Vừa nghe nhắc đến cái tên Dị Mẫn Chi, Trương Duy đã giật nảy mình. Ngay khi mới đặt chân tới Đại học Phương Bắc, anh đã nghe mọi người nhắc đến nhân vật nổi tiếng này. Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đến với ngôi trường này chỉ để gặp thầy Dị Mẫn Chi, thế nhưng ông không dễ dàng gì cho người khác gặp. Đã nhiều lần Trương Duy định cùng đi với họ để được thấy phong thái của bậc đại sư về mỹ học ấy, nhưng đều không thành. Vì thế khi nghe thầy Lý Khoan nói sẽ giới thiệu mình với thầy Dị Mẫn Chi, anh không nén nổi vui mừng, vội hỏi: “Em nghe nói thầy ấy không dễ dàng gặp người khác cơ mà?”.
“Đúng vậy, nhưng chắc chắn ông ấy sẽ đồng ý gặp em.”
Trương Duy thật sự cảm động. Anh đến thẳng chỗ nhà văn Phế Nhân. Anh ta dạy môn Văn trong một trường đại học ở Bắc Kinh. Lúc ấy, anh ta đang đến thăm Đại học Phương Bắc và sắp trở về. Phế Nhân và Trương Duy từng cùng đến tìm thầy Dị Mẫn Chi mấy lần, nhưng lần nào ông cũng không có nhà. Nghe mọi người nói, thầy Dị Mẫn Chi thường không mở cửa cho người khác, dù người ấy có gọi thế nào, ông cũng không mở cửa. Sau đó Phế Nhân còn tới một mình mấy lần nữa, nhưng thầy Dị Mẫn Chi đều không mở cửa. Trương Duy bảo anh ta: “Việc gì phải như thế. Ông ấy thích cao ngạo thì cứ để cho ông ấy cao ngạo. Sao anh phải đến tìm mãi như vậy?”.
“Cậu không biết đâu, người như thế mới thật đáng quý. Bây giờ, người có thể viết lời giới thiệu cho cuốn sách của tôi, ngoài thầy Dị Mẫn Chi ra thì chẳng còn ai cả. Hồi trẻ, tôi đã từng đọc tác phẩm của ông ấy, lúc đó tôi đã thề rằng, nhất định tôi sẽ làm cho ông ấy phải viết cho tôi mấy dòng. Thầy Dị Mẫn Chi rất ít khi viết lời giới thiệu cho tác phẩm của người khác. Tính đến giờ, ông ấy mới chỉ viết cho ba cuốn, và ba lời giới thiệu ấy đều là ba câu chuyện ly kỳ”, Phế Nhân nói.
“Ba câu chuyện gì thế?”, một vị tiến sĩ văn học cổ điển cùng phòng với Phế Nhân liền hỏi.
“Một là, sau khi giảng viên hướng dẫn của thầy Dị Mẫn Chi - thầy Hồ Lý qua đời, nhà xuất bản muốn cho ra đời tuyển tập của thầy Hồ nên đã mời người viết lời giới thiệu. Duy có thầy Dị là có thể đảm đương trọng trách này. Nhưng thầy Dị lại là sinh viên của thầy Hồ, ông không viết. Thế là biên tập viên của nhà xuất bản nói, không có quy định gì về việc viết lời giới thiệu, hơn nữa, giới học thuật có những ý kiến rất khác nhau về mối quan hệ thầy trò giữa thầy Dị với thầy Hồ, nếu thầy Dị không viết thì chẳng phải sẽ khiến người ta nghĩ rằng những lời dị nghị ấy đúng là có cơ sở hay sao? Các anh có biết vì sao mà biên tập viên ấy nói như vậy không?”
“Chắc là anh muốn nói đến chuyện hồi trước thầy Dị Mẫn Chi từng phê phán thầy Hồ Lý?”
“Đúng thế. Thầy Dị đúng là con người kỳ quái, hệt như trong tiểu thuyết. Ông ấy là người Vân Nam, ông nội là một tướng quân, còn bố là một tiến sĩ từng du học ở phương Tây. Khi Trung Quốc mới được giải phóng, ông ấy đến học đại học ở Bắc Kinh. Lúc đó chí hướng của ông ấy là trở thành một sĩ quan chỉ huy cao cấp. Nhưng khóa luận tốt nghiệp đại học của ông ấy lại được thầy Hồ Lý, một nhà khoa học rất nổi tiếng hồi đó để mắt tới, thế là ông ấy trở thành nghiên cứu sinh của thầy Hồ, mà nội dung của khóa luận ấy lại chính là phê phán tư tưởng triết học của thầy Hồ. Chuyện này đã được truyền tụng trong giới học thuật như một giai thoại. Được thầy Hồ nhận hướng dẫn là một giấc mơ đối với các sinh viên khoa Văn. Vì thế thầy Dị đã quyết tâm học triết học. Ông ấy là người cao ngạo, không mấy khi chịu khuất phục, luận án tiến sĩ của ông ấy một lần nữa lại phê phán thầy hướng dẫn của mình. Lần đầu thì có thể là do họ chưa quen biết nhau, coi như không tính, nhưng lần sau thì không như thế, thầy Hồ đã dìu dắt ông ấy suốt ba năm, chuyện như vậy ai mà không tức giận cho được? Lúc đó quan niệm lễ giáo vẫn còn rất nặng nề, giới học thuật đầu tiên phê phán hành động của thầy Dị, sau đó lại tán thưởng, sau nữa thì tranh luận. Báo chí đã cho đăng tất cả những bài tranh luận ấy. Và thế là thầy Dị trở thành người nổi tiếng. Lúc đầu thầy Hồ cũng rất tức giận, nhưng sau khi thấy giới học thuật phê phán thầy Dị thì thầy lại thấy rất thích ông, và cảm thấy phải như thế mới đúng là nghiên cứu sinh của mình. Hai người đã chủ động tranh luận về một loạt những vấn đề học thuật, vì thế mà đã làm dấy lên một cuộc vận động tư tưởng sâu rộng to lớn giữa giới triết học và giới lý luận văn học kể từ sau khi giải phóng. Những bài tranh luận của thầy trò Hồ - Dị được báo chí đăng tải rất đầy đủ, tiếng tăm của thầy Dị cũng theo đó nổi lên như cồn, mặc dù vậy quan hệ thầy trò giữa họ vẫn rất tốt. Chuyện này cũng lại trở thành giai thoại trong giới học thuật. Trong những cuộc tranh luận ấy, họ đã viết một số điều thể hiện sự không bằng lòng với thời cuộc lúc đó, vì thế mà tới năm 1957, họ đều bị coi là những phần tử có vấn đề. Nghe nói, lúc đó tội lớn nhất của thầy Dị Mẫn Chi là đã viết mấy bài thơ phản động. Những bài thơ ấy không đăng báo, nó chỉ được viết trong nhật ký, thế nhưng vẫn bị tố cáo, và tội của thầy càng lớn.
Đầu tiên thầy phải tới cải tạo tại Giáp Biên Câu ở Hà Tây, Cam Túc, và suýt nữa thì bị chết đói ở đó. Nhưng cũng chính tại đây, thầy đã gặp được Chu Tứ Duy. Hồi ấy thầy Hồ và Chu Tứ Duy được coi là hai ngôi sao sáng nhất trong giới triết học, giới học thuật gọi là “Nam Chu Bắc Hồ”. Triết học của thầy Hồ nhấn mạnh quan niệm nhập thế của Nho gia trên cơ sở kết hợp với tiến hóa luận, còn Chu Tứ Duy thì coi trọng cảm xúc, linh tính và nghiêng về Đạo gia. Sau đó họ được chuyển đến một nông trường ở huyện Võ Uy và tiếp tục cải tạo ở đó.”
“Sao anh lại biết rõ thế?”, vị tiến sĩ hỏi với vẻ hiếu kỳ.
“Tiếng tăm của thầy Hồ và thầy Dị lúc ấy rất nổi, ai mà chẳng biết? Họ đã phải chịu đủ cực khổ ở nơi cải tạo. Nhưng Chu Tứ Duy đã không thể vượt qua được, còn thầy Dị may mắn sống sót, hai mươi năm sau, ông ấy quay trở về dạy ở Đại học Phương Bắc. Nhưng điều lạ là, kể từ đó thầy Hồ không viết một chữ nào nữa. Còn thầy Dị thì không như vậy, sau mười mấy năm tiếp xúc với Chu Tứ Duy, tư tưởng của ông ấy đã khác hẳn trước. Song, cũng rất thú vị, sự im lặng của thầy Hồ Lý lúc đó tạo nên một sự tương phản hoàn toàn với nhiệt huyết và khí thế của thầy lúc trước, và cũng chính nguyên nhân ấy đã khiến tên tuổi của thầy lại càng nổi hơn. Trong khi đó, hầu như chẳng ai nhớ gì tới Chu Tứ Duy. Trước khi thầy Hồ qua đời, thầy Dị lại một lần phê phán thầy với một tư tưởng rất phức tạp mà khó ai có thể lý giải nổi. Nhưng không ai biết rằng, thầy Dị đã nói với thầy Hồ về điều này, và thầy cũng đã đồng ý, hơn nữa còn viết lời giới thiệu cho tác phẩm của thầy Dị. Trước hôm thầy Hồ qua đời, cuốn sách của thầy Dị cũng được xuất bản. Điều này khiến cho những người không hiểu rõ vấn đề có những suy nghĩ riêng. Vị trí của thầy Dị trong giới học thuật sau ba lần phê phán ân sư ngày càng được nâng cao, nhưng đồng thời ông ấy cũng bị khoác thêm tội danh phản thầy. Có người còn nói, thầy Dị đã đạp lên lưng ân sư của mình để thăng tiến.”
“Thế lời giới thiệu thứ hai là gì?”, vị tiến sĩ lại hỏi với vẻ nôn nóng.
“Lần thứ hai là câu chuyện có liên quan đến nhà thơ Bắc Tử. Trương Duy có lẽ hiểu rõ chuyện này hơn tôi”, Phế Nhân nói.
Nghe nhắc đến tên Bắc Tử, Trương Duy gật đầu một cách nặng nề. Vị tiến sĩ nói với anh: “Tôi cũng đã nghe chuyện về nhà thơ này. Cậu ấy tự tử rồi, đúng không?”.
“Đúng thế. Bắc Tử là một nhà thơ thiên tài. Năm mười lăm tuổi anh ấy đã vào Đại học Phương Bắc, mười tám tuổi thì bắt đầu đi làm, dạy triết ở một trường đại học khác. Hồi còn học đại học, anh ấy đã viết rất nhiều bài thơ theo khuynh hướng siêu thực, nhưng chẳng gửi bài nào đi. Mãi tới năm hai mươi tuổi, anh ấy mới cho đăng bài thơ đầu, từ đó thơ của anh ấy liên tiếp xuất hiện trên thi đàn, nhưng chẳng có ai đứng cùng phía với anh ấy. Dần dần, nhiều nơi không nhận đăng thơ của anh ấy nữa, nhưng anh ấy vẫn muốn viết ra một bộ sử thi vĩ đại nhất Trung Quốc. Trong khoảng thời gian từ hai mươi hai đến hai mươi sáu tuổi, anh ấy đã sáng tác được một lượng lớn trường ca một cách rất kỳ diệu. Năm tôi lên đại học, anh ấy đã lao vào tàu hỏa tự tử, khi vừa hai mươi sáu tuổi. Sau khi anh ấy chết, mọi người mới phát hiện ra rằng anh ấy là một thiên tài, giống hệt trường hợp của Franz Kafka. Người đầu tiên phát hiện ra điều này chính là thầy Dị Mẫn Chi, và thầy đã viết lời giới thiệu cho tập thơ của anh ấy”, Trương Duy kể với tâm trạng có vẻ nặng nề.
Phế Nhân nhìn vào mắt Trương Duy vẻ cảm động, nhưng anh ta cảm thấy những lời kể của Trương Duy quá đơn giản, không mấy hấp dẫn, bèn tiếp lời: “Có lẽ cậu chưa biết câu chuyện giữa thầy Dị Mẫn Chi với Bắc Tử?”.
Trương Duy lắc đầu. Phế Nhân nói: “Bắc Tử không phải là nghiên cứu sinh của thầy Dị Mẫn Chi, nhưng anh ấy luôn muốn được thầy Dị Mẫn Chi nhận lời làm giảng viên hướng dẫn. Bắc Tử từng nói với thầy Dị Mẫn Chi, nếu anh ấy học lên nữa, thì xin thầy hướng dẫn anh ấy, ngoài thầy ra, nếu là người khác thì dù có biếu không, anh ấy cũng không muốn”.
“Thế thì chắc thầy Dị Mẫn Chi sẽ nhận hướng dẫn anh ta ngay chứ còn gì?”, vị tiến sĩ nói.
“Bắc Tử cũng đã thi nghiên cứu sinh một lần, nhưng môn ngoại ngữ lại không đạt. Thi nghiên cứu sinh, như mọi người biết đấy, gồm cả môn Chính trị và Ngoại ngữ, anh ấy cảm thấy môn Ngoại ngữ không có hy vọng nên không thi nữa. Chúng ta theo nghiệp văn, vì thế thường không coi trọng ngoại ngữ. Nhiều người cứ nghĩ bình thường không dùng đến thì việc gì phải học? Thi nghiên cứu sinh mà cũng phải qua môn Ngoại ngữ, đúng là chẳng hợp lý gì cả! Kiểu cách ấy đã khiến rất nhiều nhân tài phải ở lại và giúp cho không ít kẻ ngu đần, kém cỏi và những kẻ khốn chỉ biết học vẹt, chẳng có chút sáng tạo nào tiến lên trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ.”, Phế Nhân vừa nói vừa đặt mạnh chiếc cốc xuống bàn.
“Đừng ca cẩm nữa, kể cho chúng tôi nghe chuyện của Bắc Tử đi đã!”, vị tiến sĩ giục.
“Sao lại gọi là ca cẩm? Những nhân tài ngu dốt mà tôi nói tới là những người như cậu đấy, thế cậu tưởng là ai?” Phế Nhân vừa cười vừa nói, may mà người kia cũng không giận, vì thế Phế Nhân tiếp tục kể:
“Bắc Tử không thi đỗ nghiên cứu sinh và trở thành học trò của thầy Dị Mẫn Chi được, nhưng cuối tuần nào anh ấy cũng tới tìm thầy nói chuyện, chơi cờ. Hai người đó đúng là những bậc kỳ tài, đồng thời đều là những người bất đắc chí. Đúng lúc ấy diễn ra cuộc vận động chống sự lây nhiễm tinh thần tự do hóa, thầy Dị lại trở thành tiêu điểm của phong trào đó, vì thế những bài giảng của thầy đều bị cấm. Bắc Tử là kẻ ngông, nhưng trước mặt thầy thì không thể như thế được nữa, họ cùng nhau uống rượu, ngâm thơ và hát. Hàng xóm đều cho rằng họ bị điên. Thầy Dị rất thương Bắc Tử, ông thường giúp đỡ anh ấy. Trường đại học nơi Bắc Tử làm việc nằm ở một nơi hẻo lánh vùng ngoại ô, thường ngày hầu như anh ấy chẳng có bạn bè, vì vậy anh ấy vẫn luôn nghĩ tới chuyện chuyển về Bắc Kinh. Mong muốn lớn nhất của anh ấy là được làm việc ở Đại học Phương Bắc. Thế nhưng ngôi trường này lại chẳng khác nào một pháo đài, anh ấy không thể vào nổi. Thầy Dị đã nghĩ tới việc xin cho anh về khoa Nghiên cứu Giảng dạy của ông, nhưng nhà trường không đồng ý. Cái chết của Bắc Tử khiến thầy bị tác động rất lớn. Lúc đó trên văn đàn không có ai coi trọng Bắc Tử cả. Thầy đã nhờ các nghiên cứu sinh của mình tập hợp tất cả những bài thơ của Bắc Tử lại và tự tay viết lời giới thiệu, coi đó như lời tưởng niệm anh ấy và cho xuất bản tập thơ đó. Nhờ thế mà Bắc Tử mới thu hút được sự chú ý trên thi đàn. Nếu không có thầy Dị thì cái chết của Bắc Tử chỉ uổng phí mà thôi. Đó là câu chuyện thứ hai”.
Trương Duy không biết câu chuyện thứ ba mà Phế Nhân định kể là gì, anh cũng không muốn hỏi nên chỉ kiên nhẫn chờ nghe. Phế Nhân xuống giường, đi lấy nước uống. Anh ta đã kể đến khô cả họng. Vị tiến sĩ kêu lên: “Anh kể chuyện mà cứ khiến người khác phải sốt ruột thế. Nói nhanh lên xem nào, chuyện thứ ba là gì?”.
“Câu chuyện thứ hai đã kể xong đâu. Tài năng của Bắc Tử là do thầy Dị Mẫn Chi phát hiện ra, chính vì thế mà các nhà văn và nhà thơ đều rất sùng bái ông, họ tìm đủ mọi cách để nhờ ông viết lời giới thiệu cho tác phẩm của mình. Nhưng kể từ khi Bắc Tử chết, ông đã đóng cửa, từ chối tiếp khách. Trước cửa nhà ông luôn dán một tờ giấy ghi là: Đi công tác Vân Nam một tháng, xin để lại lời nhắn. Nhiều người tưởng ông đi công tác thật nên đành thất vọng ra về. Sau khi khôi phục công tác, ông cũng chỉ dạy nghiên cứu sinh, không dạy các lớp đại học nữa. Ông thường dạy tại nhà, và điều đáng tiếc là, cũng giống như thầy Hồ Lý, từ đó ông không viết gì nữa. Điều này càng khiến người khác khó mà gặp được ông”, Phế Nhân nói với vẻ thất vọng.
“Ông ấy càng như vậy thì những người như các anh lại càng muốn gặp!”, vị tiến sĩ nói. “Có điều, qua những lời kể của anh, tôi cũng rất tò mò và muốn được gặp người này.”
Phế Nhân cười: “Không chỉ có chúng tôi, mà tất cả những người từng nghe danh ông ấy cũng đều có suy nghĩ như vậy. Chính anh cũng thế đấy thôi. Cái chính là con người ông ấy có gì đó rất kỳ quặc”.
“Hãy kể câu chuyện thứ ba đi!”, vị tiến sĩ lại nôn nóng giục.
“Thứ ba là chuyện viết lời giới thiệu khiến cho người chết sống lại”, Phế Nhân nói.
Trương Duy biết ngay Phế Nhân định nói tới ai, anh liền gật đầu.
“Nghĩa là sao?”, vị tiến sĩ kêu lên.
“Mấy năm gần đây, ai là người được bàn tán sôi nổi nhất trên văn đàn? Ý tôi là người đã chết ấy”, Phế Nhân nói.
“Tôi làm sao mà biết được!”, vị tiến sĩ đáp.
“Chắc chắn là anh biết, tối hôm qua anh vẫn còn nói với tôi về ông ta kia mà”, Phế Nhân nói.
“Ý anh là Phùng Hư Tử?”
“Đúng là ông ấy. Trước đây, trên văn đàn của chúng ta, làm gì có ai biết tới Phùng Hư Tử, nhưng vì sao ông ấy có thể sống lại và trở thành tiêu điểm chú ý của mọi người? Đó chính là nhờ thầy Dị Mẫn Chi. Ba năm trước, con trai của Phùng Hư Tử tìm tới thầy Dị, nói rằng muốn xuất bản tuyển tập thơ của bố mình và muốn nhờ ông viết lời giới thiệu, ông đã nhận lời. Vì sao lại như vậy? Phùng Hư Tử là một trong những nhà thơ theo khuynh hướng hiện thực sôi nổi nhất vào những năm 30 của thế kỷ XX, ông ấy tự tử năm 1960. Khi còn sống, Phùng Hư Tử là bạn tốt của thầy Dị, ông cho rằng thơ của ông ấy là những bài thơ theo khuynh hướng hiện thực hay nhất lúc đó, chỉ có điều, chúng ra đời không đúng lúc, vì thế mới không được coi trọng. Trong lời giới thiệu tập thơ ấy, thầy Dị đã viết rằng, xét về mặt nghệ thuật thì Phùng Hư Tử là nhà thơ theo chủ nghĩa hiện thực sớm nhất và thành công nhất. Chính nhờ những lời giới thiệu này mà Phùng Hư Tử phút chốc từ một người vô danh trở thành một nhà thơ lớn. Như thế chẳng phải là làm cho người chết sống lại là gì?”
“Vì thế anh nhất định phải nhờ thầy Dị viết lời giới thiệu cho mình chứ gì?”, vị tiến sĩ cười nói. “Anh chưa nổi danh được là vì chưa có những người như ông ấy lăng xê lên, đúng không?”
Phế Nhân nhìn Trương Duy, cười đáp: “Đúng thế. Tôi đã nói với Trương Duy rằng cuốn tiểu thuyết này của tôi khác những cuốn thông thường. Tôi viết về chuyện thầy Dị đi cải tạo ở Giáp Biên Câu, đây sẽ là tác phẩm mang tính tiên phong ở Trung Quốc. Tôi đã tới rất nhiều nhà xuất bản nhưng họ đều không dám nhận. Một số nơi đồng ý xuất bản nhưng lại đòi phải có lời giới thiệu của một người có uy tín. Có người đã gợi ý tôi đến nhờ thầy Dị Mẫn Chi. Tôi đã tới đây, nhưng cũng nửa năm rồi mà vẫn chưa sao gặp được ông ấy”.
“Thế cậu không để lại lời nhắn cho ông ấy à?”, vị tiến sĩ hỏi.
“Để lại rồi”, Phế Nhân nói.
Sau đó Phế Nhân và Trương Duy đi tìm thầy Dị Mẫn Chi nhưng ông không có nhà. Ông vẫn đang ở Vân Nam.
Hôm nay Trương Duy đi tìm Phế Nhân, định nói với anh ta rằng mình cũng muốn đến gặp thầy Dị, nhưng nghĩ đến chuyện ông không muốn gặp Phế Nhân, anh lại không nói nữa. Anh nghĩ, có thể thầy Dị không còn thấy hứng thú với chuyện văn chương. Chờ đến khi gặp được ông, anh sẽ nói đến chuyện của Phế Nhân, lúc ấy có thể ông sẽ đồng ý gặp anh ta.
Thấy Trương Duy đến, Phế Nhân bèn hỏi gần đây anh làm gì. Trương Duy liền nói về một số chuyện và hỏi anh ta khi nào thì rời khỏi Đại học Phương Bắc. Anh ta đáp: “Ba ngày nữa. Vé tàu cũng mua rồi”.
“Thế anh không định nhờ thầy Dị viết lời giới thiệu cho nữa à?”
“Muốn, nhưng thầy ấy không muốn gặp tôi, tôi chẳng biết nên làm thế nào nữa.”
Trở về ký túc xá, thấy mấy người bạn văn ở khóa trên đến chơi, Trương Duy bèn kể lại chuyện thầy Lý Khoan bảo anh đến gặp thầy Dị Mẫn Chi. Mấy người kia đều cười và nói: “Ồ, thầy Dị Mẫn Chi ư? Ông ấy thì có thể làm được việc gì?”. Cũng thật lạ, thầy trò trường Đại học Phương Bắc không sùng bái thầy Dị Mẫn Chi như các nhà văn và Phế Nhân. Những người này có vẻ thích thú với những chuyện về tác phong lối sống của thầy Dị Mẫn Chi hơn.
Có hai chuyện mà mọi người đều đã nghe nói.
Thầy Dị Mẫn Chi tuy đã già nhưng vẫn sống độc thân. Có lần, ông tới một hiệu giày ngoài cổng trường để sửa đôi giày rách. Chủ hiệu là một phụ nữ tuổi ngoài ba mươi, mặt mũi rất thanh tú, nhưng có lẽ vì áp lực của cuộc sống nên trông chị ta có vẻ mệt mỏi, đầu tóc cũng không được gọn gàng. Nhưng tất cả đều không che lấp hết vẻ đẹp của chị ta. Những người đến sửa giày rất đông. Thầy Dị Mẫn Chi ngồi xem chị ta làm việc, còn chị ta thì vừa khâu giày vừa nói chuyện với ông. Thầy Dị Mẫn Chi cảm thấy chị ta rất lương thiện, hiền lành, càng nhìn lại càng thấy đẹp. Trở về nhà, ông cứ nghĩ mãi, rồi sau khi uống một ít rượu, ông liền cầm bút và viết một lá thư tình, trong đó khen ngợi vẻ đẹp và sự khéo léo của chị sửa giày. Ngày hôm sau, ông cầm một đôi giày khác đến sửa và lại ngồi trước mặt ngắm chị ta, càng ngắm lại càng thấy yêu và khi trả tiền thì đưa luôn lá thư ấy. Thầy Dị Mẫn Chi cảm thấy chuyện ấy cũng không có gì. Chị ta có đọc hay không cũng không sao, ông chỉ muốn bày tỏ suy nghĩ và tình cảm trong lòng mình mà thôi.
Buổi chiều, nhà trường gọi điện cho thầy Dị Mẫn Chi, mời ông lên gặp phó bí thư Đảng ủy của trường. Sau đó ông mới biết rằng, người phụ nữ ấy tưởng ông là một kẻ lưu manh viết những lời lẽ như vậy để tán tỉnh chị ta. Phó bí thư Đảng ủy nói: “Mọi người rất coi trọng anh, nghĩ rằng một giáo sư đại học như anh làm sao lại có thể thích một người sửa giày như chị ta. Còn chị ta chắc là sợ rằng biết đâu sau này anh sẽ làm những việc tồi tệ hơn, nên đã nghe theo lời xúi giục của những người xung quanh, đem lá thư ấy đến văn phòng của nhà trường”. Thầy Dị Mẫn Chi nghe xong đỏ bừng mặt, biện hộ: “Đúng là tôi có thích cô ấy, và có viết một lá thư để bày tỏ tình cảm, ngoài ra không có ý đồ gì khác. Như thế chẳng lẽ cũng là sai?”. Chuyện này truyền đi khiến mọi người càng nhìn thầy Dị Mẫn Chi với con mắt khác thường hơn. Người phụ nữ ấy cũng không dám sửa giày ở chỗ cũ nữa mà chuyển đi nơi khác.
Nhưng chuyện được nhiều người biết đến nhất là thầy Dị Mẫn Chi đã từng viết thư tình cho một cô sinh viên năm thứ tư. Trong thư chỉ là một bài thơ, nói về chuyện ông đã nhìn thấy cô ấy vào một buổi hoàng hôn trong lúc đi dạo, ông cảm thấy ở cô ấy có điều gì đó rất đặc biệt, khác thường, kể từ lần ấy, ông không thể nào quên được. Ông cũng không biết tên cô sinh viên ấy là gì, nhưng qua cách gọi của bạn bè trong lớp thì biết được hai chữ cuối trong tên của cô. Sinh viên của Đại học Phương Bắc có ai lại không biết đến thầy Dị Mẫn Chi. Nên khi nhận được lá thư, cô sinh viên ấy rất kinh ngạc và đã đưa thư cho một người bạn xem. Không ngờ, khi viết một bài văn, người bạn đó đã kể lại câu chuyện này. Mãi tới khi người ta mang bài viết ấy đến đưa cho thầy Dị Mẫn Chi, ông mới sực nhớ ra.
Hai việc làm trên trong con mắt của các sinh viên được xem là những hành động có tính tiên phong, họ cảm thấy các văn nhân cần phải sống như thế. Mọi người cười nói một trận rồi ra về, nhưng Trương Duy đã nằm suy nghĩ cả một buổi tối, rốt cuộc thầy Dị Mẫn Chi là người như thế nào? Có nên gặp ông ấy không, nếu gặp rồi thì sẽ bắt đầu như thế nào?
Ba rưỡi chiều ngày hôm sau, vì không có việc gì nên Trương Duy quyết định đến gõ cửa nhà thầy Dị Mẫn Chi. Cánh cửa ấy với anh rất quen thuộc, bởi anh đã tới đây mấy lần cùng với những người khác. Nhưng nó vẫn đóng im ỉm, anh có phần tức giận. Thực ra, trước đây anh cũng từng tức giận, anh có cảm giác mọi người đã đánh giá thầy Dị Mẫn Chi quá cao, nhưng rồi tất cả những văn nhân từ xa đến đều đòi anh đưa đi gặp thầy, dần dà anh cũng thấy bớt giận hơn mỗi lần đưa họ đến gõ cửa mà không gặp, bởi ai cũng nghĩ rằng phàm là các văn nhân thì đều có tật, chẳng nên trách họ làm gì.
Anh để lại một mẩu giấy, nói rằng ngày mai anh sẽ lại tới vào giờ này. Ba rưỡi chiều ngày hôm sau, Trương Duy đến gõ cửa nhà thầy Dị Mẫn Chi. Cánh cửa vẫn đóng im lìm. Anh thất vọng trở về phòng, Phế Nhân đang chờ anh. Năm giờ rưỡi chiều Phế Nhân phải lên tàu, anh ta để lại bản thảo cuốn tiểu thuyết nhờ Trương Duy khi nào gặp thầy Dị Mẫn Chi thì nhờ thầy viết lời giới thiệu giúp cho. Trương Duy rất muốn nói rằng mình cũng chưa chắc gặp được thầy, rằng anh cũng bị từ chối. Anh tiễn Phế Nhân ra bến tàu, hai người nắm chặt tay nhau, không biết phải nói gì. Phế Nhân cất lời trước: “Trương Duy, cố gắng nhé. Chúng ta đều từ Tây Bắc đến, nhất định phải làm được cái gì thật vĩ đại cho mọi người thấy. Tây Bắc của chúng ta tuy còn nghèo và lạc hậu nhưng tinh thần luôn mạnh mẽ. Nhất định chúng ta phải chứng minh cho họ thấy điều đó”.
“Được!”, Trương Duy trịnh trọng trả lời.
“Theo mình, văn học của Trung Quốc cần phải nhìn vào Tây Bắc của chúng ta, ý cậu thế nào?”, Phế Nhân nói.
Trương Duy mỉm cười không đáp. Trước khi bước lên tàu, Phế Nhân còn quay lại nói: “Cậu nhớ nhé, nếu có cơ hội gặp thầy Dị Mẫn Chi, hãy nhờ thầy viết lời giới thiệu cho mình. Nhưng nếu thầy ấy cũng nhìn người Tây Bắc chúng ta như những kẻ khác thì cậu phải nhớ là hãy xé ngay bản thảo của mình trước mặt thầy ấy”.
Khi nói những lời này, mắt Phế Nhân rưng rưng, những giọt lệ dường như sắp trào ra. Trương Duy cũng cảm động đến rơi lệ. Cuối cùng thì tàu cũng chuyển bánh. Phế Nhân xa dần cùng với đoàn tàu, Trương Duy không còn nhìn thấy khuôn mặt có phần hoang dã và dễ bị tổn thương của anh ta nữa.
Trở về ký túc xá, Trương Duy lật xem bản thảo của Phế Nhân. Nội dung của cuốn sách chân thật nhưng ngôn từ thì rất cứng nhắc, kết cấu cũng không được hợp lý, quan trọng nhất là hình tượng nhân vật quá khuôn sáo. Nghĩ tới quá trình Phế Nhân tìm gặp thầy Dị Mẫn Chi với tấm lòng chân thành, Trương Duy thở dài một tiếng rồi đặt bản thảo của anh ta lên đầu giường.
Chiều hôm sau, có giờ Văn học cổ điển nhưng Trương Duy bỏ học. Anh đi loanh quanh trong vườn trường, rồi không hiểu sao bước chân lại đưa anh tới dưới cầu thang nhà thầy Dị Mẫn Chi. Anh do dự một lát rồi quay về. Anh không muốn gặp ông nữa. Nhưng vừa quay gót chừng được một trăm mét, đột nhiên anh dừng lại và ngoái đầu nhìn về phía căn phòng của ông. Anh nghĩ, thầy Dị Mẫn Chi chắc chắn không có nhà. Như vậy cũng tốt. Anh tới gõ cửa một cái rồi trở về, bởi những lần trước anh đã không làm như vậy. Khi lên cầu thang, anh nghĩ, tốt nhất là thầy Dị Mẫn Chi không nên có nhà, mình sẽ gõ cửa một lần, sau đó không bao giờ đến nơi này nữa.
Khi lên tới nơi, anh phát hiện ra mọi thứ vẫn như hôm qua. Anh đang định đưa tay lên gõ thì thấy cánh cửa chỉ khép hờ, vì sao cửa lại mở nhỉ? Nên vào hay không đây? Anh do dự một lát và cuối cùng thì vẫn gõ. Bên trong có tiếng nói: “Vào đi”. Anh bước vào với vẻ bất an rồi đưa tay đóng cửa lại. Trên sô pha của phòng khách là một ông già hơn năm mươi tuổi đang nằm, râu dài, cặp mắt rất to, mái tóc dài phủ lên thành ghế. Ông chỉ liếc nhìn anh một cái rồi lại nhìn xuống cuốn sách trên tay. Tất cả những điều Trương Duy nghĩ hôm qua đều bay đi đâu mất sạch, anh chào khẽ: “Chào thầy Dị Mẫn Chi ạ!”.
Ông “ừm” một tiếng nhưng vẫn không đứng dậy mà chỉ tiện mồm nói: “Cứ ngồi tự nhiên nhé, nhà tôi rất bừa bộn. Nhưng không sao, người đọc sách mà lại. Nếu cậu muốn đọc sách thì cứ tìm lấy một cuốn!”.
Trương Duy nhìn thấy trong tay thầy Dị Mẫn Chi là cuốn Ỷ Thiên Đồ Long ký, nghĩ bụng sao ông lại có thể xem loại sách này. Trương Duy coi thường nhất là các tiểu thuyết kiếm hiệp, anh cho rằng đó là những tác phẩm rất tầm thường, chỉ để công nhân hay những người buôn bán dọc đường hay cánh lái xe đọc trong lúc giải lao, chờ đợi hoặc là không có khách. Tóm lại, đó không phải loại sách mà các triết gia nên dành thời gian để xem. Nhà thầy Dị Mẫn Chi quả thật rất bừa bộn, đâu đâu cũng thấy sách, ngay trên sàn nhà cũng có những cuốn sách đang mở, bên cạnh là mấy vỏ chai bia và một cốc rượu trắng. Trên bậu cửa sổ là những khóm hoa không được cắt tỉa trông rất xum xuê. Trong phòng đặt một chiếc trường kỷ, một chiếc ti vi đen trắng phủ đầy bụi, nhìn sơ qua cũng biết là chủ nhân của nó rất ít khi xem. Tấm phủ sô pha cũng rất bẩn. Tất cả những thứ này đúng như cuộc sống của một triết gia trong hình dung của anh.
Trương Duy tìm một chỗ và ngồi xuống, anh cảm thấy hơi căng thẳng, thầy Dị Mẫn Chi vừa đọc sách vừa nói: “Cậu chính là Trương Duy mà thầy Lý Khoan nhắc đến phải không?”. Trương Duy đáp: “Vâng thưa thầy, em là Trương Duy”. Thầy Dị Mẫn Chi không nói gì nữa mà tiếp tục đọc sách. Trương Duy nhìn những cuốn sách bày trên sàn nhà, rồi cầm cuốn Phê bình triết học Trung Quốc của ông lên đọc.
Thầy Dị Mẫn Chi dường như quên mất sự có mặt của Trương Duy. Anh đọc cuốn sách một lát rồi lại kiên nhẫn chờ đợi, anh có rất nhiều điều muốn hỏi vị triết gia này. Khoảng nửa tiếng sau, thầy Dị nói với anh, nếu muốn uống nước thì cứ tự đi rót. Anh không rót nước cho mình nhưng rót thêm đầy vào chén cho thầy Dị, ông vẫn không thèm để ý. Trương Duy lại tìm một cuốn sách khác, nhưng anh chẳng có tâm trạng nào để đọc nó. Nửa tiếng đồng hồ nữa lại trôi qua, thầy Dị vẫn không để ý gì đến anh. Anh không vui và cảm thấy rất hối hận vì đã tới nơi này. Vì sao anh nhất định phải gặp ông ta? Nếu biết ông ta cao ngạo thế này, anh sẽ không dùng cách này để đến gặp, mà sẽ tìm một nơi thích hợp hơn để đọ với ông ta, để ông ta phải nể anh, sau đó thì họ mới gặp mặt nhau, và chắc chắn khi ấy ông ta sẽ không đối xử với anh một cách vô lý như thế này. Còn bây giờ, rõ ràng là anh đang ở vị trí của một người thấp kém hơn, càng nghĩ lại càng tức giận. Mặc dù vậy, anh vẫn thử tìm cách nói chuyện: “Thưa thầy, thầy Lý Khoan bảo em đến gặp thầy”.
“Tôi biết.” Thầy Dị Mẫn Chi đặt sách xuống, nói. “Ông ấy bảo tôi làm bạn với anh.”
“Không dám ạ. Em đâu dám làm bạn với thầy”, Trương Duy nói.
“Vậy thì cậu hãy về đi!”, thầy Dị Mẫn Chi đáp.
Vừa nghe thế, Trương Duy cảm thấy thầy Dị Mẫn Chi thực sự là người rất mất lịch sự, anh liền đứng dậy và nói: “Thưa thầy, em đến thăm thầy với lòng chân thành như vậy, nhưng không ngờ thầy lại quá say mê với những loại sách tầm thường mà không thèm để ý đến sự tồn tại của em. Em về đây”.
Thầy Dị Mẫn Chi vừa nghe thế, liền tỏ vẻ không vui, ông đáp: “Vậy thì cậu về đi!”.
“Thầy làm em quá thất vọng!” Đôi môi Trương Duy run lên.
“Tôi vốn như vậy, nên chẳng cần để ý đến chuyện cậu thất vọng hay không.” Thầy Dị Mẫn Chi đáp với vẻ bất cần, mắt vẫn không rời cuốn sách.
“Em sẽ không bao giờ đến đây nữa!” Hai mắt Trương Duy lóe lên những ánh sắc nhọn và giận dữ.
“Không sao. Khi ra về đề nghị đóng lại cửa giúp tôi.” Thầy Dị Mẫn Chi trả lời với vẻ lười biếng.
Trương Duy trở về ký túc xá, cảm thấy trong lòng rất ấm ức. Từ xưa tới nay chưa có ai đối xử với anh như thế bao giờ, càng nghĩ anh càng thấy tức giận. Cuối cùng anh lên giảng đường ngồi viết thư cho thầy Dị Mẫn Chi. Bằng giọng giận dữ, anh viết về nỗi thất vọng trước sự khác biệt giữa một Dị Mẫn Chi mà anh biết lúc đầu qua những trang sách và lời kể của người khác với một Dị Mẫn Chi mà anh biết bây giờ. Anh còn viết cả chuyện thầy Dị Mẫn Chi say sưa với những cuốn sách tầm thường rẻ tiền, không còn viết ra được những tác phẩm hay. Cuối thư anh viết, anh đã thất vọng hoàn toàn với giới tư tưởng của Trung Quốc và anh coi thường thầy Dị Mẫn Chi bây giờ. Anh hy vọng sẽ không bao giờ phải gặp lại thầy của ngày hôm nay nữa.
Thầy Dị Mẫn Chi đọc lá thư này trong phòng làm việc, và sau đó ông đi gặp thầy Lý Khoan. Thầy Lý Khoan nói một số điều về tính cách của Trương Duy cho ông biết, ông cũng kể lại ấn tượng lần đầu gặp Trương Duy và nội dung chính của lá thư cho thầy Lý Khoan nghe. Thầy Lý Khoan hơi lo lắng, ông cho rằng Trương Duy là người có tố chất tâm lý quá nhạy cảm. Nghe xong, thầy Dị Mẫn Chi cười đáp: “Anh cứ yên tâm. Cậu ấy sẽ đến tìm tôi thôi”. Thầy Lý Khoan bảo, chưa chắc. Thầy Dị Mẫn Chi tiếp lời: “Cậu sinh viên này quá cứng nhắc, mà cứng quá thì dễ gãy, bây giờ tôi đang muốn luyện cho cậu ấy chất thép”. Thầy Lý Khoan nghe mà không hiểu rốt cuộc thầy Dị Mẫn Chi có ý định gì.