• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tịnh độ tại nhân gian
  3. Trang 25

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 44
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 44
  • Sau

3Đặc điểm chung của các cõi Tịnh độ

Tịnh độ là một thế giới hoàn mỹ, tùy theo sự khác biệt nơi căn tính chúng sinh và văn hóa xã hội mà hình thành rất nhiều hình thức Tịnh độ khác nhau. Tịnh độ thể hiện mong ước vốn rất tự nhiên và bình dị của toàn nhân loại đối với một thế giới hoàn mỹ. Tuy nhiên tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo lại khơi nguồn từ nét văn hóa của Phật giáo Ấn Độ mà hình thành và phát triển. Do đó cảnh giới của các cõi Tịnh độ đương nhiên sẽ gắn liền và phù hợp với những đặc trưng về tư tưởng, cũng như bối cảnh văn hóa tại đất nước này. Đây là vấn đề mà chúng ta cần phải đặc biệt chú ý.

Theo đặc điểm chung của các cõi Tịnh độ mà Phật giáo đề cập thì không chỉ đơn thuần có thế giới y báo, bởi vậy có thể chia thành hai phương diện: Sự thanh tịnh của thế giới tự nhiên và sự thanh tịnh của các loài chúng sinh.

3.1 - Sự thanh tịnh của thế giới tự nhiên

3.1.1 - Bốn điểm đặc trưng: Bằng phẳng, ngay ngắn chỉnh tề, sạch sẽ, nguy nga, lộng lẫy

Sự thanh tịnh của thế giới tự nhiên nơi cõi Tịnh độ có thể chia ra thành bốn đặc trưng sau:

a. Bằng phẳng: Trong tất cả các cõi Tịnh độ của Phật giáo, không hề nhắc đến cõi nào có núi đồi hay sông biển, ngay cả gai góc đá sỏi cũng không hề có. Vì Phật giáo Ấn Độ phát triển ở vùng lưu vực sông Hằng - một vùng đồng bằng rộng lớn, cho nên trong quan niệm và nhận thức của các bậc Hiền Thánh thời xưa, thì núi sông là nơi ngăn cách, trở ngại, lại hay phát sinh nhiều những thiên tai. Bởi vậy họ mới có ý niệm về các cõi Tịnh độ với đồng bằng rộng lớn. Nếu như ai thường sinh sống ở nơi biên giới có nhiều núi non hay hải đảo, lại yêu thích cảnh vật non nước hữu tình, thì có lẽ các cõi Tịnh độ sẽ được miêu tả giống như Bồng Lai tiên cảnh, hay núi tiên Cô Xạ vậy.

b. Ngay ngắn chỉnh tề: Đặc tính của văn hóa Ấn Độ là hướng đến có một sự phát triển cân đối, hài hòa. Nên cảnh vật ở các phương hướng, trên dưới mọi nơi đều như nhau và đều hiện ra nét vô cùng cân đối, chỉnh tề. Ví như cây cối ở trong cõi Tịnh độ, cành cây đều đối xứng nhau, đến từng chiếc lá cũng ngang đều nhau.

Các loài cây báu từng hàng từng hàng, khoảng cách và chiều cao đều vô cùng ngay ngắn, đều đặn, giống như một bức tranh với đầy đủ nét tinh tế, cân đối, hài hòa. Đây chính là điểm đặc trưng về vẻ đẹp của các cõi Tịnh độ trong kinh điển của Phật giáo. Còn đối với người Trung Quốc, quan niệm về cái đẹp tự nhiên của họ lại tương đối khác biệt. Từ những bức tranh vẽ phong cảnh núi sông, người họa sĩ thể hiện những đường nét thay đổi cao thấp không giống nhau, rất hiếm khi bắt gặp sự đều đặn, cân bằng, đối xứng trong đó.

c. Sạch sẽ: Cõi Tịnh độ vô cùng sạch sẽ, đến một hạt bụi cũng không có, ngay cả dưới đáy ao hồ cũng đều là cát bằng vàng chứ không phải bụi bẩn hay bùn đất.

d. Nguy nga, lộng lẫy: Ở cõi Tịnh độ cát vàng trải khắp trên mặt đất, các kiến trúc xây dựng đều do bảy báu tạo thành, vô cùng nguy nga, lộng lẫy. Thông thường mọi người hay cho rằng, văn hóa của Ấn Độ hay văn hóa của Phật giáo chỉ chú trọng về tinh thần mà quên đi yếu tố vật chất. Nhưng từ trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa chúng ta có thể nhận ra sự thật lại hoàn toàn không phải như vậy. Vì thế giới vật chất trong tự nhiên qua sự miêu tả về các cõi Tịnh độ thì phong phú và hết sức đa dạng.

Phật giáo Thanh văn chú trọng tinh thần ít muốn biết đủ, còn Phật giáo Đại thừa lại từ nơi cái tâm ít muốn biết đủ ấy phát triển tích cực tạo, nên một thế giới trang nghiêm, nguy nga lộng lẫy, hùng vĩ bao la, không hề có cảnh tượng nghèo khổ, thiếu thốn. Như khi nhắc đến cây cối, cung điện, lầu các đều nói rõ là từ các loại châu báu như: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não... kết hợp lại mà thành. Chúng ta nên hiểu rằng đây là sự miêu tả trung thực cảnh giới trong tâm thức của người học Phật.

3.1.2 - Những vẻ đẹp khác nhau có thể kể tới như vườn cây tươi tốt, kiến trúc cao sang

a. Tịnh độ là nơi có vẻ đẹp của một vườn cây tươi tốt, trù phú: Các loài cây báu xếp thành từng hàng ngay ngắn, hoa báu đua nhau nở rộ, trái cây sai trĩu cành, ao hồ sông rạch, v.v. Trong cõi Tịnh độ không có các loài thú, chỉ có loài chim như: chim Bạch Hạc, chim Khổng Tước, chim Anh Vũ, chim Xá Lợi, v.v. Tất cả đều rất đẹp đẽ lộng lẫy và thường ca hót những âm thanh mầu nhiệm. Phong cảnh cõi Tịnh độ giống như một công viên vô cùng rộng lớn, đẹp đẽ.

b. Cõi Tịnh độ có vẻ đẹp của những kiến trúc cao sang: Đường đi ở đây bằng phẳng, trơn láng, rộng rãi và ngay ngắn. Hai bên đường có trồng cây rất giống với những con đường quốc lộ thời hiện đại, những ai đã từng sống ở các thành phố lớn có lẽ sẽ cảm nhận được phần nào. Trong cõi Tịnh độ còn có các lâu đài vô cùng nguy nga, lộng lẫy, bốn phía đều có lan can; lại có các hồ tắm, v.v. (điều này đối với người dân sống ở vùng nhiệt đới thì rất quan trọng và cần thiết). Tô điểm cho các tòa lâu đài thì có các vật báu như: chuông khánh, cờ phướn, bảo cái, la võng v.v.

Từ các thứ vật chất dùng để trang trí, tô điểm, chúng ta có thể thấy cõi Tịnh độ đã đạt đến tận cùng những niềm vui của năm món dục lạc. Ở cõi Tịnh độ, vườn cây, hoa trái, khắp nơi đều tỏa hương thơm ngát. Nơi đây chỉ có ánh sáng, không có sự tối tăm, tất cả đều là sắc thái tươi đẹp. Chim hót, chuông ngân, gió thổi, nước chảy đều tạo nên những bản nhạc dịu êm, ngọt ngào, tao nhã như những điệp khúc vi diệu, trầm bổng, nhịp nhàng. Đường đi và nơi ở của cõi Tịnh độ giống như tơ lụa mềm mại và thoải mái. Các loại giường nệm, ghế sô pha thời nay chắc cũng có một vài điểm tương đồng.

Những thứ này thuộc về vấn đề của giới tự nhiên thanh tịnh. Vẻ đẹp của vật chất đơn thuần kết hợp với sự tiến bộ của khoa học ngày nay cũng phần nào có thể thực hiện được theo quan niệm hoàn mỹ của Tịnh độ.

3.2 - Sự thanh tịnh của các loài chúng sinh

Cõi Tịnh độ không chỉ có vẻ đẹp và sự thanh tịnh của thế giới tự nhiên, mà còn có sự thanh tịnh của các loài chúng sinh, cũng chính là một xã hội thanh tịnh, thuần lương và trong sáng. Vấn đề này có thể trình bày theo ba phương diện sau:

3.2.1 - Sự thanh tịnh của đời sống kinh tế

Nếu đời sống kinh tế không ổn định thì dù sống ở nơi đô thị phồn hoa cũng sẽ vô cùng khó khăn và khổ não. Do vậy ở cõi Tịnh độ, những vấn đề trong đời sống vật chất có liên quan tới ăn mặc, ngủ nghỉ, vui chơi đều được đặc biệt nhấn mạnh. Ở đó “mọi người cần gì được nấy, đúng như ý muốn”, các đồ gia dụng thiết yếu trong đời sống hàng ngày không cần cất giữ riêng, mà là tài sản chung của tất cả mọi người (thế giới của chúng ta cũng có hình thái xã hội lý tưởng theo chủ nghĩa xã hội, ai ai cũng có cơ hội thể hiện hết tài năng, ai ai cũng có thể có được cái mình cần). Trong cõi Tịnh độ, sự thụ hưởng vật chất đều tùy theo ý muốn mà sử dụng, không có các vấn đề trộm cắp, cưỡng đoạt, chiếm giữ hay tích chứa.

Về đời sống kinh tế vật chất, có hai phương diện: Một là sản xuất, hai là tiêu dùng. Trong hai phương diện này, tiêu dùng dường như khó khăn hơn sản xuất, vì vậy người xưa từng nói: “Không phải lo lắng về vấn đề nhiều hay ít, mà lo lắng về việc phân chia không đồng đều”. Trong xã hội, thường có một số người tích chứa và sử dụng một cách thái quá so với nhu cầu của bản thân, trong khi một số khác lại không thể đáp ứng được đầy đủ ngay cả những nhu cầu tối thiểu của mình. Đây chính là nguồn gốc phát sinh những biến động làm rối loạn xã hội. Dù cho khi vật chất của xã hội nhiều vô kể, nhưng nếu không có sự phân chia hợp lý thì cũng không thể tránh khỏi phát sinh những tranh chấp hơn thua, thậm chí có thể khiến tình trạng này ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Do vậy các cõi Tịnh độ của Phật giáo, đặc biệt coi trọng sự cân đối hài hòa và sự thỏa mãn hài lòng trong tiêu dùng.

Khoa học ngày càng tiến bộ và phát triển. Nếu có thể ứng dụng đổi mới một cách hợp lý, thì mọi người chỉ cần làm việc mỗi ngày hai đến ba tiếng, hoặc cũng có thể không cần phải làm nhiều thời gian như vậy, mà đời sống nhân dân vẫn đầy đủ, ấm no. Có thể xây dựng một thế giới đại đồng nơi thế gian, cũng có thể nói là đã thực hiện được một phần nào đó giống như đời sống ở các cõi Tịnh độ của Phật giáo.

3.2.2 - Sự thanh tịnh của đời sống nhân dân

a. Xóa bỏ hình thức gia đình vợ chồng, con cái như thế tục

Trong cõi Tịnh độ của Phật giáo, có hai loại: Một là, Tịnh độ nhân gian - Tịnh độ chung cho Năm thừa. Như Tịnh độ Di Lặc trong tương lai và Bắc Câu Lô châu, các cõi này đều có người nam và người nữ. Hai là, cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa, các cõi này không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Ví dụ như Bắc Câu Lô châu, cõi Tịnh độ này dù có cả hai giới nam và nữ, nhưng giữa nam và nữ cũng không hề có sự đắm nhiễm hay chấp trước, chiếm hữu lẫn nhau.

Theo Phật pháp, tất cả của cải vật chất để phục vụ cho đời sống thường nhật như quần áo, đồ ăn, chỗ ở v.v. đều không nên lấy làm của riêng. Gia đình lấy sự chiếm hữu, chấp trước giữa vợ và chồng làm căn bản, sau đó cùng kết hợp mà hình thành nền kinh tế tư hữu. Vì vậy sự xuất hiện của gia đình đồng nghĩa với việc phát sinh những khổ đau, tranh chấp không bao giờ dừng nghỉ trong xã hội loài người. Tuy nhiên, nguồn gốc căn bản của nó được phát sinh bởi những phiền não, tham lam trong tâm của mỗi con người.

Trong cuốn Phật học khái luận có trích dẫn các đoạn ngắn từ trong các kinh như Khởi thế Nhân bản kinh v.v. khi nói đến quá trình phát triển của xã hội có đoạn nói rằng: “Sự xuất hiện của gia đình đã khiến các cuộc đấu tranh chính trị giữa các chủng tộc và các quốc gia không ngừng mở rộng. Tất cả đều xuất phát từ sự tư hữu về kinh tế và sự chấp trước, chiếm hữu giữa người nam và người nữ”. Điều kiện tối thiểu của cõi Tịnh độ là xóa bỏ hình thức gia đình thế tục. Giả sử có hình thức gia đình thì trong đó cũng sẽ không bao giờ chất chứa bất cứ một tham muốn chiếm giữ riêng tư nào.

b. Tịnh độ là thế giới không bị giới hạn bởi sự phân biệt chủng tộc

Thế giới này của chúng ta vẫn còn tồn tại sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, người da trắng coi thường người da màu. Có nhiều đất nước đưa ra những quy định hạn chế khắc nghiệt đối với người da màu nhập cư. Do sự mặc cảm tự tôn về chủng tộc thúc đẩy, dẫn đến nhiều cuộc đấu tranh sắc tộc đã xảy ra. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu phát sinh ra các tội ác của nhân loại. Ở cõi Tịnh độ không có những sự phân biệt này, vì mọi người khi sinh về cõi Tịnh độ ai ai cũng đều có thân sắc vàng cả.

Từ chủng tộc (Varna) trong tiếng Ấn Độ có nghĩa gốc là màu sắc, tức là từ sự khác biệt của tướng mạo và màu da mà tạo ra sự phân chia các chủng tộc. Ở các cõi Tịnh độ của Phật giáo không có sự khác biệt về màu da, không có ranh giới chủng tộc. Chính chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi ích kỷ, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc làm cho thế giới phát sinh đầy rẫy tội ác, thế giới đó không phải là Tịnh độ.

c. Tịnh độ là nơi không có sự phân biệt người mạnh, kẻ yếu

Tịnh độ là nơi không có sự phân biệt người mạnh, kẻ yếu, do đó ở cõi Tịnh độ không có chiến tranh, áp bức và thù hận, v.v. Người có đạo đức và học vấn cao vẫn coi mọi người như bạn bè, sẵn sàng giúp đỡ họ một cách vô tư. Vì vậy, trong cõi Tịnh độ tuyệt đối không có tình trạng “ỷ mạnh hiếp yếu, cậy đông đánh ít”.

d. Tịnh độ không có oán thù

Trong kinh thường nói: “Đây là nơi các bậc Thượng thiện nhân hội tụ”, mọi người đối xử với nhau đều vui vẻ hài hòa và coi nhau như anh chị em trong gia đình.

Tóm lại, ở cõi Tịnh độ chú trọng sự chung sống hòa hợp của quần chúng nhân dân, vượt lên trên đời sống gia đình tư hữu và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, quốc gia ích kỷ, hẹp hòi. Ở cõi Tịnh độ chỉ có thân thiện mà không có oán thù, đây đúng là đã đạt tới cảnh giới bốn biển một nhà, thế giới đại đồng. Song nếu chúng ta ép buộc cả thế giới này trở thành một ngôi nhà chung, như thế chẳng phải là “ỷ mạnh hiếp yếu, cậy đông đánh ít” hay sao, vậy thì cũng không còn giống cõi Tịnh độ nữa.

3.2.3 - Sự thanh tịnh đời sống Chính trị

Về mặt chính trị ở các cõi Tịnh độ cũng được phân làm hai loại:

a. Cõi Tịnh độ có người lãnh đạo đứng đầu (ngôi vua): Như trong kinh có nói, khi Đức Phật Di Lặc hạ sinh sẽ có Đức Chuyển Luân Thánh Vương cai trị đất nước. Vị vua này không dựa vào sức mạnh quyền thế để cai trị thiên hạ, mà chỉ dùng tư tưởng và đạo đức để cảm hóa nhân dân. Trong một đời sống vô cùng lý tưởng như thế, chắc chắn mọi người có thể cùng chung sống an vui. Hình thức Tịnh độ này là nơi vẫn còn có tổ chức hành chính.

b. Cõi Tịnh độ không có người lãnh đạo đứng đầu (ngôi vua): Đây là cõi Tịnh độ riêng của Đại thừa. Đức Phật được coi là bậc Pháp vương, tuy nhiên không phải là Đức Phật đang ở cương vị thống trị nhân dân cõi Tịnh độ. Mà có nghĩa là trên mặt tư tưởng và hành vi, nhân dân ở đây được tiếp nhận sự hướng dẫn, chỉ dạy của Đức Phật để có thể đạt đến cảnh giới cứu cánh viên mãn hơn. Loại Tịnh độ không có hình thức tổ chức chính trị này, có một số điểm tương đồng với chế độ chủ nghĩa vô chính phủ trong hệ tư tưởng triết học hiện đại nhắc đến.

3.3 - Thanh tịnh thân tâm

3.3.1 - Xa lìa phiền não tham sân si, không có khổ đau sinh, già, bệnh, chết, tâm Bồ đề không thoái chuyển.

Chúng sinh vãng sinh về cõi Tịnh độ, được sự hướng dẫn của các bậc thiện tri thức, tất cả họ đều tiến bộ không ngừng. Mọi người cùng lấy tâm nguyện: “Trên cầu thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh” làm lý tưởng mà phấn đấu, nương theo con đường Đức Thế Tôn đã chỉ dạy mà tu học, xa lìa tất cả phiền não tham sân si, không phải chịu nỗi khổ đau của già, bệnh, chết. Hết thảy chúng sinh tâm Bồ đề không thoái chuyển, một lòng chuyên tinh tu học, vì lợi ích cho chúng sinh mà phát tâm hướng về Đại thừa.

3.3.2 - Từ trên nền tảng vững chắc của Vô ngã và Vô ngã sở mà xây dựng một cõi Tịnh độ tự do, bình đẳng.

Muốn thanh tịnh chúng sinh ở cõi Tịnh độ, thì sự bình đẳng và tự do là hai đặc tính tất yếu. Bình đẳng và tự do ở đây là coi trọng sự giáo hóa về tư tưởng. Sự thanh tịnh nơi thân tâm của chúng sinh đạt tới trạng thái Vô ngã (không có cái ta) và Vô ngã sở (không có cái của ta). Điều này chắc chắn không phải do sự khuếch trương cái tôi cá nhân, mà cần làm chủ thân tâm một cách nghiêm ngặt mới đạt được. Từ quan điểm của Phật giáo có thể thấy, các tư tưởng ở trong nhân loại thường xuất phát từ Ngã và Ngã sở (ta và cái của ta), bởi vậy đều rất khó để đạt đến cảnh giới tốt đẹp một cách trọn vẹn.

Tư tưởng Tịnh độ trong Phật giáo là từ mong ước chung của toàn nhân loại mà hình thành và phát triển. Nhưng phương pháp và lý tưởng để xây dựng được cõi Tịnh độ thì lại không giống với các tư tưởng thông thường trong xã hội. Tức là Phật pháp từ trên nền tảng vững chắc của Vô ngã và Vô ngã sở mà xây dựng một cõi Tịnh độ tự do, bình đẳng. Vì vậy các hành giả của pháp môn Tịnh độ cần phải hiểu biết một cách chính xác về cảnh giới của cõi Tịnh độ.