Leo – Tháng Hai năm 2011
Ngày thứ Sáu tràn đầy đợi mong. Khi tới cảng Circular gặp Molly, tôi cảm giác như mình đã chờ đợi giây phút này quá lâu rồi, dù thực ra còn chưa đến 24 giờ.
Tôi chọn một chỗ tại quầy bar, nơi tôi có thể nhìn thẳng ra cửa, gọi chút nước trong khi âm thầm quan sát xung quanh. Đúng như tôi đã dự đoán, đây lại là một địa điểm xa hoa quá mức. Nhưng nơi này được chia thành các gian ấm cúng, nến thơm lung linh trên bàn và âm nhạc chan hòa khắp nơi; đây chính là nơi dành cho những bữa tối thân mật. Với thông điệp ngầm không thể sai lệch mà Molly gửi đến thông qua địa điểm, tôi hoàn toàn có thể bỏ quá cho cái bản chất phô trương của nơi đây.
Cô bước vào ngay lúc tôi ngước lên nhìn cửa, đảo mắt khắp căn phòng, tìm kiếm tôi. Tối nay cô diện một chiếc váy hồng phấn với đường nhún tinh tế phần trước ngực. Đuôi váy chạm tới đầu gối, phần cổ cao, tay váy lỡ. Bộ trang phục ấy chẳng có vẻ gì quyến rũ, nhưng cũng không cần thiết – giờ cô có khoác bao tải lên người hay mang ủng cao su bước qua cánh cửa kia thì tôi vẫn sẽ bị hớp hồn mà thôi.
“Cô Torrington, rất vui được gặp cô.” Cũng giống như tôi, người phục vụ tiến lại gần cô, sau khi đưa mắt liếc tôi, cô ta quay lại nói với Molly. “Bàn của cô đã sẵn sàng rồi.”
“Xin chào Molly.” Tôi khẽ lên tiếng.
“Chào Leo.” Cô mỉm cười đáp lại, có phần ngượng ngùng, chúng tôi theo người phục vụ đi tới bàn. Molly ngồi xuống, tôi ngồi, đối diện cô. Tôi muốn giữ cho đầu óc tỉnh táo.
Sau màn tán tỉnh đêm hôm trước, tôi nhận ra Molly đã hiên ngang đương đầu với tất cả thách thức từ phía tôi. Tôi vẫn luôn tự tin mình biết cách nói chuyện với phụ nữ nhờ rất nhiều cơ hội nâng cao kĩ năng hẹn hò của mình lên tầm nghệ thuật trong suốt những năm qua. Nhưng có lẽ Molly Torrington là một đối thủ ngang tài ngang sức nhất. Thử thách cô mang đến tràn đầy vẻ mê hoặc.
“Cả tuần nay anh cứ luôn nghĩ về em.” Tôi lên tiếng ngay sau khi cả hai đã ngồi xuống. “Và hẳn là em cũng luôn nghĩ về anh.”
Cô nhìn tôi chằm chằm, không chút nao núng. “Ồ, em nghĩ về anh sao?” Cô cười khẽ.
“Có đấy. Nếu không em đã chẳng diện bộ váy đó.”
“Tại sao? Váy của em làm sao cơ?” Cô liếc xuống nhìn, cau mày với tôi.
“Đẹp lắm. Đẹp giống như em vậy.”
“Ý anh là sao đây?”
“Anh cá là lúc ướm bộ váy đó em đã nghĩ tới vẻ mặt của anh khi thấy em bước vào.”
“Anh tự mãn quá rồi đó Leo Stephens.” Cô nhướn mày. “Thật ra em không hề nghĩ vậy.” Cô nói đầy tự tin. Tôi nhìn cô nghi hoặc, cô liền dựa người về phía trước, khẽ cất tiếng. “Lúc khoác bộ váy này, em đã nghĩ đến vẻ mặt lúc em cho phép anh cởi nó cơ.”
Hình ảnh cô vừa vẽ ra quá sống động khiến thần trí tôi hoàn toàn ngưng trệ. Trong khoảnh khắc, tôi ngây người nhìn thẳng vào cô, sau đó liền hắng giọng, xoay người trên ghế, có chút mất phong độ. “Giờ ai mới là người tự mãn đây?”
Molly nhún vai, thản nhiên cầm danh sách rượu lên cứ như thể vừa rồi chúng tôi chỉ đang thảo luận về thời tiết.
“Em muốn nhắc nhở rằng chính anh là người khởi xướng câu chuyện đó. Trắng hay đỏ?”
Tôi vẫn đang cố khôi phục não bộ. “Cứ để quý cô chọn. Ngày hôm nay của em thế nào?”
“Tốt. Rất năng suất. Còn anh?”
“Yên bình.” Tôi đáp. “Anh đã thuyết phục được bác sĩ vật lý trị liệu cho phép anh quay trở lại làm việc vào thứ Hai này, dù anh vẫn chưa đủ điều kiện quay về Libya, nhưng ít ra anh cũng có thể bắt đầu viết câu chuyện còn đang dang dở rồi.”
“Chúc mừng.” Cô nói, đặt tờ thực đơn xuống. “Em sẽ gọi rượu vang, để chúc mừng thêm một lần nữa.”
Gọi đồ xong, tôi kể cho cô nghe về những bài báo ở Libya mà tôi sắp sửa viết, còn cô kể về vụ sáp nhập mà cô mới đàm phán thành công.
Đêm ấy, tôi hoàn toàn mê đắm trước Molly, đến cả việc người tiếp quản trong chuyện làm ăn kinh doanh cũng khiến tôi hứng khởi. Tôi cố hiểu cái cảm giác phải gồng mình trước một công việc đầy áp lực và đòi hỏi cao như của cô, hay phải đeo đuổi thành công mà chính cô không muốn hoặc cần đến.
Với tôi công việc là tất cả, là lẽ sống của cuộc đời. Molly cũng phải nỗ lực làm việc như tôi – thậm chí là hơn – nhưng đến cuối cùng, từng giây từng phút cô cống hiến trong cái vai trò ấy lại đều là vì Laith. Chính tôi cũng ngạc nhiên khi điều ấy khiến tôi khó chịu tới vậy. Tôi biết chuyện chẳng liên quan gì tới mình, tôi cũng quá quen với việc dập tắt bất kì thôi thúc muốn giúp người khác giải quyết vấn đề, đó là một kĩ năng cần thiết trong công việc của tôi. Nhưng người ấy là Molly, dù chúng tôi chỉ mới quen nhau, tôi chắc chắn cô xứng đáng nhận được nhiều hơn thế.
“Đồ ăn của chúng ta đâu nhỉ?” Molly đột ngột cất tiếng hỏi. “Cứ mỗi lần nói chuyện với anh là em lại quên luôn cả khái niệm thời gian.” Cô nói nhỏ rồi nhìn quanh. Một cô phục vụ tất tả chạy tới. “Chúng tôi gọi món gần một tiếng trước rồi...”
“Rất xin lỗi cô Torrington.” Cô ta lên tiếng. “Trong bếp có chút vấn đề về nhân sự. Bữa tối của cô sẽ sớm được mang ra thôi, chắc khoảng 10 hoặc 15 phút nữa. Tôi sẽ chuẩn bị thêm một chai rượu thay lời xin lỗi.”
Khi cô nhân viên đã rời đi, Molly liếc nhìn tôi, nói. “Vì tới đây khá thường xuyên nên em chắc chắn chai rượu miễn phí kia không phải vì nhận ra em là ai hay sợ thế lực nhà Torrington sẽ giáng tội xuống đầu mà do cô ta chậm trễ.”
“Chẳng phải tới quá thường xuyên sẽ làm mất đi nét hấp dẫn của nơi này sao?” Tôi giơ tay lên, vẫy vẫy trong không trung. “Chắc chắn lui tới thường xuyên sẽ khiến em thấy nhàm chán.”
“Cũng giống như một thành viên gia đình anh yêu mến, hay một món đồ nội thất anh yêu quý thôi. Dù thấy mỗi ngày thì anh vẫn cứ thích, không phải sao?”
Tôi nhìn cô thất thần. Nếu một giây nào đó tôi lỡ quên đi khoảng cách quá lớn giữa hai thế giới mà chúng tôi thuộc về, chắc hẳn là lúc này đây.
“Em chỉ coi nhà hàng nằm trong danh sách Michelin như một ‘món đồ nội thất yêu thích’ thôi sao?”
“Căn hộ của em chỉ cách đây có 62 bước chân. Đồ ăn thì ngon tuyệt trần. Tội gì mà không tới thường xuyên chứ?”
“Bởi em nhắm trúng một nhà hàng xa hoa bậc nhất và biến nó thành thói quen hàng ngày.”
“Hay do em được sinh ra quá may mắn nên những thứ xa hoa lại chính là thói quen hàng ngày?”
Tôi im bặt, nhăn mặt cân nhắc từng lời cô nói. “Căn hộ của em chỉ cách đây 62 bước chân. Em... đừng nói em sống trong ‘cái máy nướng bánh’ nhé.”
“Thật ra tên của nó là “Chung cư Bennelong” Leo à.” Molly cười phá lên trước biệt danh tôi dùng để gọi một trong những địa chỉ xa hoa bậc nhất Sydney. Tòa nhà đó thực sự trông giống một chiếc máy nướng bánh khổng lồ, tùy tiện mọc lên giữa hàng loạt những địa điểm nổi tiếng của thành phố. “Nghe giọng điệu khinh thị đó, em đoán anh chẳng ưa gì chỗ ấy.”
“Anh thấy ngứa mắt.” Tôi chau mày. “Anh nhớ ngày xưa có thể nhìn ngắm toàn cảnh từ cảng Circular cho tới tận Botanic Gardens. Tòa nhà đó đã hoàn toàn thay đổi cửa ngõ của thành phố rồi.”
“Anh giống hệt một ông già khi nói những điều này.” Molly nhận xét, rồi tủm tỉm cười với tôi. “Nhiều người không thích tòa nhà đó hồi những năm 90, khi nó mới được xây, nhưng dạo này em mới thấy anh là người đầu tiên ghét ra mặt vậy đó. Cũng đã lâu rồi nên không mấy ai còn để tâm nữa. Và, đúng thế, em sống ở chung cư Bennelong. Nơi đó rất tuyệt.”
“Những nơi như thế có chút gì gọi là hàng xóm không? Đấy là điều anh thích nhất ở Redfern.” Tôi đột nhiên nói. Vẻ mặt của Molly có chút nhăn nhó, tôi đã chạm đến tự ái của cô rồi. Chính lúc ấy cô phục vụ xuất hiện, mang chai rượu lên với đầy vẻ tự tin. Tôi nhướn mày nhìn Molly khi cô ta đã rời đi. “Anh đoán em định nhận xét mấy lời hợm hĩnh để phản bác Redfern?”
“Em chỉ... em...” Tôi có phần hứng thú với dáng vẻ ấp úng không nên lời của cô, nhưng rất nhanh sau đó, cô nhìn thẳng vào tôi, lên tiếng cùng một cái nhún vai thản nhiên. “Em không có ý gì hợm hĩnh đâu, nhưng khu đó chẳng có chút danh tiếng nào phải không?”
Tôi ngả người ra phía sau, ngầm quan sát cô. “Anh lớn lên ở Redfern, học tiểu học rồi trung học tại đó, rất lâu trước khi những trào lưu mới xuất hiện.”
“Tối qua anh cũng nói như vậy, nhưng em không chắc lắm về cái trào lưu đó đâu.” Cô đáp. Tôi chỉ còn biết thở dài, cô liền vội vã lầm bầm. “Xin lỗi.”
“Lần tới gặp nhau,” tôi đột ngột lên tiếng. “Hãy gặp ở khu anh sống.”
“Ở đó anh không cảm thấy bất an ư?”
“Bất an?” Tôi hồ nghi lặp lại.
“Ý em là, nơi đó có rất nhiều...”
“Những người nghèo dơ dáy? Hay ý em là những người da đen dơ dáy?” Tôi đã chính thức xù lông rồi, lời lẽ của tôi có phần giễu cợt nhiều hơn là bông đùa.
“Không, tất nhiên không rồi, chỉ là...”
“Molly.” Tôi cắt ngang, tôi không chịu nổi lời phủ nhận khó chịu của cô thêm một giây nào nữa, “em cũng biết gần nửa sự nghiệp của anh đều tác nghiệp tại vùng chiến tranh chứ? Em hỏi anh có thấy bất an khi sống ở vùng ngoại ô nhỏ của Sydney không ư? Redfern là khu dân cư tuyệt vời. Ở đó có di sản văn hóa và vật thể phong phú. Hàng xóm của anh là bà lão ngoài 80, người vẫn luôn sống ở căn nhà đó từ khi sinh ra. Ở phòng tập của anh, tối nào mọi người cũng tụ tập phân phát đồ ăn cho tụi nhỏ để đảm bảo chúng có đủ dinh dưỡng sau buổi tập luyện. Đúng là ở đó có đầy rẫy những vấn đề, và đúng là còn rất nhiều gia đình nghèo khó, nhưng bản thân họ không phải là vấn đề, chưa từng.”
Cái vẻ tập trung cao độ của Molly vào màn ca thán của tôi mới hấp dẫn làm sao, cuối cùng sau khi tôi đã ngừng lại, cô nghiêng đầu, nhỏ nhẹ lên tiếng. “Anh nên làm chính trị.”
“Anh không chịu nổi mấy cái màn vận động tranh cử quá 10 giây.”
“Phải đấy. Thái độ khiêu chiến và quan điểm cổ hủ của anh về ‘cái máy nướng bánh’ có thể đắc tội với nhiều người quyền cao chức trọng lắm.” Cô cười.
Tôi nhìn quanh. Cô phục vụ đang nhìn về phía chúng tôi, với đôi tay trống không và biểu cảm lo lắng hiện rõ. Cô ta liên tục đánh mắt nhìn, nơm nớp lo sợ Molly có thể nổi cơn tam bành bất cứ lúc nào. Tôi tò mò muốn biết do Molly là một thực khách khó tính, hay gia thế của cô mới là thứ khiến người phục vụ kia phải khiếp sợ.
Tôi quay trở lại nhìn Molly, phát hiện ra cô cũng đang nhìn tôi. Đôi mắt chúng tôi khóa chặt lấy nhau, khoảnh khắc như kéo dài thêm, bùng lên mạnh mẽ; không ai trong chúng tôi có thể quay đi. Thế giới xung quanh như đã ngừng quay, chỉ đến khi có một vị khách đi ngang qua, nó mới trở lại với quỹ đạo ban đầu.
Chúng tôi vẫn chưa dùng món khai vị, nhưng tôi đã muốn được chạm vào cô rồi, nắm lấy đôi bàn tay cô, vuốt ve khuôn mặt, mái tóc ấy. Cô đưa tay vuốt lại phần tóc mái. Dù đã quen với cử chỉ này, tôi vẫn chưa biết làm sao để giải thích hết ý nghĩa của nó.
“Vậy, anh lớn lên ở Redfern sao?” Cô đột ngột lên tiếng. “Mẹ anh vẫn sống ở đó chứ?”
“Giờ bà ấy sống ở Alexandria, cùng với dượng, dù anh không thực sự gọi ông ấy là ‘dượng’.” Tôi đáp. “Ông chỉ là bố mà thôi, ông xứng đáng với danh xưng ấy.”
“Tốt quá.”
“Ông ấy là một người đàn ông phi thường.”
“Anh có anh em gì không?”
“Có một người, em gái anh Teresa; giờ đang sinh sống ở Cronulla cùng chồng. Nó cứ liên tục khoe mẽ giờ mình mới là con cưng trong nhà, bởi cuối cùng, con bé cũng sinh cho cả nhà một đứa cháu ngoại. Giờ chắc đúng là vậy.”
“Anh là anh cả sao?”
“Phải, Teresa nhỏ hơn anh vài tuổi; nó mới có hai mươi chín. Con bé là nhân viên thẩm mĩ, còn chồng làm thiết kế đồ họa.”
“Nhỏ hơn vài tuổi.” Molly lặp lại rồi bật cười. “Cô ấy bằng tuổi em. Anh bao nhiêu tuổi?”
“Anh ba mươi tám.” Tôi thừa nhận.
“Chúa ơi, anh già khú đế.” Cô vờ hoảng hốt. Tôi ngại ngần cười. “Thật đấy, ba mươi tám tuổi mà vẫn chưa giải nghệ. Thật đáng kinh ngạc. Liệu đây có phải kỉ lục thế giới không nhỉ?” Cô vui vẻ nói. Tôi thả người vào ghế, nhìn chằm chằm ly rượu, cố gắng xử lý thông tin. Dù khoảng cách tuổi tác không quá lớn, nhưng trong số những người phụ nữ tôi từng qua lại, không ai kém tôi nhiều tuổi tới vậy.
“Mà, đâu ai quan tâm anh có phải công dân cao niên hay không nhỉ?”
“Rất xin lỗi vì đã khiến các vị đợi lâu.” Cô phục vụ đã quay trở lại, lần này mang món chính của chúng tôi. Đôi mắt cô rơm rớm, đôi tay khẽ run run khi đặt đĩa thức ăn của Molly xuống trước tiên. Molly định mở miệng, tôi lập tức hiểu ra cô sắp sửa quở trách người phục vụ vì chúng tôi còn chưa thưởng thức món khai vị. Tôi ngả người về phía trước, dùng tay vỗ nhẹ cổ tay cô. Cô ném cho tôi một ánh nhìn khó hiểu, nhưng cũng chỉ lầm bầm một tiếng cảm ơn lúc người phục vụ rời đi.
“Cô ấy đang có một đêm khá tồi tệ rồi.” Tôi thì thầm ngay khi người phục vụ quay đi. “Tha cho cô ấy đi, người ta sắp khóc rồi kia kìa.”
Molly ngoái lại nhìn cô phục vụ, người đã lập tức di chuyển tới một bàn khác ở tít đằng xa, nơi các vị thực khách gắt gỏng đang ồn ào bày tỏ thái độ không bằng lòng trước sự chậm trễ của đồ ăn.
“Em nên nhận ra điều đó mới phải.” Cô đáp, khuôn mặt đầy vẻ cau có. “Em không có ý khó tính với những người xung quanh. Người ta vẫn nói cái gì mà quen quá hóa nhàm nhỉ?”
“Em sống một cuộc đời khá độc đáo đấy.” Tôi nói, lại mỉm cười nhìn cô. “Nhiều người không nghĩ Circular là một địa điểm thích hợp cho bữa ăn nhanh sau giờ làm, nhưng anh phải thừa nhận, dù phục vụ chậm nhưng đồ ở đây ngon tuyệt.”
Thực sự là vậy, đồ ăn đúng là hảo hạng, cả hai món chúng tôi dùng đều xứng tầm kiệt tác nấu nướng. Sau khi kết thúc bữa ăn, tôi đưa tay với bình đựng nước cùng lúc với Molly, và hai bàn tay bối rối chạm nhau. Tôi lập tức rụt tay lại, trong lòng có phần tội lỗi, cứ như thể cái chạm tay tình cờ đó là chủ ý của tôi. Tôi nhận ra Molly cũng thu tay về. Tôi quan sát khuôn mặt cô, mong tìm ra chút ngượng ngùng hoặc xấu hổ, nhưng chỉ thấy vẻ phấn khích, giống như những gì đang trỗi dậy trong tôi ngay lúc này. Dưới bóng đèn mờ ảo của nhà hàng, tôi nhận ra ánh mắt cô đã tối lại. Cô nhìn tôi chằm chằm với cơn thèm khát không che đậy.
Bàn tay cô đang đặt trên bàn, không còn ở gần bình đựng nước nữa mà đã lui về cạnh bộ dao dĩa. Giờ đến lượt tôi chậm rãi di chuyển tay về phía đối diện. Cô dõi theo từng chuyển động, tôi còn cảm nhận được cô đang nín thở. Bàn tay tôi nhích dần, nhích dần, rồi cẩn trọng cọ ngón trỏ vào tay cô, lướt nhẹ từ ngón tay cho tới mu bàn tay. Khi đã đến cổ tay, tôi co ngón tay lại, rời đi, hai bàn tay chỉ kịp chạm khẽ.
Tôi đã cho cô cơ hội để rụt bàn tay lại, nhưng tôi biết cô sẽ không làm thế. Điều tôi đang thực sự làm là kéo dài cái cảm giác căng thẳng và kì vọng ngọt ngào, sục sôi trong chúng tôi suốt buổi tối hôm nay. Đó chỉ là một hành động đơn giản, không đời nào tôi lại hiểu sai được. Ánh mắt chúng tôi một lần nữa giao nhau, giờ tất cả những gì còn lại chỉ là hai chúng tôi cùng giây phút này – giây phút đầu tiên của cảm giác thành thật mạnh mẽ, ngầm trỗi dậy trong hai con người.
Khát khao trong chúng tôi đều hiển hiện. Nó thật mãnh liệt và lạ lùng, là cảm giác đẹp đến nao lòng xuất phát từ cả hai. Cô nhích ngón tay hướng về phía tay tôi rồi úp lòng bàn tay xuống bàn. Tôi cũng lặp lại động tác đó, rồi hai bàn tay nắm lấy nhau, tay tôi ở trên tay cô ấy. Tôi khó nhọc nuốt nước miếng, bởi cái áp tay này thật tuyệt. Quá tuyệt.
Cô nhìn chằm chằm vào hai bàn tay, ngón tay đen sạm của tôi đan lấy ngón tay trắng trẻo của cô, rồi cô ngước lên nhìn tôi. “Anh đã từng vào bên trong khu chung cư Bennelong chưa?” Cô khẽ hỏi.
“Chưa, anh chưa từng.” Tôi đáp. Tôi nhìn cô sắc bén, rồi một suy nghĩ ập đến. “Đây là lý do em chọn nhà hàng này sao, vì nó gần nhà em?”
Ngón tay cô bóp nhẹ khóe miệng khẽ cong lên. Cô không hề để tâm đến chuyện đã bị tôi phát giác.
“Em thích chuẩn bị kĩ càng cho mọi khả năng có thể xảy ra.” Đó là tất cả những gì cô đáp lại, nhưng sự dữ dội trong đáy mắt khiến tôi không còn nghi ngờ gì rằng mình đã đúng. Tôi liếc nhìn đĩa thức ăn sạch bách của cô.
“Em muốn ăn tráng miệng chứ?” Tôi hỏi.
“Ồ, vâng.” Cô thầm nói. “Đi thôi.”