Khi Đức Phật còn tại thế, có một vị vua tên Tần Bà Sa La bị chính con trai của mình là Thái tử A Xà Thế giam lỏng. Vợ của vua là Hoàng hậu Vi Đề Hy muốn gặp được ông cũng không dễ dàng. Tên nghịch tử tàn bạo, bất hiếu đã cướp ngôi đoạt vị, khiến vua cha trở thành một vị vua trong ngục tối. Trong hoàn cảnh ấy, vua Tần Bà Sa La vừa đau khổ vừa tuyệt vọng, vô cùng chán ghét cõi Ta bà ngũ trược ác thế, khổ não chịu không thấu, lại đầy rẫy ngạ quỷ và súc sinh. Đức vua suy nghĩ: “Đức Phật ơi! Trong thời khắc khổ nạn này sao Ngài không đến cứu con, chỉ cho con lối trở về một nơi an ổn nhất?”
Lúc này, phu nhân Vi Đề Hy ba lần yêu cầu A Xà Thế cho bà vào ngục thăm đức vua, A Xà Thế đồng ý nhưng không cho phép bà mang theo đồ ăn khi vào thăm. Phu nhân Vi Đề Hy rất thương tâm, bèn tìm cách giải cứu cái khổ đói và khát tạm thời cho phu quân. Vì vậy, sau khi tắm rửa sạch sẽ, bà dùng “bột” thoa lên thân thể và đồ trang sức của mình rồi vào ngục thăm chồng. Trong thời khắc vô vọng đau khổ tột cùng ấy, hai vợ chồng liền cùng nhất tâm hướng về núi Linh Thứu nguyện cầu Đức Phật từ bi cứu độ. Quả nhiên, Đức Phật đã vận thần thông hiển hiện trước mặt hai người, vì họ mà khai thị rằng: “Về phương Tây của thế giới Ta bà này có một thế giới tên là Cực Lạc. Cõi nước đó cách nơi này hơn mười vạn ức cõi Phật, Giáo chủ là Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp. Quốc độ của Phật A Di Đà không còn khổ não, hưởng thụ các khoái lạc, không những vậy mà nơi ấy còn rất thanh tịnh, an ổn và vui tươi. Hai người chỉ cần nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thì Phật A Di Đà sẽ dùng nguyện lực của mình mà nhiếp thụ cho những người đang xưng niệm danh hiệu của Ngài, khiến họ vãng sinh về cõi Tịnh độ”.
Sau khi nghe Đức Phật khai thị như vậy, đức vua và hoàng hậu cùng nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Liền lúc ấy, một cảnh giới Tịnh độ trang nghiêm hiện ra trước mắt họ, đó là cõi Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Đây cũng chính là nguồn gốc của tư tưởng Tịnh độ.