Tất cả các mạng lưới đang truyền trực tiếp buổi họp báo.
Màn hình trong văn phòng Bộ Ngoại giao được nối với Phòng Họp báo của James. S. Brady trong Nhà Trắng. Các phóng viên đang đi lại xung quanh, đợi chờ Tổng thống.
“Ông ấy không mời mẹ tham gia à?” Katherine hỏi mẹ.
“Cháu mong ông ta sẽ mời sao?” Betsy hỏi, nhấp một ngụm Chardonnay.
“Ông ấy có mời rồi. Nhưng mẹ từ chối.” Ellen nhìn gia đình mình. “Mẹ thích ở đây với mọi người hơn.”
“Eo.” Gil nhìn Betsy. “Bác uống rượu bằng cốc à.”
“Chỉ vì có con bé ở đây thôi.” Betsy chỉ tay vào Anahita.
Họ ngồi trên xô pha và ghế bành, những bàn chân đi tất gác lên chiếc bàn cà phê. Các chai rượu, mấy lon bia cùng một khay sandwich ăn dở nằm trên tủ. Gil khui một lon bia rồi trao cho Anahita trước khi khui một lon cho mình.
“Ông ấy sẽ nói gì nhỉ?” Anh hỏi mẹ.
“Sự thật,” Ellen đáp, ngồi xuống xô pha giữa mấy đứa con.
Bọn trẻ đã quay về D.C vào lúc tờ mờ sáng và thấy mẹ chúng đang ngủ say, vẫn còn chưa thay đồ. Tạ ơn Chúa vì những chuyến xe quân sự tốc độ, Ellen nghĩ.
Khi thức dậy bà đã kể cho chúng nghe phần lớn câu chuyện, cho dù một vài chi tiết sẽ được hé lộ theo thời gian. Và với sự kiên nhẫn.
Lúc này Katherine nhìn vào màn hình. Cô đã cử các phóng viên tới buổi họp báo, nhưng đương nhiên cô cũng nắm được câu chuyện nội bộ. Cô cũng viết xong bài tóm tắt riêng các sự kiện họ đã trải qua, rồi gửi cho biên tập cấp cao, vẫn ếm bài cho đến sau khi Tổng thống phát biểu xong.
Ngay cả khi đã biết mọi thứ, sẽ phải mất vài tháng, có thể là vài năm để họ khám phá hết tất cả mọi chuyện đã xảy ra. Và lọc ra được đầy đủ các thành viên của HLI.
Hai Thẩm phán Tòa án Tối cao và sáu thành viên Quốc hội đã bị bắt giữ, cùng nhiều vụ khác sẽ diễn ra trong nhiều giờ và nhiều ngày tới. Có khả năng là vài tuần tới. Vài tháng tới.
“Hôm qua,” Gil nói. “Trong Phòng Bầu dục, mẹ có biết khi Tướng Whitehead bắt giữ Tổng thống làm con tin là ông ấy đang chơi chiêu không?”
“Bác cũng tự hỏi điều đó,” Betsy nói. “Cậu đã để lại số điện thoại của Phó Tổng thống và bảo mình phải ở nhà. Cậu đã làm thế để mình sẽ là người gọi. Chắc cậu phải biết chuyện gì đó.”
“Mình hy vọng thế, nhưng mình hoàn toàn không biết. Mình nghĩ nếu mình không thể gọi được, thì cậu phải làm. Nhưng trong phút ngắn ngủi khi Whitehead dí súng vào đầu Williams, mình đã tin ông ta thực sự là kẻ phản bội.”
Khoảnh khắc ấy vụt hiện trong tâm trí bà, khoảnh khắc kinh hoàng khi bà biết họ đã thất bại. Đã mất hết tất cả. Bà đã thức dậy vào lúc hai rưỡi sáng, ngồi thẳng đơ trên giường. Đôi mắt mở to ra và nhìn chằm chằm. Miệng há hốc.
Ellen tự hỏi phải chăng nỗi kinh hoàng ấy đã hoàn toàn trôi qua. Ngay cả lúc này, nó vẫn tràn qua người bà khi đang ngồi trên xô pha, giữa lũ trẻ. An toàn và bình yên. Trái tim đập thình thịch và bà cảm thấy đầu nhẹ bẫng.
Mình an toàn rồi, bà nhắc lại. Mình an toàn rồi. Mọi người an toàn rồi.
Hoặc ít nhất là an toàn như bất kỳ ai trong nền dân chủ gây tranh cãi này. Đó như là cái giá của tự do.
“Tổng thống có biết rằng Đại tướng đang diễn không ạ?” Anahita hỏi.
“Hóa ra ông ấy biết. Họ đã lập mưu với nhau. Ta cũng thắc mắc tại sao Mật Vụ lại không vào ngay lập tức. Williams đã ra lệnh cho họ ở lại ngoài Phòng Bầu dục.”
Ellen mỉm cười nhớ lại cách quả bom được gỡ như thế nào. Hóa ra không phải Bert Whitehead gọi cho vợ. Mà là lão gọi cho đội đặc nhiệm gỡ bom hạt nhân ở New York.
Họ có nhiều thời gian hơn để tìm hiểu và có thể truyền đạt nhanh chóng cho tay Biệt kích biết phải làm gì.
Đồng hồ hẹn giờ đã ngừng lại khi chỉ còn hai giây nữa.
Một khi giành lại được ưu thế, Tướng Whitehead đã quay sang Doug Williams. Xoa xoa phần bụng dưới, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân đã hỏi Tổng thống có cần phải đánh ông ta mạnh đến thế không.
“Xin lỗi nhé,” Williams nói. “Adrenalin tăng nhanh quá. Nhưng tôi rất vui khi biết mình có thể hạ gục ngài.”
“Có thể ngài không muốn thử điều đó đâu, thưa Tổng thống,” tay Biệt kích nói, vẫn đang cúi xuống quả bom.
Lúc này Ngoại trưởng Adams cùng những người khác nhìn các phóng viên bắt đầu ngồi vào chỗ trong Phòng Họp báo Brady.
“Mẹ này?” Katherine nói.
“Xin lỗi.” Ellen quay về với hiện tại.
“Làm sao mẹ biết Đại tướng không phải là HLI?” cô hỏi.
“Lúc đầu mẹ cũng nghĩ là ông ta thật. Mẹ tin vào những tài liệu mà Pete Hamilton đã tìm thấy trong các hồ sơ lưu trữ bị giấu của chính quyền Dunn. Nhưng sau đó có hai chuyện bắt đầu khiến mẹ bối rối. Khi ông ta bị bắt, ông ta đã tấn công Tim Beecham. Đánh đập ông ta. Ngay trước khi bị bắt đi, ông ta đã nói với mẹ, 'Tôi xong việc của mình rồi.'”
“Mình nhớ câu nói đó,” Betsy nói. “Nó khiến mình lạnh gáy. Mình nghĩ ông ta đang thú nhận rằng chính ông ta đã thả tự do cho Shah và dọn đường cho những quả bom trên đất Mỹ.”
“Ông ta đã xong việc của ông ta rồi,” Ellen nói. “Mình cũng nghĩ như thế. Nhưng mình càng nghĩ về nó nhiều bao nhiêu, mình càng nhận ra có thể ý của ông ta hoàn toàn khác. Nó hoàn toàn khác xa với tính cách của Tướng Whitehead khi mất kiểm soát. Ông ta đã trải qua bao nhiêu trận chiến, chỉ huy quân đội trong rất nhiều nhiệm vụ nguy hiểm. Muốn chỉ huy được như thế, trước tiên ông ta cần phải tự kiểm soát bản thân trước. Mình bắt đầu tự hỏi nếu ông ta không thực sự mất kiểm soát thì sẽ thế nào. Nếu ông ta tấn công Tim Beecham là có mục đích thì sao.”
“Nhưng tại sao ông ta lại làm thế?” Gil hỏi.
“Bởi vì ông ta đã nghi ngờ Beecham là kẻ phản bội nhưng không có bằng chứng, thế nên ông ta đã làm điều có thể làm là loại ông ta khỏi vòng chiến khi bọn mẹ thảo luận về chiến lược. Nó đã thành công. Beecham phải nằm bệnh viện trong khi bọn mẹ cùng soạn thảo kế hoạch.”
“Thì ra ý của ông ta khi nói, 'Tôi xong việc của mình rổi,' là thế,” Betsy nói. “Giờ thì đến việc của chúng ta.”
“Nhưng còn một lý do nữa?” Katherine nói.
“Phải. Một chuyện còn rõ ràng và đơn giản hơn nhiều. Gia đình của Bert Whitehead vẫn ở lại D.C. Trong khi gia đình của Beecham thì không,” mẹ cô đáp.
Có một câu hỏi Betsy rất ngại hỏi, nhưng giờ bà đã hỏi.
“Tướng Whitehead đã người chỉ đạo vụ đột kích nhà máy đúng không?”
“Đúng. Mình đã nói với Williams rằng mình nghĩ chúng ta đi sai hướng mất rồi, khi cho rằng Whitehead đã sắp đặt tất cả. Mình phải thừa nhận, ông ấy sẽ không bao giờ tin vào lời giải thích câu nói “Tôi xong việc của mình rồi,” của mình nhưng khi nghe nói về những gia đình, ông ấy đã tin. Khi người đứng đầu các Lực lượng Đặc nhiệm và các Tướng không thể lập ra được một kế hoạch hiệu quả để đột nhập vào rồi thoát ra khỏi nhà máy đó, Williams đã tới gặp Whitehead. Ông ta từng là một trong các nhà quan sát của Mỹ tại Trận chiến Bajaur. Ông ta nắm rõ về địa hình.”
“Và ông ta cũng chỉ đạo vụ nghi binh,” Katherine nói.
“Cả vụ đột kích nhà máy nữa. Hai người lên kế hoạch cùng nhau. Ông ta muốn lãnh vai trò chỉ đạo chính,” Ellen nói. “Nhưng Williams sẽ không cho phép. Bọn mẹ không thể mạo hiểm để những người khác phát hiện ra Whitehead đã được phóng thích. Beecham phải tin rằng ông ta đã thuyết phục được bọn mẹ.”
“Vậy là ngay từ lúc đó mẹ đã biết đó là Beecham?” Gil hỏi.
“Bọn mẹ nghĩ vậy, nhưng không có bằng chứng. Khi ông ta đề nghị đi London, Williams đã đồng ý ngay. Một lần nữa, để ông ta đi thật xa.”
Và giờ đã đến lúc cho câu hỏi mà Betsy rất ngại hỏi.
“Vậy thì ai chỉ đạo màn nghi binh?”
Ellen nhìn bà rồi nói, nhẹ nhàng, “Bert đã lựa chọn sĩ quan phụ tá của ông ta. Cô ấy đã phục vụ ba cuộc thao diễn quân sự tại Afghanistan cùng nhóm Biệt kích. Cô ấy là sĩ quan xuất sắc nhất của ông ta.”
“Denise Phelan đúng không?”
“Ừ.”
Betsy nhắm mắt lại. Bà không nghĩ mình có thể thở dài được nữa, nhưng ít nhất bà còn một tiếng thở dài nữa, một tiếng thở dài thật sâu và dài, tiếc thương người phụ nữ trẻ đã từng đứng trong chính căn phòng này, đang cầm cốc cà phê và mỉm cười.
Bà đã thấy Pete Hamilton, làm việc miệt mài.
Đào, đào và đào. Sâu hơn, sâu hơn nữa. Cậu ấy không hề dừng lại sau khi tìm thấy thông tin được cài cắm về Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân.
Cậu ấy sẽ tiếp tục đào. Vượt qua Internet thông thường. Vượt qua trang web cấm. Vượt qua các trang web ngoài rìa. Để tiến vào khoảng trống mênh mông, tiến vào khoảng chân không. Nơi không ánh sáng nào có thể xuyên qua. Và tại đó cậu đã tìm thấy HLI.
Và khi đào ngày càng sâu, cậu ấy cũng tự đào mồ cho chính mình.
Và giờ cả hai cùng chết.
***
Bert Whitehead quẳng cành cây đi và nhìn nó biến mất vào trong tảng tuyết. Pine nhảy lên đuổi theo cây gậy. Đầu nó gục xuống. Lơ lửng giữa tầng không. Đuôi ve vẩy.
Đôi tai quá khổ của nó nằm trên đỉnh đống tuyết tinh khôi, như đôi cánh.
Bên cạnh Pine, con chó chăn cừu còn lại đang nhảy choi choi phấn khích, rồi lại vùi đầu vào đống tuyết tiếp theo. Mà chẳng vì cái gì cả.
“Phải thừa nhận,” người đàn ông đứng cạnh Whitehead nói, “Henri như chẳng chứa tý não nào trong đầu. Cái đầu của nó chỉ nhằm mục đích duy nhất là đỡ hai cái tai của nó thôi. Mọi điều quan trọng nhất nó đều được cất giữ trong tim kìa.”
Tiếng cười của Bert vọng ra thành làn khói. “Anh chàng thông minh.”
Hai người nhìn về phía ngôi nhà của Gamache ở làng Ba Cây Thông, nơi những người vợ của họ sẽ ngồi cạnh ti vi đợi chờ buổi họp báo của Tổng thống.
“Ông muốn vào trong nhà xem không?” Armand hỏi.
“Không. Ông cứ vào xem đi nếu muốn. Tôi đã biết Tổng thống sẽ nói những gì rồi, không cần nghe nữa.”
Giọng ông ta nghe có vẻ kiệt sức, mệt mỏi. Bert cùng vợ ông ta, và Pine, đã bay tới Montréal, rồi lái xe xuống ngôi làng bé nhỏ thanh bình này ở vùng nông thôn Québec. Chính vì điều này.
Vì sự thanh bình.
Hai người bước đi trong im lặng, đôi giày của họ lạo xạo trên tuyết khi dạo quanh thảm cỏ xanh trong làng. Trước mặt họ là những ngôi nhà cũ bằng đá tảng, bằng gạch, làn khói bốc lên từ các ống khói, những ánh đèn ấm áp trên các ô cửa sổ có chấn song.
Vừa quá sáu giờ chiều và trời đã tối. Sao Bắc Cực, Ngôi Sao Phương Bắc, rực sáng trên đầu. Nó vẫn ở đó, luôn luôn ở đó, trong khi khoảng trời đêm còn lại chuyển động xung quanh.
Cả hai ngừng chân và ngước nhìn lên. Thật thoải mái khi có một thứ gì đó không thay đổi. Một vì sao bất động trong vũ trụ không ngừng đổi thay.
Làn hơi lạnh vuốt đôi má họ, nhưng chẳng có ai vội vã quay vào trong nhà. Không khí thật trong lành. Khiến ta mạnh mẽ.
Mới hơn một ngày kể từ các sự kiện đó, nhưng dường như với họ đã là cả một cuộc đời, cách xa cả một thế giới.
“Tôi rất tiếc về chuyện Denise Phelan. Về tất cả bọn họ.”
“Cảm ơn, Armand.” Đại tướng biết rằng Chánh Thanh tra đã hiểu nỗi đau khổ khi mất đi những người lính của mình, hầu hết bọn họ đều còn rất trẻ, dưới sự chỉ huy của ông.
Ông ta vẫn trân trọng những điều quý giá trong trái tim. Những nam nữ thanh niên trẻ tuổi đó sẽ sống mãi ở đó, an toàn, miễn chừng nào trái tim của chính họ vẫn còn đập.
“Tôi chỉ hy vọng ta tóm được hết bọn chúng,” Whitehead nói.
Armand dừng lại. “Có nghi ngờ nào không?”
“Với một kẻ như Shah, luôn luôn có nghi ngờ.”
“Khi ông dí súng vào đầu Tổng thống, ông đã biết những quả bom đang ở đâu. Tổng thống đã mở được trang web HLI, và nó cho ông biết được vị trí chính xác của chúng, gồm cả quả bom trong Nhà Trắng. Tại sao lại không cử các chuyên gia phá bom xuống gỡ nó đi? Sao phải phung phí thời gian ít ỏi để giả vờ bắt Tổng thống làm con tin làm gì?”
“Bởi vì chúng tôi không biết quả bom nằm ở đâu trong Nhà Trắng. Đường dẫn đã cho biết là Phòng Bầu dục, nhưng bức ảnh chụp vị trí chính xác của quả bom ấy thì lại quá mờ mịt.”
“Vậy làm sao ông tìm ra được?”
“Đoán thôi.”
Armand nhìn Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân, thất kinh. “Đoán á?”
“Chúng tôi biết các quả bom khác đều nằm ở bệnh xá; nên chúng tôi cho rằng quả này cũng thế. Nhưng điều ấy sau đó mới nghĩ ra. Thứ chúng tôi thiếu là những lời thú tội của Beecham và Stenhauser. Tìm ra những quả bom thôi là không đủ. Chúng tôi phải tóm được những kẻ đánh bom và phải có được bằng chứng.”
“Ông có biết Ngoại trưởng truyền trực tiếp sự kiện đó cho cố vấn của bà ấy không? Rằng cố vấn của bà ấy có thể nắm rõ mọi thông tin và kêu cứu?”
“Tôi có thể thấy bà ấy đang làm gì với điện thoại của mình, phải. Tôi đã hy vọng…”
“Quá gần,” Armand nói. “Tại sao họ làm thế? Tôi có thể thấy mình không còn quan tâm chuyện đất nước này sẽ đi về đâu nữa, nhưng bom hạt nhân ư? Bao nhiêu người sẽ phải chết?”
“Bao nhiêu người đã chết trong chiến tranh? Chúng xem đây như một cuộc Cách mạng Mỹ khác.”
“Chúng đã kết đồng minh với Al-Qaeda ư? Mafia Nga nữa?” Gamache nói.
“Tất cả chúng ta đôi lúc đều thỏa thuận với ác quỷ. Ngay cả ông nữa đấy, bạn tôi.”
Armand gật đầu. Đúng vậy. Ông luôn có những thỏa thuận như thế.
Bước chân đi dẫn họ qua quán cà phê nhỏ, với những ô cửa sổ phản chiếu ánh sáng mượt như bơ lên tuyết. Họ có thể trông thấy dân làng đang ngồi bên đống lửa, vừa uống vừa nói chuyện. Họ có thể hiểu người ta đang nói về chuyện gì. Điều mà tất cả mọi người dân trên thế giới này đang nói tới.
Họ dừng lại ở cửa hàng sách tối om. Phía trên kia, có ánh đèn trên gác xép. Ánh đèn khẽ lập lòe khi Myrna Landers và Alex Huang theo dõi buổi họp báo.
“Ở đây thật thanh bình,” Bert Whitehead nói, quay người lại ngắm nhìn những ngọn núi và cánh rừng. Và bầu trời đêm đầy sao.
“À có những lúc như vậy,” Armand nói. Ông nghe thấy tiếng thở dài của người bạn đồng hành. “Tại sao ông không nghỉ hưu? Chuyển tới đây mà sống? Ông và Martha có thể ở lại với chúng tôi cho tới khi tìm được nhà mới.”
Bert im lặng trong khoảng bước vài bước rồi mới trả lời. “Quyến rũ thật. Ông không biết nó hấp dẫn đến thế nào đâu. Nhưng tôi là người Mỹ. Cũng mang đầy những vết sẹo như đất nước này, đó là những vết sẹo của nền dân chủ xứng đáng tranh đấu để giữ gìn. Đó là nhà của tôi, Armand ạ. Thêm nữa, cho đến khi chúng tôi chắc chắn đã moi ra hết tất cả những kẻ chủ mưu, tôi sẽ tiếp tục làm công việc này.”
***
“Thưa quý ông và quý bà, Tổng thống Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ.”
Doug Williams chậm rãi bước lên bục phát biểu. Gương mặt ông u ám.
“Trước khi đọc bài phát biểu đã chuẩn bị kỹ, tôi muốn chúng ta dành một phút mặc niệm cho những ai đã hy sinh cả mạng sống để cứu đất nước này khỏi thảm kịch có thể xảy ra, bao gồm sáu thành viên đội bay Đặc nhiệm và một trung đội Biệt kích. Ba mươi sáu nam nữ quân nhân quả cảm.”
***
Trong văn phòng Bộ Ngoại giao, tất cả cùng cúi đầu.
Tại quán Off the Record, mọi người cùng cúi đầu.
Trên Quảng trường Times, tại Palm Beach, trên các con phố của Thành phố Kansas, Omaha, Minneapolis và Denver. Trên khắp những khu đồng bằng rộng lớn, trên khắp các rặng núi, tại các thị trấn, những ngôi làng và những thành phố lớn, những người Mỹ cùng cúi đầu.
Vì những anh hùng ái quốc đích thực đã hiến dâng cả mạng sống.
***
“Tôi sẽ đọc bài phát biểu như đã chuẩn bị,” Tổng thống Williams nói, phá tan sự im lặng. Rồi ông ngừng lại như muốn cân nhắc điều gì. “Trước khi trả lời những câu hỏi.”
Có tiếng xì xào khẽ giữa đám đông các nhà báo. Họ không hề mong đợi điều này.
***
Trong văn phòng Bộ Ngoại giao, họ lắng nghe.
Tổng thống Williams đã mời Ellen tới Phòng Bầu dục sáng hôm ấy nhằm thảo luận nên nói gì và không nên nói gì với người dân Mỹ. Ông còn mời bà tham gia cùng ông tại buổi họp báo, nhưng bà từ chối.
“Cảm ơn ngài, nhưng tôi cảm thấy mình cần ở bên gia đình vào lúc này, thưa Tổng thống. Tôi sẽ xem qua truyền hình cùng tất cả mọi người khác.”
“Tôi cần lời khuyên của bà, Ellen.” Ông chỉ tay về phía chiếc ghế bành cạnh lò sưởi.
“Chiếc sơ mi ấy không hợp với bộ vest đâu.”
“Không, không, không phải chuyện đó. Tôi đang cố gắng quyết định xem có nên trả lời các câu hỏi tại buổi họp báo không.”
“Tôi nghĩ ngài nên trả lời đi.”
“Nhưng bà biết họ sẽ hỏi những câu nhạy cảm. Gần như không thể trả lời được.”
“Tôi biết. Nói cho họ nghe sự thật,” Ellen nói. “Chúng ta có thể đương đầu với sự thật. Chính những lời dối trá mới gây ra thiệt hại.”
“Nếu tôi làm thế, bà biết tôi sẽ bị oán trách vì đã để mọi việc đi quá xa như vậy.” Ông nhìn bà chăm chú. “Có phải đó là lý do bà gợi ý chuyện đó không?”
“Cứ xem như màn trả đũa vụ ở Hàn Quốc đi.”
“Ôi.” Ông nhăn nhó. “Bà biết chuyện đó à?”
“Tôi đoán thôi. Chẳng phải đó là lý do ngài bổ nhiệm tôi làm Ngoại trưởng sao? Nhờ thế tôi không chỉ phải từ bỏ bệ đỡ truyền thông của mình mà còn phải ở nước ngoài hầu hết thời gian, khuất khỏi tầm mắt của ngài. Ngài có thể chắc chắn tôi sẽ thất bại. Tôi sẽ phải chịu sự sỉ nhục toàn cầu, rồi ngài có thể sa thải tôi.”
“Kế hoạch hay đúng không?”
“Nhưng tôi vẫn ở đây. Doug, chuyện gì sẽ xảy ra với Afghanistan? Ngài biết rằng khi chúng ta rút quân, Taliban cùng Al-Qaeda và các bọn khủng bố khác sẽ chiếm ưu thế.”
“Phải.”
“Tất cả mọi chuyện sẽ khiến nhân quyền có thể bị xóa sạch. Tất cả các cô gái, tất cả phụ nữ, từng được đến trường, được hưởng nền giáo dục. Có việc làm. Trở thành giáo viên, bác sĩ và luật sư, tài xế xe buýt. Ngài biết chuyện gì sẽ xảy ra với họ nếu Taliban tiến vào không.”
“Tôi đoán chúng ta sẽ cần một Ngoại trưởng mạnh mẽ, được quốc tế nể trọng và khiến Chính phủ Afghanistan hiểu được cách tôn trọng nhân quyền. Rằng Afghanistan không được phép trở thành mái nhà của bọn khủng bố một lần nữa.” Ông nhìn bà đủ lâu khiến bà bắt đầu đỏ mặt. “Cảm ơn bà. Vì tất cả những gì bà đã làm để ngăn chặn các vụ tấn công. Bà đã mạo hiểm tất cả mọi thứ.”
“Ngài biết mà, đúng không, rằng những kẻ âm mưu không phải là những người duy nhất cảm thấy chúng ta đang đi lạc hướng. Tuy chúng là những kẻ thấy rõ ràng nhất, nhưng có đến hàng chục triệu người sẽ đồng tình với chúng. Những người tốt. Những người tử tế. Họ có thể không chia sẻ các hoạt động chính trị của ta nhưng có thể chia sẻ cho ta manh áo nếu cần thiết.”
Ông gật đầu. “Tôi biết. Chúng ta phải làm gì đó. Trao cho họ manh áo chẳng hạn.”
“Trao cho họ việc làm. Trao cho con cái họ một tương lai, trao cho những thành phố của họ một tương lai. Chấm dứt những lời dối trá khiến họ thêm sợ hãi.”
Những lời dối trá đã tạo ra và nuôi sống Azhi Dahaka ngay trong nhà họ.
“Có rất nhiều sự thức tỉnh. Rất nhiều sự hàn gắn,” ông nói. “Nhiều hơn tôi có thể nhận ra. Bà đã đúng trong rất nhiều bài xã luận của mình. Tôi còn rất nhiều điều phải học.”
“Tôi thực sự nghĩ ngài từng nói đừng có suy nghĩ….”
“Phải, phải, tôi còn nhớ mà.” Nhưng ông đang mỉm cười, cái cách ông nhìn bà khiến hai má bà đỏ bừng.
Lúc này, nhiều tiếng đồng hồ sau đó, với ánh mặt trời rực rỡ, bà ngồi trong văn phòng mình cùng con gái và con trai, với Betsy và Charles Boynton và cô FSO Anahita Dahir. Ellen nghi ngờ, theo sắc mặt của Gil mà xét, cô bé lúc này còn hơn cả một FSO rất nhiều.
Họ theo dõi khi Doug Williams giới thiệu các chuyên gia gỡ bom đã vô hiệu hóa các quả bom hạt nhân, sau đó ông mô tả chuyện đã xảy ra kể từ khi các quả bom trên xe buýt phát nổ.
“Ông ấy nhắc đến mẹ rất khéo đấy,” Katherine nói. “Lần này ông ấy thay đổi rồi.”
Ellen đã nhận ra, bộ vest của ông ta.
Betsy rướn người sang trao cho Ellen cái gì đó.
“Thưa Ngoại trưởng, sự ghi nhận nhỏ nhoi công sức của bà.”
Đó là cái lót cốc ở quán bar Off the Record. Với hình của Ellen Adams trên đó.
***
Khi buổi họp báo kết thúc, Gil hỏi Anahita xem cô có muốn đi ăn tối không.
Trong nhà hàng, cô lắng nghe khi anh kể cho cô về hợp đồng viết sách anh mới được giới thiệu. Cô hỏi anh cảm thấy sao về chuyện đó. Anh sẽ mất bao nhiêu lâu để viết sách.
Vì mọi thông tin giờ đã được bật mí, cả hai không gặp vấn đề gì nữa khi cùng chia sẻ thông tin mật.
Anh rất sung sướng được kể toàn bộ câu chuyện hậu trường. Cho dù anh sẽ giấu kín một phần về Hamza, con Sư tử. Thành viên của gia đình khủng bố Pathan là bạn của mình.
Gil hỏi liệu cô có muốn viết sách cùng anh hay không. Cô từ chối. Cô vẫn phải hoàn thành công việc của một cán bộ phục vụ ngoại giao tại Bộ Ngoại giao.
“Bố mẹ em sao rồi?” Anh hỏi.
“Họ đã về nhà rồi.”
Gil gật đầu. Anahita nhìn ra cửa sổ. Nhìn Washington, D.C, nó vẫn ở đó.
“Họ cảm thấy sao?” Anh hỏi.
Anahita quay ánh mắt ngạc nhiên về phía anh. Sau đó nói với anh.
“Còn em cảm thấy thế nào?” Anh hỏi.
***
“Thưa Ngoại trưởng.”
“Chuyện gì, Charles.”
“Bà đã yêu cầu tôi tìm hiểu về vụ nguyên liệu phân hạch mất tích ở nước Nga.”
Cậu ta đứng cách bàn làm việc của bà vài mét.
Đã tối muộn lắm rồi. Betsy đang ngồi tại bàn trong văn phòng riêng, viết các ghi chép và trả lời câu hỏi từ Tình báo Mỹ liên quan đến đoạn video bà ghi lại.
“Cậu tìm thấy gì rồi?” Ngoại trưởng Adams hỏi.
Cậu ta đang nhìn bà theo cái cách cực kỳ lúng túng. Rõ ràng thứ mà Chánh Văn phòng của bà tìm thấy không phải là một ổ mèo con rồi.
Bà chìa tay ra nhận lấy tờ giấy cậu ta đang cầm, rồi chỉ cái ghế bên cạnh mình cho cậu ta ngồi.
Trước giờ bà chưa từng làm thế, cho phép cậu ta ngồi bên mình tại bàn làm việc. Mà chỉ đứng.
Nhưng thế giới bây giờ đã thay đổi rồi, và họ đã bắt đầu lại.
Bà đeo kính vào xem tờ giấy, rồi nhìn cậu ta.
“Cái gì đây?”
“Có một nguyên liệu phân hạch không chỉ mất tích khỏi nước Nga mà còn từ cả từ Ukraine, Úc, Canada và Mỹ.”
“Nó đã đi đâu?” Ngay cả khi hỏi câu này, bà cũng biết nó nghe lố bịch thế nào. Rốt cuộc, nó đang mất tích.
Nhưng cậu ta vẫn trả lời, lấy bàn tay xoa trán. “Tôi không biết. Nhưng chừng đó là đủ tạo ra hàng trăm quả bom.”
“Nó đã biến mất bao lâu rồi?”
Một lần nữa, cậu ta lắc đầu.
“Và từ các nhà kho của chính chúng ta à?”
Cậu ta gật đầu.
“Nhưng đó không phải là tất cả.” Cậu ta chỉ tay xuống dưới trang giấy.
“Người đã tha thứ cho con,”, bà nghĩ, “nhưng Người vẫn chưa xong, vì tội lỗi của con vẫn đong đầy.”
Bà nhìn xuống. Khi đọc, bà bật ra một hơi thở gấp, chậm và dài.
Khí độc sarin.
Vi khuẩn bệnh than.
Ebola.
Virus khỉ mặt xanh.
Bà lật xem mặt sau tờ giấy. Danh sách còn rất dài. Từng nỗi khiếp đảm con người từng biết tới. Từng nỗi kinh hoàng con người gây ra đều có. Và không có.
Đang mất tích. Không rõ ràng.
Ellen nhìn cái danh sách dài, thất lạc này.
“Tôi nghĩ,” bà thì thầm, “chúng ta có thêm cơn ác mộng mới rồi.” “Vâng, tôi nghĩ bà nói đúng, thưa Ngoại trưởng.”