giới của chúng ta. Quá trình thành đạo của Đức Phật Thích Ca là như thế và Đức Phật Di Lặc sau này cũng sẽ như vậy, vì các vị Bồ tát trước khi thành Phật đều ở tại nội viện Đâu Suất thuyết pháp giáo hóa cho chư thiên và Thánh chúng.
Cung trời (Thiên quốc) vốn đã là nơi vô cùng đẹp đẽ trang nghiêm. Ở cung trời Đâu Suất lại có các vị Bồ tát sắp thành Phật thuyết pháp, cho nên lại càng trở nên đẹp đẽ, trang nghiêm hơn các cõi trời khác, hàng Tiểu thừa Phật giáo đều nhắc tới điều này. Từ các kinh điển mà hàng Thanh văn Phật giáo biên soạn và kết tập, chúng ta có thể thấy, sau này khi Bồ tát Di Lặc hạ sinh sẽ xây dựng nơi này trở thành cõi Tịnh độ tại nhân gian. Đây cũng chính là điều mà những người con Phật đang ngày đêm ước mong, chờ đợi. Bồ tát Di Lặc ở cung trời Đâu Suất ra sao? Tương lai Ngài sẽ hạ sinh như thế nào? Đều được nói rõ trong các bộ kinh như: Di Lặc thượng sinh kinh, Di Lặc hạ sinh kinh, v.v.
Ngoài những vấn đề về cõi Tịnh độ của Bồ tát Di Lặc thường được truyền bá, trong Chính pháp niệm xứ kinh của Hữu bộ và Độc Tử bộ có đoạn nói: “Trên cung trời Dạ Ma, Bồ tát Thiện Thời Nga Vương thường thuyết pháp cho nhân dân tại cõi này nghe”. Cung trời này thanh tịnh, có Bồ tát thuyết pháp, giống như tư tưởng Bồ tát Di Lặc thuyết pháp ở cung trời Đâu Suất. Nhập Đại thừa luận dẫn lại một tích truyện trong kinh điển của Đại chúng bộ rằng: “Đức Thanh Nhãn Như Lai trải qua vô lượng trăm ngàn đại kiếp, ở cung điện của trời Quang Âm (cõi trời Nhị thiền) thuyết pháp giáo hóa hàng Bồ tát và vô số chúng Thanh văn”.
Ngoài ra Pháp Tạng bộ thuộc Phân biệt thuyết hệ trình bày, Đức Nan Thắng Như Lai thường thuyết pháp ở phương Đông Bắc của thế giới này. Bản dịch chữ Hán của A hàm kinh lại nhắc tới Đức Kỳ Quang Như Lai thuyết pháp ở phía Đông của thế giới. Chính Tôn giả Mục Kiền Liên đã từng dùng thần thông đến đạo tràng của Đức Phật đó. Nội dung này cũng thấy xuất hiện trong kinh điển Đại thừa.
Qua đây có thể thấy trong tư tưởng giáo lý của các hệ phái học giả Tiểu thừa đều có nhắc đến cung điện của cõi trời này hoặc cõi Phật ở các phương khác. So với cõi thế gian ô nhiễm, cấu uế, thì thế giới nơi đó thanh tịnh, lại thường được chư Phật, Bồ tát thuyết pháp giáo hóa. Dù chỉ được nhắc đến một cách tổng quan và phạm vi trình bày còn hạn hẹp, song cũng đã làm nổi bật nét tương đồng với cõi Tịnh độ của Đại thừa Phật giáo.
2.1.3 - Tịnh độ riêng của Đại thừa
Các cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa nhiều vô kể, trong đó các cõi Tịnh độ điển hình được nhắc đến nhiều nhất là: Tịnh độ của Phật A Súc ở phương Đông, Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà ở phương Tây. Về sau này Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà ở phương Tây và Tịnh độ của Phật Dược Sư ở phương Đông được các tín đồ Phật tử Trung Quốc quan tâm và xem trọng hơn.
Tuy nhiên các cõi Tịnh độ này đều ở các thế giới phương khác, chứ không thuộc thế giới Ta bà. Theo sự truyền bá của Mật tông, sau này thế giới sẽ xuất hiện cõi Tịnh độ Śambhala. Đây đều là các cõi Tịnh độ mà chỉ có Phật giáo Đại thừa xiển dương truyền bá, không xuất hiện trong kinh điển của Phật giáo Tiểu thừa.
2.2 - Phân biệt rõ cõi Tịnh độ riêng của hành giả Đại thừa. (Xét về phương diện sâu cạn nơi cảnh giới tu hành)
Như đã giới thiệu ở phần trên, có cõi Tịnh độ chung của Năm thừa, cõi Tịnh độ chung của Ba thừa, lại có cõi Tịnh độ riêng của hành giả Đại thừa. Từ phương diện sâu cạn nơi cảnh giới tu hành mà đánh giá, các cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa còn có thể chia làm bốn loại:
(1) Cõi phàm Thánh cùng hội tụ: Cõi Tịnh độ này là nơi hội tụ chung của tất cả các hành giả trong Năm thừa. Cho nên trong đây có cả Thánh nhân và phàm phu hội tụ.
(2) Cõi Đại thừa, Tiểu thừa cùng hội tụ: Cõi Tịnh độ này là nơi hội tụ chung của Ba thừa. Nơi này không có chúng phàm phu mà là cảnh giới của các vị Thanh văn, Bích chi Phật và chư Đại lực Bồ tát. Chư vị đều đã chứng đắc “Ý sinh thân”, tùy theo sở nguyện mà phương tiện hiện thân hóa độ chúng sinh. Tông Thiên thai gọi cảnh giới này là Phương Tiện Hữu Dư độ.
Pháp hoa kinh có đoạn nhắc tới việc hàng Thanh văn vào Niết bàn rồi sẽ đến một quốc độ khác, tương lai được thọ ký thành Phật. Quốc độ khác ở đây chính là chỉ cho cõi Tịnh độ Ý sinh thân này vậy. Theo Lăng già kinh đây là Tịnh độ của Hữu tâm địa Bồ tát (Hữu tướng hữu công dụng hạnh) cùng chứng đắc hưởng thụ niềm vui thiền định Ý sinh thân.
(3) Tịnh độ riêng của hàng Bồ tát thuộc cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa: còn gọi là Tịnh độ chung của chư Phật và Bồ tát, cõi Tịnh độ này không có hàng Thanh văn. Tông Thiên thai gọi thế giới này là cõi Thực Báo Trang Nghiêm, Mật nghiêm kinh lại gọi là Tịnh độ Mật Nghiêm. Cõi nước bí mật trang nghiêm không thể nghĩ bàn chính là Tịnh độ riêng của Bồ tát, cõi này không có hàng Nhị thừa.
(4) Cõi Tịnh độ riêng của chư Phật thuộc cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa: Nhân vương kinh có ghi: “Hàng tam Hiền thập Thánh cùng ở nơi đây, nhưng chỉ có chư Phật thấy đó là Tịnh độ”. Cõi này còn được gọi là Pháp Tính độ, tông Thiên thai gọi cảnh giới này là Thường Tịch Quang Tịnh độ.
Tên gọi và vị trí của các cõi Tịnh độ này ở mỗi tông phái có cách nhìn nhận khác nhau, nhưng nhìn chung đều phân chia thành bốn cấp độ như vậy. Riêng các cõi Tịnh độ trong kinh điển Đại thừa trình bày thì không có sự phân biệt rõ ràng thành bốn cấp độ trên. Như Tịnh độ Cực Lạc ở phương Tây, có người cho rằng là cõi Tịnh độ chung của cả Thánh và phàm; có người cho là Tịnh độ chung của Đại thừa và Tiểu thừa; lại có người cho rằng phàm phu ở nơi này là do chư Phật và Bồ tát thị hiện ra, hàng Thanh văn là thân đời trước, còn hiện tại nhân dân ở cõi này đều là các vị Bồ tát. Vậy rốt cuộc đây thuộc về loại Tịnh độ nào cũng không cần phải xác định rõ, vì kinh văn đôi khi cũng có chỗ không nhất quán với nhau.
Nếu dựa vào sự tu tập và chứng đắc sâu cạn thì Tịnh độ chính xác là có thể phân làm bốn cấp độ: 1. Tịnh độ của phàm thánh chung ở, bao gồm hết thảy Năm thừa; 2. Tịnh độ của Đại thừa và Tiểu thừa chung ở, bao gồm cả Ba thừa; 3. Tịnh độ của chư Phật Bồ tát chung ở; 4. Tịnh độ riêng của chư Phật, cũng chính là các cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa.
2.3 - Tiểu kết: Pháp Đại thừa không những giúp hành giả thanh tịnh thân tâm mà còn trang nghiêm cảnh giới, do vậy có thể đạt đến cứu cánh viên mãn mà chứng Phật quả.
Sự phân chia như vậy đã thể hiện rõ pháp môn Tịnh độ này là ước mong chung của hết thảy hành giả tu hành theo Phật giáo, thậm chí là toàn thể nhân loại. Riêng đối với Phật giáo Đại thừa thì pháp môn này đặc biệt phát triển hơn. Hành giả tu học theo Phật giáo Đại thừa không nên xem thường mong muốn về sự trong lành, thanh tịnh của thế giới. Nên nhớ rằng, người tu Tiểu thừa vì chỉ chú trọng vào sự thanh tịnh nơi thân và tâm nên không thể đạt được sự chứng ngộ tròn đầy. Trong khi đó, hành giả Đại thừa vừa có thể thanh tịnh nơi thân tâm, lại vừa có thể trang nghiêm cảnh giới, nên đạt tới cứu cánh viên mãn.