Nasrin Bukhari nhìn chuyến xe buýt số 61 từ sân bay vào trung tâm Frankfurt tiến tới.
Giờ thì đã rõ người đàn ông kia đang theo dõi cô. Nhưng có vẻ cô chẳng thể làm được gì. Cô gần như chắc chắn mình không thể cắt đuôi hắn. Cô chỉ hy vọng rằng một khi tới được điểm đến, mọi người ở đó hẳn sẽ biết phải làm gì.
Lúc này cô gần đến nơi. Bất chấp tất cả, cô đã tiến xa tới mức này. Ôi cô mới mong được gọi cho Amir làm sao. Mong được nghe thấy giọng anh. Cho anh biết rằng cô đã an toàn, và nghe anh nói rằng anh cũng thế.
Cô ngồi xuống ghế và cho phép mình quay lại nhìn. Hắn ở đó, cách cô vài hàng ghế phía sau.
Quá mải chú ý đến người đàn ông đã trở nên quen thuộc kia, Nasrin không nhận ra còn một người khác.
***
Anahita đứng chờ bên dãy thang máy. Chỉ một chiếc trong số này lên thẳng dãy phòng Mahogany Row. Không mấy ngạc nhiên khi cánh cửa của nó cũng được ốp bằng gỗ gụ và chỉ có thể được mở bằng chìa khóa đặc biệt.
Không còn lối lên nào khác, Anahita chắc chắn không có chìa khóa. Hoặc giấy phép.
Nhưng người phụ nữ đang chờ thang máy gần như chắc chắn có. Bà ta đang cúi đầu nhìn điện thoại, gõ bàn phím rất nhanh và trông căng thẳng. Trông ai cũng căng thẳng, từ các nhân viên an ninh cho đến các quan chức cấp cao.
Anahita xoay tấm thẻ ID để tên cô không dễ bị nhìn thấy, rồi hối hả bước đi với bước chân quyết tâm. Nhìn cánh cửa đóng kín, cô dừng chân, thốt ra tiếng thở dài sốt ruột, rồi lẩm bẩm điều gì đó kèm theo hơi thở.
Tiếp theo cô rút điện thoại ra và chú mục nhìn nó, cố gắng tỏ ra tập trung. Đầu gục xuống. Rất chăm chú.
“Xin lỗi…” người đàn bà kia bắt đầu, rõ ràng đang tự hỏi kẻ xa lạ này là ai. Và tại sao cô ta lại muốn đi lên tầng bảy.
Anahita ngước mắt lên, giơ bàn tay lên như muốn nói, Chờ tôi một giây thôi.
Rồi cô quay lại với tin nhắn rõ ràng cực kỳ quan trọng.
Để trông có vẻ hợp lý, cô gõ, Anh đang ở đâu? Có nghe tin tức không?
Thang máy mở ra, và người phụ nữ lúc này đã lại chú ý vào điện thoại, bước vào, Anahita theo sau.
Ai ở đây cũng hóa điên hết rồi, cô tiếp tục nhắn tin khi cửa thang máy đóng lại. Nghĩ ra được gì không?
Khi đã vào trong, họ sẽ được đưa thẳng lên tầng bảy.
***
Điện thoại của Gil Bahar rung lên báo có tin nhắn đến.
Ngọ nguậy trên ghế ngồi, anh đọc tin nhắn; rồi anh bực mình tắt máy mà không trả lời. Anh không có thời gian cho cái thứ nhảm nhí này.
Vài phút sau, khi xe buýt rời nhà ga và đã có thể yên tâm rời mắt khỏi mục tiêu của mình, anh lại mở điện thoại và nhanh chóng gửi câu trả lời.
Đang đi xe buýt tại Frankfurt. Nói chuyện thêm sau.
***
Betsy gửi câu trả lời đi, mà không nhận xét gì, đúng lúc Ellen đang chuẩn bị vào phòng để tham gia cuộc họp nội các.
Bà đọc tin nhắn, sau đó chuyển lại điện thoại cho FSO đang đứng ngoài cửa, nơi nó nằm bên cạnh những điện thoại khác trong các ngăn nhỏ.
Khi Ngoại trưởng Adams bước vào phòng, vài đồng nghiệp nội các nhìn bà rồi nói, “Mụ đàn bà bẩn thỉu.”
Bà mỉm cười, đón nhận câu đùa. Bà biết vài người đang cười với mình. Vài kẻ khác thì cười nhạo bà.
Câu nói này lan nhanh như virus, và “Mụ Đàn Bà Bẩn Thỉu” nhanh chóng được tiếp nhận và lan truyền trong các nhóm phụ nữ như một tiếng kêu chế giễu hành vi nam tính độc hại.
Nhìn quanh bàn, Ellen hầu như không nghĩ bất kỳ ai trong số các đồng nghiệp của mình là đặc biệt độc hại.
Bà biết họ là một tập thể bao gồm những khối óc minh mẫn nhất mà đất nước này từng sản sinh ra. Về tài chính, về giáo dục, về chăm sóc y tế. Về an ninh quốc gia.
Không ai trong số họ bị vấy bẩn bởi sự ngớ ngẩn của thời kỳ bốn năm trước đó. Nhưng hậu quả là họ không được cập nhật những kinh nghiệm gần nhất ở cấp quản lý tối cao. Họ thông minh, thậm chí vài người có trí tuệ siêu phàm, tận tụy, có thiện ý và chăm chỉ, nhưng chưa có kiến thức ở mức độ đủ sâu sắc cũng như chưa thể chia sẻ bộ nhớ tổ chức. Các mối liên hệ và những mối liên kết tối quan trọng chưa được thiết lập. Sự tin tưởng giữa chính quyền này với thế giới bên ngoài những bức tường này còn chưa được xây dựng.
Nhưng nó vẫn phải được thiết lập bên trong những bức tường này chứ, vì Chúa.
Chính quyền cũ đã thanh trừng bất kỳ ai dám lên tiếng chỉ trích chính sách. Nó trừng phạt những tiếng nói bất mãn, làm câm lặng tất cả những chỉ trích, từ các Thượng Nghị sĩ tới các thành viên Quốc hội, từ các Bộ trưởng trong nội các đến các Chánh Văn phòng và cả lính gác.
Nó đòi hỏi sự trung thành tuyệt đối với Tổng thống Dunn và các quyết sách của ông ta, không cần biết chúng được dẫn dắt bởi một cái tôi dốt nát, và nói toạc ra là nguy hiểm, đến như thế nào.
Yếu tố quyết định trong tuyển dụng vào chính quyền ngày càng đi trật đường ray này là trình độ chuyên môn phải nhường chỗ cho thái độ trung thành mù quáng.
Khi bắt đầu làm Ngoại trường Mỹ, Adams đã nhanh chóng nhận ra chẳng hề tồn tại thứ gọi là Nhóm lợi ích. Chẳng có cái “lợi ích nhóm” gì ở đây cả. Chẳng có thứ gì bị giấu giếm. Các nhân viên biên chế và những người được bổ nhiệm về mặt chính trị lang thang qua các hành lang, tham dự những cuộc họp, dùng chung nhà vệ sinh và cả chỗ ngồi trong quán cà phê.
Những ai có cái nhìn ngàn dặm của những chiến binh bị chính quyền Dunn bỏ lại đằng sau cuối cùng cũng tách bản thân khỏi nỗi kinh hoàng xung quanh mình. Tách khỏi những kinh hoàng mà chính bản thân họ đã tự lâm vào.
Và giờ, mới một tháng, lại xảy ra cuộc khủng hoảng này.
“Ellen,” Tổng thống Williams nói, quay sang Bà Ngoại trưởng đang ngồi bên trái ông ta, “bà có thể cho chúng tôi biết gì không?”
Nhìn nét mặt tự mãn của ông ta khi quẳng trái lựu đạn này cho mình, Ellen biết rằng không phải tất cả những mưu mô xảo quyệt đều đến từ phía đối lập.
Không phải ai cũng muốn hàn gắn những vết thương cũ.
***
Anahita để người đàn bà kia ra khỏi thang máy trước, cô chìa tay ra và nói với cả sự tôn trọng lẫn tự tin, “Làm ơn.”
Làm ơn. Làm ơn.
Cô ngừng lại trước thang máy, giả tảng như đang đọc một tin nhắn tối quan trọng khác, nhưng thực chất là cho người đàn bà kia có cơ hội biến mất vào trong phòng.
Rồi cô nhìn xuống hành lang dài. Tích tắc, tích tắc, tích tắc.
Dãy văn phòng Mahogany Row nổi tiếng. Trông như thể cô vừa bước vào câu lạc bộ dành cho nam giới nào đó tại New York hoặc London. Hành lang phía trước mặt cô rộng và tối om – ốp gỗ, chân dung của những Ngoại trưởng đời trước treo hai bên tường. Anahita gần như có thể ngửi thấy mùi xì gà.
Thứ cô thực sự ngửi thấy là cái mùi ngọt ngào giả tạo thoang thoảng của những bông hoa loa kèn phương Đông được xếp ê hề phía mặt bàn sáng bóng giữa lối đi trên hành lang.
Mahogany Row thật tráng lệ. Mà cái tên của nó cũng có nghĩa là tráng lệ. Nhằm gây ấn tượng với các du khách, cả trong nước lẫn nước ngoài. Đó là biểu tượng của quyền lực và sự vĩnh cửu
Hai đặc vụ An ninh Ngoại giao đứng hai bên cánh cửa kép cao trên đường xuống văn phòng Mahogany Row. Văn phòng của Ngoại trưởng Mỹ, Anahita đoán.
Cô không muốn tới đó. Nơi cô muốn tới là phòng họp. Nhưng đâu mới là cánh cửa dẫn tới căn phòng đó? Cô không thể mở tất cả chúng ra được.
Các đặc vụ bắt đầu nhìn về phía cô.
Anahita đưa ra quyết định. Đây không phải là lúc làm con gái ngoan của mẹ cô. Hoặc của cha cô. Đây là lúc cô phải trở thành một con người khác.
Cô quyết định đóng vai Linda Matar, người hùng của riêng cô.
Tắt điện thoại rồi bỏ lại cho nhân viên an ninh, cô quả quyết bước xuống hành lang, tiến thẳng về phía các đặc vụ.
“Tôi là FSO từ bộ phận phụ trách Pakistan. Tôi được dặn phải chuyển một tin nhắn trực tiếp cho giám sát viên của tôi. Tôi có thể tìm phòng hội nghị ở đâu?”
“Thẻ của bà, thưa bà?”
Bà ư?
Cô xoay tấm thẻ lại, chìa cho anh ta xem.
“Bà không nên có mặt trên tầng này.”
“Vâng, tôi biết. Nhung tôi được dặn phải chuyển một tin nhắn. Nghe này, lục soát tôi đi, đi theo tôi, làm gì cũng được, nhưng tôi cần phải chuyển tin nhắn. Ngay bây giờ.”
Tích tắc, tích tắc, tích tắc.
Hai sĩ quan nhìn nhau. Nhận được cái gật đầu từ thượng cấp của mình, đặc vụ nữ lục soát Anahita thật nhanh, rồi cùng cô đi xuống hành lang tới một cánh cửa không có số cũng như không có thẻ.
Anahita gõ cửa. Một lần. Hai lần. To hơn. Mạnh hơn.
Linda Matar. Thở đi. Linda Matar. Thở đi.
Cánh cửa bật mở. “Vâng,” một thanh niên gầy còm, có gương mặt như mật thám gặng hỏi. “Có chuyện gì?”
“Tôi cần nói chuyện với Daniel Holden. Tên tôi là Anahita Dahir. Tôi làm việc ở cơ quan của anh ấy. Tôi có một tin nhắn cho anh ấy.”
“Chúng tôi đang họp. Anh ta không thể rời…”
Linda Matar.
Anahita xô anh ta sang bên.
“Này,” anh ta hét lên.
Tất cả các gương mặt xung quanh bàn quay lại. Anahita dừng chân giơ hai tay như đang đầu hàng để cho thấy cô không có ý làm hại ai. Cô nhìn khắp các khuôn mặt tìm…
“Cô đang làm cái quái gì ở đây vậy?” Daniel Holden đứng dậy, nhìn cô trừng trừng.
“Tin nhắn.”
Các đặc vụ tiến lại gần phía cô, đúng lúc cấp trên của cô nói.
“Tôi biết cô ấy. Không sao đâu.” Nói rồi anh ta tập trung vào Anahita. “Tôi biết cô tin rằng tin nhắn này quan trọng. Mọi việc diễn ra ngày hôm nay đều quan trọng, đặc biệt bao gồm chuyện chúng tôi đang thảo luận. Cô cần phải đi ngay. Tôi sẽ nói chuyện với cô sau.”
Giọng anh ta bình tĩnh nhưng cương quyết.
Linda Matar sẽ không đứng đây để bị bắt nạt.
Nhưng Anahita Dahir thực sự không phải là bà ta. Cô gật đầu, mặt đỏ rần lên, thối lui.
“Tôi xin lỗi, thưa sếp.”
Nhưng rồi, gạt phắt khỏi tâm trí hình ảnh của mẹ, hay cha, hay cả nhu cầu làm hài lòng người khác, Anahita quay người lại, nắm chặt lấy tay anh ta và dúi vào đó mảnh giấy nhàu nát kia.
“Hãy đọc đi. Vì Chúa, hãy đọc nó đi. Sẽ có thêm một vụ tấn công nữa.”
Anh ta nhìn theo Anahita lao ra ngoài cửa, những muốn gọi cô quay lại. Rồi liếc nhìn xuống tờ giấy, anh ta chẳng hề thấy nói gì đến một cuộc tấn công khác, chỉ là những con số và biểu tượng. Cô bé FSO này chỉ là một nhân viên mới vào quá hoảng sợ, đang cố gắng khiến mình trở nên quan trọng hơn thực tế bản thân. Giờ anh ta không có thời gian cho việc đó.
Nhét mẩu giấy vào trong túi áo khoác định sẽ xem nó sau, anh ta quay lại chỗ ngồi của mình, xin lỗi vì sự gián đoạn.
Tích tắc, tích tắc, tích tắc.
Bên ngoài, nhân viên an ninh hộ tống Anahita xuống sảnh dẫn đến thang máy và nhìn cô rời đi.
Anahita quay về phòng làm việc của mình dưới đó vài tầng, biết rằng mình đã thất bại.
Qua vẻ mặt giám sát viên, cô biết anh ta sẽ chẳng đọc tin nhắn. Mà dù sao cũng chẳng kịp nữa.
Cô đã cố rồi. Cô đã làm hết sức rồi
Cô nhìn các màn hình, các khung cảnh từ Paris tới London. Nhin những người đàn ông và phụ nữ bị thương, ngập trong tro bụi và máu. Nhìn các khách bộ hành đang cố gắng bịt lại những vết thương không thể cầm máu được nữa. Nhìn họ đang quỳ xuống và nắm chặt lấy đôi bàn tay của người hấp hối. Đang ngước mắt lên. Tìm kiếm sự giúp đỡ.
Chúng là những cảnh tượng của sự hủy diệt khủng khiếp, của sự tàn sát. Vòng lặp bất tận của cảnh phim CCTV quay những người đàn ông và phụ nữ, như vị thần Prometheus, bị sát hại hết lần này tới lần khác.
Họ chỉ còn hơn hai tiếng nữa trước vụ nổ kế tiếp, nếu tin nhắn ấy, lời cảnh báo ấy, được tin tưởng.
Anahita biết còn một cơ hội nữa cô có thể thử. Một chuyện cô rất căm ghét bản thân nếu phải làm, nhưng giờ cô phải làm.
Đăng nhập vào Facebook, cô tìm thấy một bạn học cũ. Và từ cậu ta, cô có một cái tên khác, và từ cô bạn gái này, lại một cái tên khác nữa.
Cho đến khi sau hai mươi phút quý giá, cô đã có thứ mình cần. Thứ mà cô căm ghét.
***
Ngoại trưởng Adams sớm rời khỏi cuộc họp nội các, đi trên con đường mà bà có cảm tưởng như đã đi đến một trăm lần, giữa Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, kể từ khi bị dựng khỏi giường lúc 2h35 phút sáng hôm đó.
Tới Bộ Ngoại giao, bà bước thẳng vào phòng họp riêng của Ngoại trưởng, nơi bà sẽ tham dự cùng với Charles Boynton, Chánh Văn phòng của bà cùng các sĩ quan phụ tá.
Những cuộc gọi được nối máy tới những mối liên hệ, tới các bên tương ứng và các nhà phân tích an ninh.
Đối mặt với sự thiếu thông tin, nội các đã nhận định rằng sẽ không có cuộc tấn công nào khác nữa. Và nếu có, khả năng là sẽ không xảy ra trên đất Mỹ.
Thế nên dù rất khủng khiếp nhưng tấn thảm kịch này lại không phải là vấn đề ảnh hưởng tới an ninh quốc gia. Họ sẽ giúp đỡ các đồng minh của mình theo bất kỳ cách nào có thể, nhưng điều họ cần là khiến người dân Mỹ tin tưởng rằng mình vẫn an toàn.
Dưới sự thúc giục của Ellen, người đứng đầu Cục Tình báo và Nghiên cứu của Bộ Ngoại giao cho biết rằng họ không có bằng chứng nào khác, nhưng vì không một tổ chức nào đứng ra nhận trách nhiệm, nên dường như sẽ là hợp lý khi giả định rằng hai vụ nổ do những kẻ độc hành hợp tác với nhau tiến hành.
“Sao có thể thế được?” Ellen hỏi. “Theo định nghĩa, thì những kẻ đó thường không hợp tác với nhau.”
“Có thể đó là một nhóm nhỏ.”
“À,” bà nói, và quyết định không phí hơi cũng như phí thời gian cho chuyện này nữa.
Lúc này khi ngồi trong phòng họp riêng, lắng nghe những bản báo cáo chẳng cho biết được điều gì mới, bà tự hỏi hành động rời khỏi cuộc họp nội các của mình tai hại tới mức nào.
Ở mức độ hoạt động chính trị cỡ này, Ellen Adams hiểu rõ, nếu mày không ngồi tại bàn, thì mày phải có mặt trên thực đơn.
Nhưng cứ để họ làm những điều tồi tệ nhất. Đây chính là cái bàn mà bà phải có mặt.
“Nối máy với Giám đốc Cục Tình báo Quốc gia đi,” bà nói. “Tôi có vài câu hỏi.”