• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tình yêu tìm lại
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 49
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 49
  • Sau

Chương 2

Leo – năm 2011


Chào Leo,

Mong là bức thư này có thể đến được với anh. Tôi vẫn luôn theo dõi sự nghiệp của anh – chúc mừng anh đã thắng giải Pulitzer và tất cả những thành công anh đã đạt được nhé. Anh trai tôi chắc phải vô cùng tự hào về anh, anh ấy vẫn luôn nói với tôi rằng chắc chắn anh sẽ làm nên nghiệp lớn.

Chắc anh cũng biết mấy tháng trước là ngày giỗ thứ 10 của Dec. Lần tới đến Sydney, hy vọng anh có thể dành cho tôi chút thời gian rảnh để cùng trò chuyện về những ngày cuối đời của anh ấy. Tôi biết tôi đang đòi hỏi quá nhiều từ anh, nhưng nếu anh có thể cùng ngồi xuống nói chuyện, tôi nghĩ tôi sẽ hiểu rõ mọi chuyện và tìm ra lời giải đáp. Địa chỉ liên lạc của tôi ở bên dưới, nếu cần hãy điện cho tôi nhé.

Thân gửi,

Molly.

Tôi thấy thư của Molly nằm giữa một loạt những lá thư đầu tiên trong hộp thư lúc Libya, Ba tuần rồi tôi chưa kiểm tra hộp thư. Quá nhiều, tôi chẳng thèm quan tâm – thư của cô ấy là bức duy nhất trong số 200 bức có lẻ kia tôi mở ra đọc. Tôi đang ngồi trên cáng, tay trái quấn băng đeo cổ, một viên đạn cắm vào bả vai. May mắn thay đây chỉ là chấn thương nhỏ, hình như thế. Vậy nhưng vẫn đau đến dai dẳng và tôi bỗng rối bời khi lần đầu đọc thư của Molly trên màn hình điện thoại vệ tinh, nhưng đó không phải lý do tôi lập tức nhấn nút xóa thư.

“Vậy giờ,” Brad Norse, cộng sự phóng viên báo ảnh của tôi đang ngồi ở ghế bên cạnh. “Về nhà chứ?” “Nhà?” Tôi lặp lại rồi thở dài. “Brad...”

“Khi một người trong chúng ta bị bắn, chúng ta được về nhà nghỉ một thời gian. Đấy là một trong số những quyền lợi.”

“Làm ơn...” Tôi tắt điện thoại vệ tinh đi. “Thế này còn chẳng được tính là “bị bắn.” Viên đạn không trúng những chỗ nguy hiểm nhất.”

“Là nhờ tác dụng của morphin thôi.”

“Làm gì có morphin. Tôi nghĩ người ta cho tôi uống paracetamon thì phải.” Hoặc một thể loại giả dược nào đó bởi dù thứ tôi nuốt vào họng hai tiếng trước có là cái quái gì đi nữa, nó cũng chẳng khiến cơn đau nhức trên bả vai dễ chịu hơn chút nào. Thực ra tôi cũng rất muốn được về nhà. Bác sĩ ở mặt trận đã kiểm tra cho tôi bằng tất cả số dụng cụ mà anh ta có, nhưng tôi muốn đảm bảo răng cả đời mình sẽ không phải gắn với một vết thương nào – và tôi cần thứ gì đó có tác dụng mạnh hơn cho cơn đau này. Nhưng chúng tôi chỉ vừa mới đặt chân tới Libya được vài tuần và tôi không hài lòng với tiến độ nghiên cứu một chút nào. Và giờ, nếu quay trở lại Sydney tĩnh dưỡng, tôi sẽ phải đối mặt với Molly Torrington và loạt câu hỏi khó chịu liên quan tới cái chết của anh trai cô.

“Chúng ta về nhà thôi Leo.” Brad đột nhiên lên tiếng. Tôi lắc đầu, rồi lập tức cau mày bởi hành động vừa rồi vô tình kéo theo một cơn đau tê dại ở bả vai.

“Ở đây còn có việc phải làm.” Tôi nói sau khi đã lấy lại nhịp thở.

“Ở đây luôn luôn có việc cần phải làm. Dù ý cậu thế nào tôi vẫn sẽ đi. Có thể tinh thần của cậu được luyện từ gang, nhưng của tôi thì không – viên đạn đó đã có thể cướp đi sinh mạng của một trong hai chúng ta. Tôi cần thời gian để hồi phục.”

Cuối cùng tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Tôi đã dùng cụm “vết thương phần mềm” để miêu tả về tai nạn lần này với chủ biên, Kisani Hughes, nhưng sau đó khi Brad điện cho cô ấy, cậu ta lại vẽ ra một màn đánh giá hoàn toàn khác, và cô yêu cầu chúng tôi trở lại Sydney. Tôi lầm bầm, nhưng khi máy bay hạ cánh, tôi lên cơn sốt và có dấu hiệu nhiễm trùng. Tôi bực bội vì phải thừa nhận rằng cô đã đưa ra một quyết định đúng đắn.

Thế nhưng tôi không đồng tình với thời gian nghỉ bệnh mà bác sĩ cương quyết yêu cầu. Vài tuần nghỉ cưỡng chế quả là cơn ác mộng theo đúng tưởng tượng của tôi. Chỉ mới vài ngày mà tôi đã chán đến phát cáu. Tôi không thể tập thể dục, cũng chẳng thể dắt chó đi dạo hay lái xe máy. Tôi thậm chí còn không thể dạy lớp karate như mọi khi mỗi lần về Sydney giữa các nhiệm vụ. Tôi đọc nhiều sách và suy nghĩ cũng nhiều khủng khiếp, nhưng dù tôi cố gắng tập trung vào cuốn tiểu thuyết, hay vụng về làm bữa sáng với một tay lành lặn, tâm trí tôi đều ngay lập tức quay trở về với Molly Torrington.

Dù vẫn luôn có cảm tình với cô, nhưng tôi biết bất kỳ cuộc nói chuyện nào liên quan đến cái chết của người anh trai cũng chỉ khiến cả hai chúng tôi thêm đau khổ mà thôi. Dẫu sao tôi cũng chẳng thể đưa ra lời giải đáp mà cô đang tìm kiếm, không một câu trả lời nào liên quan tới Declan Torrington lại có thể dễ dàng cả.

Tôi cũng chưa từng hiểu rõ cô. Suốt nhiều năm trời, tôi chỉ lượn lờ ngoài phạm vi cuộc sống của gia đình họ, tệ nhất là trong vai một vị khách không mời. Lần cuối cùng tôi tận mắt thấy cô là ở đám tang của người anh trai, lúc cô nhìn chằm chằm vào phần mộ gần như không chớp mắt – đó là vẻ ngỡ ngàng trên khuôn mặt trong suốt buổi lễ. Những lần khác tôi gặp Molly đều là khi cô đang bật cười hoặc cười mỉm – như một đứa trẻ hân hoan, được ưu ái, luôn đối diện với mọi chuyện bằng một sự vui tươi, phóng khoáng. Declan luôn trêu chọc rằng tiếng cười giòn giã của cô vang tới phòng trước cả khi cô đến – thông báo sự xuất hiện của cô như sứ giả truyền tin.

Đám tang đó là lần đầu tiên tôi thấy cô ấy trong bộ dạng bi ai và nét sầu thảm trong đôi mắt ấy khiến tôi chợt nghĩ nỗi đau đột ngột và to lớn kia liệu có thay đổi con người cô: có khi nào cô sẽ chẳng bao giờ có lại nụ cười rạng rỡ, vô lo vô nghĩ lúc trước nữa? Sự sầu đau không dứt trong bức thư bất ngờ nhận được nhiều năm sau chứng minh rằng tôi đã đúng.

Vài lần tôi thấy cô ấy trên mặt báo – bao gồm cả lần lên bìa tạp chí kinh tế cách đây một hoặc hai năm, khi cô được bổ nhiệm làm phó tổng giám đốc gì đó ở Torrington Media. Tôi nhớ mình đã sững sờ khi thấy tờ tạp chí tại quầy báo ở sân bay Dubai – chắc chắn cô còn quá trẻ để thế chỗ bố mình? Nhẩm tính một chút, tôi giật mình nhận ra cô ấy mới ở độ tuổi cuối đôi mươi. Đối với tôi, việc này thật khó lý giải nổi, một Molly Torrington vui tươi lại có ngày điều hành cả một đế chế truyền thông toàn cầu, nhưng bài báo đã ngợi khen cô với tư cách người thừa kế hợp pháp của cha cô.

Molly đang làm những gì Declan không thể: trưởng thành dưới một cái bóng vĩ đại những kì vọng và gia sản của Laith Torrington. Nhưng nếu đánh giá theo bức ảnh bìa từ phòng chụp kia, cô nhóc vô tư mà tôi từng quen biết đã thực sự biến mất. Mái tóc caramel dài chấm thắt lưng của thời trẻ nay đã bị cắt ngắn, thay vào đó là một màu vàng cứng nhắc. Trên ảnh rõ ràng cô đang cười, nhưng nét cười lại như tắt lịm ở trên môi. Đôi mắt màu xanh nghiêm nghị, ánh nhìn sắc bén khi chạm tới máy ảnh, gần như muốn khiêu khích – muốn giỡn mặt với tôi sao? Nếu không tận mắt chứng kiến màn lột xác của cô trên phương tiện truyền thông, có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ nhận ra – cô nhóc ham vui ngày nào đã trở thành một phụ nữ trưởng thành nhạy bén như cá mập.

Tôi tự hỏi bao nhiêu phần trong sự thay đổi đó là do cái chết của người anh trai, rồi Declan sẽ nghĩ gì về tất cả mọi chuyện và sẽ muốn tôi làm gì. Tôi chưa từng thích thú với việc để mọi chuyện cứ thế chìm vào quên lãng – điều này đi ngược lại bản chất và nghiệp vụ của tôi – nhưng tôi đã kiên quyết sẽ không áp dụng mớ triết lý đó vào vấn đề riêng tư. Những khoảnh khắc được giấu kín thì chắc chắn nên để nó bị lãng quên theo dòng thời gian. Vậy nhưng tôi không thể thay Molly quyết định điều đó, và tôi đã khôi phục lá thư của cô từ mục thư rác. Trong khi bấm số di động của cô, tôi đã phớt lờ cảm giác lo lắng trong lòng. Đây nhất định không phải cú điện thoại dễ chịu gì, nhưng tôi khá chắc chắn rằng mình đang làm điều đúng đắn.

“Molly Torrington xin nghe.” Lời chào bất ngờ vang lên.

“Chào - Molly - Là tôi, Leo.” Thấy cô không có phản ứng gì, tôi từ tốn lặp lại, “Leo Stephens.”

“Tôi biết, xin lỗi... Tôi chỉ... Tôi không nghĩ là anh sẽ gọi,” cô nói. Liếc nhìn bức thư, tôi nhận ra đã hơn một tháng kể từ ngày cô gửi.

“Xin lỗi vì gọi cho em muộn như vậy,” tôi đáp. “Tôi đang nhận nhiệm vụ và bị thương.”

“Anh có sao không?”

“À ừ, tôi vẫn ổn. Không sao hết.”

“Vậy, ừm...” Cô dừng lại một cách lúng túng. “Lạy Chúa, Leo, dù sao thì tôi cũng rất tiếc phải nghe điều đó.”

Tôi gõ nhẹ ngón chân xuống thảm để xóa đi cảm giác bồn chồn lạ lùng mà mình đang trải qua. Câu chuyện phiếm này có vẻ thiếu tự nhiên quá rồi, sẽ chỉ kéo dài điều không thể tránh khỏi mà thôi. “Em muốn nói về chuyện của Declan?” Tôi hỏi.

“Vâng, tôi thực sự đã rất muốn - và vẫn luôn muốn. Chúng ta gặp nhau chứ?”

“Gặp nhau?” Đột ngột quá, nhưng ngay khi cô nói tới, tôi nhận ra không nên như vậy.

“Ờ, tôi...”

“Làm ơn,” cô khẽ nói. Tiếng ngón chân tôi nhịp nhàng gõ xuống sàn bỗng ngừng lại. “Sẽ không tốn nhiều thời gian của anh đâu, tôi hứa.”

“Được.”

“Lúc nào thì được?”

“Tôi đang nghỉ dưỡng bệnh. Chúng ta có thể gặp bất cứ khi nào em muốn.”

“Vậy bây giờ?”

“Bây giờ ư? Nhưng...”

“Hay lát nữa?”

“Không, bây giờ cũng được.” Tôi thở dài rồi cẩn trọng nói. “Tôi không biết liệu tôi có thể nói cho em điều em muốn hay không, Molly.”

“Nhưng không phải chính anh đã tìm thấy anh ấy sao?” Ngực tôi như thắt lại khi nhớ tới mảng kí ức đó. Trong tâm trí tôi vẫn hiện hữu hình ảnh cậu ta – Declan, nằm bất động trên tấm thảm cũ rích bẩn thỉu trong phòng chứa đồ dưới tầng hầm nhà người em họ tôi.

“Phải”

“Vậy...” cô ngập ngừng.

Tôi đợi cô nói nốt, nhưng khi biết chắc điều đó không xảy ra, tôi lên tiếng. “Được, em muốn gặp ở đâu?”

***

Tôi gặp Declan ngay những tuần đầu tiên của khóa học tại trường Đại học Sydney giữa những năm 90. Chúng tôi được ghép cặp trong một nhóm thực hành để làm một bài tập nhóm, mà nghĩ lại thì giống như trò đùa oái oăm của ông giáo sư hơn. Thằng nhóc sống trong căn hộ tập thể cùng bà mẹ thất nghiệp được ghép cặp với con trai của tỉ phú lớn lên trong ngôi biệt thự ở cảng Sydney.

Hồi đó tôi có phần thô kệch, tôi biết điều đó. Tôi vẫn nhớ cảm giác bị lấn át tới mức không dám lên tiếng khi ngồi cạnh Declan. Thật may, tôi sớm nhận ra mình không phải là người duy nhất cảm thấy bất lực; Declan trông rất tự tin, với trang phục trịch thượng và cách phát âm chuẩn xác. Bộ dạng đó không kéo dài lâu – chỉ trong vòng một buổi học, tôi thấy rõ cậu ta cần tôi để qua được bài tập này hơn là tôi cần cậu ta.

Giống như việc mà chỉ các cô cậu tuổi teen có thể làm, tôi và Dec nhanh chóng trở nên thân thiết, cùng phẫn nộ về sự bất công trong hoàn cảnh riêng của mỗi người. Là chàng trai thổ dân Úc giữa một biển người da trắng trong lớp, tôi như một kẻ ngoại lai, và tôi có mặt ở đây chỉ bởi bài kiểm tra đầu vào đặc biệt và khả năng viết luận đầy tính thuyết phục của mình. Nhưng dù cho có là một tên nhóc da trắng với quyền thế vượt trội, Declan cũng không thuộc về nhóm học sinh còn lại – hồi trung học cậu ta trượt bài kiểm tra cuối kỳ một cách thảm hại. Nếu không nhờ đến túi tiền của ông bố, Declan không bao giờ có thể lên nổi đại học chứ đừng nói giành được một suất mà bao người khao khát tại ngôi trường danh giá như Đại học Sydney.

Với tất cả những đặc ân đó, nhẽ ra tôi nên ghét cậu ta, và có những lúc tôi đã làm thế. Nhưng Declan có một tính cách đẹp có thể bù lại: cậu ta không chú ý tới tiền hay việc thiếu thốn tiền bạc, hay màu da, hay chủng tộc, hay bất kỳ cái bẫy nào khác, hay một loạt các tiêu chí mà người ta vẫn hay dùng để sàng lọc cuộc đời. Ngay từ đầu, tôi là một người bạn không hơn không kém, hình như cậu ta chưa từng thấy bất kỳ lý do gì mà tôi không thể trở thành một người bạn. Cuối cùng, tôi lưỡng lự mời cậu ta tới nhà, khi bước chân vào căn hộ bé tí, tối om nơi tôi sống cùng với mẹ, cậu ta nhìn quanh.

“Mẹ kiếp, Leo!” Cậu ta nói với vẻ bối rối và ngạc nhiên thực sự. “Cậu nghèo thế sao?”

“Ừ.”

“Tôi không nhận ra đấy,” cậu ta đáp, nhún đôi vai rồi mở tủ lạnh kiếm chút đồ ăn vặt.

Declan là người đặc biệt – một trong số những người tốt.

***

Khoảng một tiếng sau khi kết thúc cuộc gọi, tôi ngồi trong quán cà phê ở The Rocks chờ Molly tới. Từng cơn khiếp sợ mơ hồ vẫn vẹn nguyên trong lòng chẳng hề suy giảm. Không thể phủ nhận rằng sự ra đi của Declan là nỗi nhục của gia đình Torrington – việc che đậy ngay tức khắc với giới truyền thông đã minh chứng rõ điều này. Tôi tự hỏi mình có thể nói điều gì để Molly thoải mái đây.

“Xin lỗi, em tới muộn...”

Tôi không nhận ra Molly đi tới, thế mà giờ cô đang đứng ngay cạnh tôi, tôi lập tức đứng phắt dậy. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào nhau một hồi, rồi cô dang tay ra như muốn ôm tôi. Trước đây chúng tôi chưa từng đụng chạm, ngay cả ở đám tang. Bố cô đã chắc chắn tôi không thể lại gần đứa con nào của ông nữa.

Tôi nhận cái ôm của cô, nhấc cái tay quấn băng đeo ra xa rồi thận trọng đáp lại cái ôm với bên tay lành lặn. Molly đã cao hơn nhiều so với những gì tôi còn nhớ - cao gần bằng tôi – nhưng đúng như tôi tưởng tượng, cô toát lên vẻ tao nhã hơn, của một người phụ nữ với quyền lực vượt trội. Cô trang điểm rất kĩ – theo tôi thấy là quá kĩ – và xức nước hoa nồng nặc. Chúng tôi buông nhau ra, cô ngồi xuống chiếc ghế đối diện, ngại ngùng vân vê chiếc thắt lưng trên váy rồi vuốt nhẹ phần tóc ở phía trước. Mái tóc vàng bạch kim cắt ngắn – còn ngắn hơn cả tóc tôi. Điểm duyên dáng duy nhất trong ngoại hình của cô có lẽ là phần tóc mái dài, hơi quăn, rủ xuống chạm má.

“Thật không biết phải cảm ơn anh bao nhiêu cho đủ.” Cô nói.

“Giống như tôi đã nói – tôi chỉ mong em đừng kỳ vọng tôi có thể mang lại bất kỳ câu trả lời thực sự nào. Tôi chỉ có thể nói ra những gì tôi biết.”

“Chúng ta gọi đồ uống trước đã nhé?” Cô vẫy tay gọi bồi bàn, cái người suýt ngã khi vồn vã tới chào hỏi cô. Tôi đã quên mất cái cảm giác ở chốn công cộng cùng với người nhà Torrington rồi – đúng ra Molly và Declan không phải tên ở phổ biến – nhưng chúng lại quá quen thuộc với rất nhiều người bởi tên tuổi của ông bố. Hồi còn đại học, mỗi lần tôi và Dec rủ nhau đi uống, chúng tôi liên tục được tặng đồ uống miễn phí – một món hời đối với tôi bởi nếu không, tôi chẳng đủ tiền mua, nhưng Declan lại thấy thích thú, vì mãi đến tận những năm cấp 3, cậu ta mới được hưởng phần tài sản ủy thác gần như là không giới hạn.

Khi cả hai đều đã gọi cà phê, chúng tôi gần như mắc kẹt trong sự kìm nén, ai cũng chờ người kia mở lời. Sau khoảng thời gian dài đầy khó xử, tôi là người mở đầu cuộc hội thoại mà bản thân không hề muốn.

“Vậy, em muốn biết điều gì đây?”

“Em biết chuyện này kì cục,” cô thừa nhận. “Em đã rất nhiều lần nghĩ tới chuyện liên lạc với anh, thậm chí ngay sau khi chuyện đó xảy ra. Nhưng mọi chuyện thực sự quá hỗn độn, quá bàng hoàng. Và em cũng thấy xấu hổ với những gì bố đã làm với anh trong đám tang. Em không biết phải nói gì với anh, cũng không biết phải xin lỗi ra sao.”

“Em không làm gì phải xin lỗi. Đến giờ vẫn vậy.” Tôi nói. Cô thở dài. “Ừm, em thực sự xin lỗi. Lẽ ra ngày hôm đó anh xứng đáng có mặt cùng mọi người. Không ai hiểu rõ Declan bằng anh.” “Anh trai em là người vô cùng đặc biệt.” Tôi nhẹ nhàng đáp. Tôi vẫn thường nghĩ về Declan, nhưng đã không nhắc tới cậu ta từ rất lâu rồi. Cảm giác thật lạ lùng – có một chút không tự nhiên.

“Năm ngoái bố em lên cơn đau tim,” Molly đột nhiên lên tiếng khiến tôi cau mày.

“Tôi rất tiếc.” Tôi cũng ngạc nhiên là mình chưa từng nghe qua chuyện đó, bởi bố cô là một trong những tên tuổi lớn trong ngành.

“Phải. Tất nhiên chuyện đó không được công khai. Bố em không muốn các cổ đông phát hiện ra nên...” Molly thở dài mệt mỏi và đưa tay xoa xoa trán, rồi cô nhìn thẳng vào tôi. “Vấn đề là, ông lên cơn đau tim, còn Declan thì được cho rằng chết vì một bệnh tim chưa được chẩn đoán. Vậy nên chắc hẳn bố em đã kêu bác sĩ nghiên cứu bệnh tình của Declan để chắc chắn đó không phải là bệnh di truyền, phải không?”

Cô nhìn tôi, chờ đợi một lời đáp, vậy nên tôi mở miệng nhưng chẳng biết nói gì hơn. Molly có vẻ thỏa mãn một cách kì lạ trước vẻ ngỡ ngàng không che giấu của tôi. Cô khoanh tay trước ngực, chăm chú nhìn tôi rồi tiếp tục nói khẽ. “Mỗi khi em đề cập đến chuyện này hay nhắc tới tên Declan, bố đều quát tháo, còn mẹ thì nức nở. Có gì đó không đúng, và em xấu hổ khi phải thừa nhận nó, nhưng mãi cho đến khi cơn đau tim của bố xảy ra, em cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều khi vờ như không hay biết chuyện gì cả. Có phải Declan tự sát không Leo?”

Câu hỏi nặng nề được đưa ra không chút ngập ngừng, nhưng khi tôi liếc nhìn, tôi thấy cái cách cô gồng mình lên chờ đợi câu trả lời từ tôi.

“Không – Chúa ơi. Không hề! Cậu ấy không làm thế.” Cả thân hình căng cứng của Molly như được thả lỏng, nhưng chỉ đôi chút.

“Vậy ư? Rõ ràng cũng không phải một ca bệnh tim. Vậy em đang bỏ lỡ điều gì đây?”

“Cho...” Tôi thở hắt ra rồi nhìn chằm chằm xuống bàn. “Cho tôi chút thời gian, được chứ?” Trong giây lát tôi đã nghĩ sự xuất hiện của ly cà phê sẽ cứu mình, nhưng rồi tôi nhanh chóng phát hiện ra mình chỉ có thể nhìn chòng chọc ly cà phê trong khi nghĩ xem nên nói gì tiếp theo.

Tôi biết Laith và Danielle Torrington đã nói dối tất cả mọi người về cái chết của Declan – và tôi gần như hiểu lý do tại sao. Tôi cũng biết Molly không hề hay biết về bệnh tình của anh mình khi cậu ta còn sống. Cậu ấy yêu cầu tất cả chúng tôi giữ bí mật với cô, và tôi hiểu được điều đó: lo sợ cô em gái có thể xem nhẹ mình.

Tôi chưa từng nghĩ lời nói dối để bảo vệ cô lại kéo dài tới tận sau khi cậu ấy đã ra đi. Tôi khinh bỉ Laith Torrington và tất cả những gì thuộc về ông ta, nhưng chưa một giây một phút nào tôi hình dung ông ta lại có thể hạ thấp nhân phẩm của mình tới mức này.

“Leo?” Molly khẽ thúc giục tôi. Cô tỏ ra thận trọng bởi cho rằng tôi vẫn còn đau lòng trước sự ra đi của người bạn. Nhưng tôi không hề - không hẳn. Mười năm đã trôi qua, và hàng đống những chuyện kinh khủng khác đã tôi luyện con người tôi. Tôi do dự bởi tôi đang ở trong hoàn cảnh lẽ ra nên buồn, nhưng lại phát hiện bản thân rối như tơ vò. Dù không uống đường, nhưng để khiến bản thân bận rộn, tôi với tay lấy bát đựng đường, thả nửa thìa vào ly cà phê rồi chậm rãi khuấy đều trước khi ngước lên nhìn cô.

“Tôi... không biết phải nói gì với em cả, Molly.” Tôi thú nhận.

“Nhưng có phải anh biết điều mà em không biết? Anh biết anh ấy bị bệnh chứ?”

Tôi tiếp tục khuấy ly cà phê, chỉ để có nơi nhìn vào – nơi nào đó xa khỏi đôi mắt xanh khẩn thiết của cô. “Phải.” Tôi lầm bầm. Lần này, chỉ một tiếng đơn giản bao trọn toàn bộ sự thật. Phải, tôi biết cậu ta bị bệnh – cậu ta từng bị bệnh, bị kẹp trong móng vuốt của cơn nghiện tàn ác, kháng cự lại tất cả các phương pháp điều trị chúng tôi đề xuất. Tôi những tưởng cô sẽ hỏi chi tiết về tình trạng cơn nghiện của cậu ta, và điều đó đã đủ khó khăn rồi. Viễn cảnh đó mang theo sự rối ren vô cùng. Tôi hắng giọng.

“Em nên hỏi Laith và Danielle những câu hỏi này thì hơn, Molly.”

“Em không thể, thực sự thì em đã thử. Em đã dùng đủ mọi cách để ép họ nói rồi. Họ sẽ không – hoặc không thể - nói về chuyện đó. Họ không hề đề cập gì tới anh ấy cả.” Cảm ác lo lắng trong tôi giờ đã trở thành nỗi khiếp đảm. Tôi đẩy ly cà phê ra giữa bàn trước khi lùi ghế đứng dậy. “Nghe này, thực sự xin lỗi vì tôi không thể giúp gì được em, nhưng em nên thảo luận vấn đề này cùng với bố mẹ mình, không phải tôi.” Tôi rút ví ra từ trong túi. Sau một hồi lóng ngóng với cái băng đeo tay, tôi đặt tờ tiền xuống bàn, đủ để trả cho cả hai, rồi mới dám liếc nhìn Molly lần cuối. Đôi mắt cô nheo lại cùng đôi môi mím chặt – Molly Torrington đang giận. Đây không phải lần đầu tiên tôi đẩy người nhà Torrington vào trạng thái này, nhưng tôi vẫn cảm thấy một thoáng ăn năn.

Molly cũng đứng lên rồi nhìn thẳng vào tôi. “Leo,” cô bình tĩnh lên tiếng, nhưng trong đó ẩn chứa sự cương quyết. “Em xứng đáng được biết, và ngoài anh ra thì sẽ không ai nói với em điều gì cả.”

Tôi chợt nhớ tới lần cuối cùng to tiếng với Laith ở bệnh viện. Tôi vẫn nhớ thân thể lạnh ngắt của Declan nằm phía sau ông, còn Danielle ôm lấy thi hài cậu con trai gào khóc. Tôi vẫn nhớ cảm giác hơi thở của Laith hắt trên mặt tôi, nước bọt văng lên da tôi khi ông không thể kiểm soát cảm xúc của chính mình. Và tôi nhớ cuộc chiến với chính bản thân mình để kiềm chế thôi thúc đánh nhau với ông ta – tôi đã có thể hạ ông ta. Chỉ với một cú đấm hay một cái đá đúng chỗ, tôi đã có thể khiến ông ta ngậm chặt những lời nói tàn độc như đang cứa vào nỗi đau đớn, thống khổ của tôi.

“Mày là đồ cặn bã! Chính mày đã hại chết nó. Nó sẽ chẳng bao giờ biết chỗ mua cái thứ chết tiệt này ở đâu nếu không phải tại cái gia đình thổ dân nhà mày!”

Nhưng đấy không phải vấn đề của tôi. Tôi chẳng có quyền gì để nói cho cô biết. Dù cho cô biết thì chuyện đó cũng không giúp gì cho bản thân cô. Tôi định cứ thế bỏ đi, để cô đứng một mình lại đó. Và rồi tôi nhìn Molly, thấy vẻ thất vọng ngập tràn trong mắt cô. Tôi thở dài. “Đây không phải cuộc trò chuyện cho một buổi cà phê.”

Molly cau mày, nhưng chỉ thoáng qua rất nhanh – cô ngay lập tức vẫy tay gọi bồi bàn.

“Giúp chúng tôi cho ly cà phê này vào cốc đem đi được chứ?”