M
ọi thứ diễn ra êm đẹp. Lorna có thể tìm được bến đỗ bình yên và tôi chấm dứt những háo hức mong chờ, với sự trợ giúp của Cha Bowden cùng những lời chúc phúc của hai địa hạt. Tôi không thể tin vào vận may của mình khi ngắm nhìn em. Em không những xinh đẹp mà còn có khiếu hài hước, rất tâm lý khiến cho người bên cạnh chẳng khi nào thấy chán.
Em bây giờ đã có thể được gọi là một phụ nữ dù còn rất trẻ và nhí nhảnh, hồn nhiên, như thể chưa từng biết đến gian nan, nguy hiểm. Hay có khi vì em sớm phải chịu đựng những bất trắc mà giờ đây nhan sắc em mặn mà hơn, suy nghĩ cũng chín chắn hơn. Sự kết hợp đó đối với tôi là hình ảnh lộng lẫy nhất.
Thế nhưng cuộc sống không bao giờ hoàn toàn tươi đẹp, mà nỗi đau, hay sự sợ hãi, thỉnh thoảng xen vào khiến ta không khỏi thấp thỏm, âu lo. Lorna đang bình yên trong vòng tay của tôi và sự bao bọc của cả gia đình tôi nhưng trong em vẫn tồn tại một nỗi sợ vĩnh cửu. Những lúc yếu mềm nhất, em thường nép vào lòng tôi, ôm lấy cổ tôi và mếu máo liệu tôi có thể sống tiếp nếu không còn em.
Tôi hiểu nỗi sợ của Lorna, canh chừng em không rời, bỏ mặc cánh đồng đậu, lứa lợn mới và con bò mắc bệnh vàng da. Tôi để Jem Slocombe ngủ trên gác xép suốt buổi chiều, còn Bill Dadds trút nguyên một xô rượu táo chỉ với một câu “Xin phép cậu” ngắn ngủn. Hai người này nghĩ tước vị hiệp sĩ, huy hiệu và (nhất là) Lorna khiến tôi không còn thiết tha đến việc nông trại. Theo dân quê chúng tôi - có lẽ cũng có lý - một khi đàn ông đã tập trung vào thứ gì rồi thì chắc chắn không quan tâm đến những thứ khác.
Thế nhưng tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ như thế. Tôi vẫn huýt sáo với lũ ngựa của mình, cầm cán cày như thể chưa có gì xảy ra. Vì điều này, gần như tất cả đàn ông quanh vùng đều mắng nhiếc tôi, nhưng cánh phụ nữ lại khen tôi, và phần lớn là họ đúng với những chuyện không liên quan đến họ.
Bất kể tôi khiêm nhường thế nào, vẫn có rất nhiều người bàn tán về tôi và đám cưới của tôi. Chính cuộc chiến khốc liệt với gia tộc Doone do tôi chỉ huy, sự biến mất của Quân sư, việc Carver phi ngựa như điên, bỏ lại những người vợ và bầy con bơ vơ trong cơn nguy biến khiến dân chúng rất phấn khích về đám cưới của tôi và Lorna. Nghe nói tất cả mọi người trong vòng bán kính ba mươi dặm đã rủ nhau đến nông trại với cái cớ là tận mắt nhìn thấy vóc dáng của tôi cùng dung nhan của Lorna; nhưng kỳ thực họ chỉ tò mò thôi và thích xía vào chuyện người khác.
Viên thư ký lo việc sổ sách của chúng tôi đã ra thông báo rằng đàn ông bước vào cửa nhà thờ phải đóng một si linh, phụ nữ phải đóng gấp đôi, tức là hai si linh. Tôi nghĩ điều này không đúng; với tư cách là một người trông coi nhà thờ, tôi cho rằng số tiền ấy có thể được trả cho tôi. Nhưng ông ta bảo điều đó sai luật, chính linh mục đã ra lệnh cho ông ta mang số tiền đó cho Cha, không được kề cà. Linh mục đã có lệnh như vậy thì tôi tuân theo; khi tôi không quan tâm nhiều về một điều gì đó thì tôi để họ làm theo cách của họ, dù thi thoảng tôi cũng nghĩ ngợi rằng đúng ra mình cũng nên hưởng chút tiền do giáo dân đóng chứ.
Mẹ tôi thu xếp mọi chuyện đâu vào đấy từ trong ra ngoài. Annie và Lizzie, mấy cô con gái nhà bác Snowe và cả Ruth Huckaback, ai cũng diện váy dài quết đất làm tôi không biết đặt chân chỗ nào. Rồi Lorna từ chỗ ngồi bước ra, nắm lấy tay tôi. Em lộng lẫy đến mức tôi thậm chí không dám liếc nhìn. Em chắc chắn đang rất hồi hộp nhưng không ai nhận ra, trong khi tôi nói (ít nhất là với bản thân): “Sắp rồi, sẽ xong nhanh thôi.”
Lorna mặc chiếc váy trắng, phơn phớt màu tím oải hương (vì em vẫn để tang ngài cố Bá tước Brandir ), kiểu cách đơn giản nhưng vẫn đẹp hoàn hảo. Như đã nói ở trên, tôi không dám nhìn em, ngoại trừ khi hứa và nghe em hứa: “Con đồng ý”, rồi đắm đuối nhìn nhau.
Những ai chưa từng yêu chắc không thể hiểu nổi tôi vui và hãnh diện thế nào sau khi trao nhẫn và làm các thủ tục xong xuôi. Rồi linh mục ban phước cho chúng tôi. Lorna quay sang nhìn tôi bằng ánh mắt phảng phất nét tinh nghịch đã phải kìm nén lại bởi không khí trang nghiêm. Đôi mắt em đối với tôi là đôi mắt ngọt ngào nhất, dễ thương nhất, đáng yêu nhất.
Bỗng một tiếng súng vang lên. Đôi mắt ấy lập tức lấp đầy sự chết chóc.
Lorna ngã quỵ xuống khi tôi sắp sửa hôn em, máu tuôn xối xả lên bậc thềm bệ thờ, em nằm dưới chân tôi, cố trăng trối điều gì đó. Tôi đỡ em, vỗ về em, cưng nựng em, nhưng vô ích; dấu hiệu duy nhất của sự sống còn lại là máu vẫn tiếp tục phun ra. Em thở hắt vào ngực tôi, thay cho lời vĩnh biệt trần thế, người trở nên lạnh toát, lạnh đến mức tôi hỏi bây giờ là tháng mấy.
Ấy là thứ Ba sau lễ Hạ trần, hoa tử đinh hương nở khắp nơi. Tại sao tôi lại nghĩ bây giờ tháng mấy khi đang ôm người yêu thương nhất nằm chết trong tay, chỉ có Chúa và những thiên thần của Người mới biết khi ban cho chúng tôi một “món quà” lạ lùng đến vậy. Tôi nhìn những bông hoa tử đinh hương trắng muốt và thấy chúng thật đẹp. Rồi tôi nhẹ nhàng đặt vợ mình vào vòng tay mẹ. Sau khi xin mọi người đừng làm ồn, tôi đi tìm kẻ thù.
Tôi biết kẻ nào làm điều đó. Trên đời này, ngoài kẻ đó ra, không ai khác có thể làm vậy. Đầu óc tôi trống rỗng khi nhảy lên con ngựa tốt nhất của chúng tôi, có dây cương nhưng không có yên cương, phi thẳng về hướng được chỉ. Tôi không biết ai chỉ. Tôi chỉ biết cứ đi theo hướng đó.
Không một tấc sắt trong tay, với phục trang là chiếc áo gi lê chú rể do Annie may nhuộm đỏ máu cô dâu, tôi phi hết tốc lực về phía trước để tìm hiểu một điều: liệu trên đời này có công bằng hay không?
Sau khi được vài người chỉ đường (họ hét lớn nhưng với tôi dường như đó chỉ là tiếng thì thầm), tôi đến Black Barrow Down và thấy cách khoảng hai trăm mét đằng trước có người cưỡi một con ngựa lớn màu đen. Tôi biết đó chính là Carver Doone.
“Tao hoặc mày sẽ chết.” Tôi tự nhủ. “Có thể là theo ý Chúa. Nhưng mày và tao nhất định không đội trời chung thêm một phút giây nào nữa.”
Tôi biết sức mạnh của gã hộ pháp này, biết gã có súng các bin - nếu gã có thời gian nạp đạn lại sau khi bắn Lorna - hoặc súng ngắn, và cả kiếm. Nhưng bất kể thế nào, tôi nhất quyết sẽ một phen sống mái với gã.
Thi thoảng không thấy đất dưới chân, có lúc chú ý đến từng chiếc lá và những nhánh cỏ, tôi đi theo con truông dài, mặc kệ gã có phát hiện ra tôi đang đuổi theo hay không. Carver ngoái đầu ra sau một lần, nhưng lúc đó tôi kịp đến gần một tảng đá và đầm lầy đầy lau sậy đằng sau.
Dù Carver cách tôi một khoảng khá xa và vẫn đang phi nhanh nhất có thể, tôi nhận thấy gã đang ôm thứ gì đó đằng trước, rất cẩn trọng, khiến gã khó xoay người nhìn ra sau. Tâm trí lúc này đang quay cuồng mụ mị, tôi thoạt liên tưởng đó là Lorna, nhưng rồi thực tại ập tới - bi kịch thảm khốc trong lễ đường hiện ra mồn một. Phi như điên qua những vách đá cheo leo và đầm lầy, tôi nhìn lại sự việc đã xảy ra (hệt như trên một bức tranh sơn dầu) một cách tuần tự - hành động bạo tàn, nỗi đau chết lặng và sự tuyệt vọng cùng cực.
Carver đi ngược lên cái mương dẫn từ con truông đến Cloven Rocks, theo cung đường John Fry đã có lần đi theo ông trẻ Ben. Nhưng khi Carver đi vào đó, gã quay lại và thấy tôi đang ở sau gã chưa đầy một trăm mét, còn tôi cũng phát hiện gã đang mang theo con trai mình, thằng bé Ensie. Ensie thấy tôi ngay và vươn hai tay ra hét lên gọi tôi, vì mặt của cha nó khiến nó sợ hãi.
Carver Doone gầm lên, thúc mạnh bàn đạp ngựa vào con ngựa lúc này đã yếu sức, đặt tay lên khẩu súng ngắn. Thế có nghĩa là gã chưa kịp nạp đạn vào khẩu các bin sau khi bắn Lorna. Tôi mừng rơn trong bụng. Tôi quan tâm gì tới súng ngắn chứ? Tôi không có đinh thúc ngựa, ngựa của tôi cũng chẳng phải là loại cần đến cái đinh thúc ngựa ấy; lúc này tôi phải ghìm nó lại hơn là thúc nó vì nó vẫn còn rất sung sức. Tôi biết nếu con ngựa đen lên đến đỉnh dốc, nơi con đường mòn chia làm hai hướng, chắc chắn chúng tôi sẽ bắt kịp.
Chủ nhân của nó biết điều này. Vì con mương lổn nhổn đá không đủ rộng để gã quay lại nổ súng, gã bèn giật dây cương thật mạnh nơi ngã ba và lao bừa vào hẻm núi đen ngòm dẫn đến Wizard’s Slough. “Có mà chạy đằng trời!” Tôi lạnh lùng thầm nghĩ.
Tôi thận trọng, điềm tĩnh, thậm chí đủng đỉnh đi theo kẻ thù vì đã cầm chắc trong tay lợi thế - một khi đã vào trong đó, gã khó lòng thoát được. Carver tưởng tôi không dám tiến lại gần vì gã không biết mình đang ở đâu. Nghe tiếng cười gằn khinh bỉ của gã vẳng lại, tôi nghĩ: “Cứ cười đi!”
Một cây sồi xương xẩu bị bão quật cong oằn xuống từ vách đá cheo leo bên trên tôi. Nó sắp chết khô, nhưng vẫn kiên cường như tôi lúc này. Rướn người đứng lên dù không có bàn đạp, tôi túm được một cành cây, bẻ nó đứt lìa khỏi thân cây (như thể nó chỉ là một thân lúa mì).
Carver Doone đột ngột rẽ vào chỗ ngoặt trên đầm lầy đen ngòm không đáy, giật mình sợ hãi ghìm cương ngựa quay lại. Tôi tưởng gã xông vào tôi lúc đó luôn. Nhưng thay vì thế, gã tiếp tục cưỡi ngựa, hy vọng tìm được đường vòng.
Thực ra, có một con đường giữa vách đá và đầm lầy, nếu người nào biết rõ vùng này, hoặc có đủ thời gian thì có thể tìm ra nó. Nhưng Carver chẳng biết điều đó, mà thời gian thì cấp bách lắm rồi. Vì thế, gã quyết định nhanh, quay ngoắt lại bắn rồi phi ngựa thẳng vào tôi.
Viên đạn trúng vào tôi ở đâu đó, nhưng tôi không để ý. Chỉ sợ gã thoát, tôi quay ngang ngựa chặn đường, cầm cành cây sồi quật một nhát trí mạng lên trán con ngựa của Carver ngay lúc gã vung kiếm định bổ xuống người tôi. Thế là cả người và ngựa ngã lăn quay ra đất.
Carver Doone gần như bất tỉnh, trong một lúc không thể gượng dậy nổi. Tôi nhanh chóng nhảy xuống đất, vuốt tóc ngược ra sau, xắn tay áo lên cao như thể chuẩn bị bước vào một hiệp đấu vật. Rồi một cậu nhóc chạy đến bên tôi, ôm ghì lấy chân tôi, ngước nhìn tôi. Đôi mắt thất thần của nó khiến tôi gần như kinh sợ chính mình.
“Ensie à!” Tôi dịu giọng, đau lòng khi để nó phải chứng kiến người cha độc ác của mình bị giết. “Chạy tới chỗ rẽ kia tìm một bó hoa chuông cho tiểu thư đi.” Đứa bé vâng lời chạy đi rồi ngoái nhìn lại, cười vang, trong khi tôi chuẩn bị vào trận. Tôi có thể kết liễu kẻ thù của mình chỉ bằng một cú đấm thôi, trong khi gã nằm bất tỉnh, nhưng chơi thế thì không đẹp.
Thế rồi, Carver nhăn nhó mặt mày, lồm cồm gượng đứng dậy, nhìn quanh tìm vũ khí; nhưng tôi đã vứt chúng đi rồi. Gã tiến lại gần tôi, nhìn chòng chọc vì vốn quen thói dọa nạt cánh thanh niên.
“Tao sẽ không làm gì mày cả.” Gã nói, vẫn cái thói khinh khỉnh chẳng coi ai ra gì. “Tao trừng phạt mày thế đủ rồi, phần nhiều vì sự xấc láo của mày. Phần còn lại tao tha, vì mày tử tế và yêu thương con trai tao. Đi đi, hãy hài lòng với điều đó.”
Để đáp lại, tôi nện một cú vào má gã, không đủ mạnh để làm gã bị thương nhưng đủ để làm gã sôi máu. Tôi không hơi đâu dông dài lý lẽ với thứ người như gã cho bẩn miệng.
Có một trảng cỏ bằng phẳng giữa chúng tôi và đầm lầy. Với cung cách lịch sự học được từ London và những đám rước đã được chứng kiến, tôi đưa gã tới chỗ đó. Gã đã lấy lại hơi thở đều và bình tĩnh, các cơ bắp căng lên sẵn sàng, tôi buông Carver ra để gã tự quyết định khi nào bắt đầu.
Tôi nghĩ gã cảm thấy mình đã tới số. Tôi nghĩ gã biết điều đó nhờ vào cách tôi đứng với vồng ngực nhô ra, các cơ bắp căng lên, đôi mắt xanh đanh thép. Mặt gã tái xám như tro, hai bắp chân khổng lồ hơi khuỵu xuống, như thể từ trước đến giờ gã không được tập luyện gì.
Chứng kiến một tên côn đồ làm mưa làm gió không biết trời cao đất dày là gì giờ lại tỏ ra yếu thế như vậy, tôi cho gã cơ hội đầu tiên. Tôi chìa bàn tay trái ra như vẫn làm với đối thủ yếu hơn, để gã nắm lấy. Nhưng tôi đã quá hào hiệp vì quên mất mình đang bị thương. Carver lập tức túm lấy hông tôi, siết chặt.
Cảm thấy xương sườn như nát vụn, tôi chộp lấy cánh tay gã, bứt phăng một búi cơ (như xơ lìa khỏi một quả cam) rồi bóp cổ gã. Đây là điều bị cấm đoán trong môn đấu vật, nhưng gã đã tóm được tôi và giờ không phải là lúc chần chừ. Trong cơn tuyệt vọng, gã giật mạnh, gắng sức thoát khỏi gọng kìm của tôi, vừa nghiến răng vừa lao vào tôi, thụi nắm tay máu me vào mặt tôi. Ngày hôm đó có Chúa nâng đỡ, với những cú đấm tựa sắt, tôi đã khiến gã không biết đường nào mà đỡ trong hai phút, đôi mắt gã đờ hẳn đi.
“Tôi sẽ không đánh anh nữa.” Tôi vừa thở hổn hển vừa nói. “Carver Doone, anh đã thua rồi. Hãy thừa nhận và tạ ơn Chúa vì điều đó. Hãy đi đường của anh và sám hối.”
Đã quá muộn. Cho dù Carver đầu hàng trong cơn hoảng loạn, cho dù gã thú nhận điều đó - lần đầu tiên trong đời gã đã tìm ra người hơn mình - thì cũng đã quá muộn.
Đầm lầy đã nuốt gã đến chân, đất hút lấy gã hệt đôi môi thèm khát của Thần Chết. Trong lúc đánh nhau điên cuồng, chúng tôi không hề để ý đất ướt hay khô, cũng không nghĩ về mặt đất bên dưới mình. Đến tôi đây cũng chưa chắc đã nhảy lên được bằng đôi chân đã bị vắt kiệt lực để thoát ra khỏi cái hố sền sệt tham lam đó. Gã lùi lại, chới với vung hai cánh tay lên trời, thứ chất lỏng đặc quánh đen ngòm liếm tới khuỷu tay gã. Ánh nhìn trừng trừng của gã lúc đó thật đáng sợ. Tôi chỉ biết vừa thở hổn hển vừa trân trối nhìn gã vì sức của tôi giờ không hơn gì một đứa trẻ sơ sinh. Và tôi cứ thế đứng nhìn từng tấc cơ thể gã biến mất trong vũng lầy đen kịt.