T
rong sáng nay, ông Prendergast đã gọi điện đến mấy lần, thưa chủ tịch,” cô Potts nói khi cô ta bước theo sau Sir Hugo vào trong phòng làm việc của ông ta, “và vào lần cuối cùng, ông ấy nhấn mạnh là rất khẩn cấp.” Nếu cô thư ký lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông chủ tịch không cạo râu và mặc một bộ đồ vải tuýt nhàu nhĩ như thể ông ta đã mặc nguyên nó mà đi ngủ, cô này cũng không nói gì.
Ý nghĩ đầu tiên của Hugo khi biết Prendergast muốn nói chuyện gấp với ông ta là vụ mua bán ở phố Broad hẳn đã đổ vỡ và ngân hàng trông đợi ông ta trả lại khoản ứng trước 800 bảng. Prendergast có thể nên nghĩ lại.
“Và Tancock,” cô Potts nói, kiểm tra lại tập giấy ghi chú của mình, “nói rằng ông ta có một tin ông sẽ muốn nghe.” Ông chủ tịch không bình phẩm gì. “Nhưng điều quan trọng nhất,” cô thư ký nói tiếp, “là lá thư tôi để lại trên bàn làm việc của ngài. Tôi có cảm giác ngài sẽ muốn đọc nó ngay lập tức.”
Hugo bắt đầu đọc lá thư thậm chí từ trước khi ông ta kịp ngồi xuống. Ông ta đọc lại một lần thứ hai, nhưng vẫn chưa thể tin nổi. Hugo ngước lên nhìn cô thư ký.
“Xin chúc mừng ngài, thưa chủ tịch.”
“Hãy gọi ngay cho Prendergast,” Hugo gắt lên, “và sau đó tôi muốn gặp giám đốc điều hành, tiếp theo đến lượt Tancock.”
“Vâng, thưa chủ tịch.”cô Potts nói và hối hả ra khỏi phòng. Trong khi Hugo đợi Prendergast nhấc máy, ông ta đọc lá thư của Bộ trưởng Hàng hải thêm lần thứ ba.
Sir Hugo thân mến,
Tôi vui mừng được thông báo với ngài rằng Công ty Hàng hải Barrington đã được trao cho hợp đồng để…
Điện thoại trên bàn làm việc của Hugo reo vang. “Ông Prendergast đang nghe máy,” cô Potts thông báo.
“Chúc ngài một ngày tốt lành, Sir Hugo.” Vẻ vì nể đã trở lại trong giọng nói. “Tôi nghĩ ngài muốn biết cuối cùng bà Clifton cũng đã đồng ý bán miếng đất của bà ta trên phố Broad với giá một nghìn bảng.”
“Nhưng tôi đã ký một hợp đồng bán phần bất động sản còn lại của tôi trên khu phố đó cho United Dominion với giá bốn nghìn rồi.”
“Và hợp đồng vẫn còn nằm trên bàn làm việc của tôi,” Prendergast nói. “Thật không may cho họ, và thật may mắn cho ngài, thời gian sớm nhất họ có thể hẹn gặp tôi là mười giờ sáng nay.”
“Ông đã thay đổi hợp đồng rồi chứ?”
“Vâng, Sir Hugo, tôi phải làm rồi chứ.”
Tim Hugo trĩu xuống.
“Với giá bốn mươi nghìn bảng.”
“Tôi không hiểu.”
“Sau khi tôi có thể thuyết phục United Dominion rằng ngài đang nắm quyền sở hữu miếng đất của bà Clifton cũng như tất cả các miếng đất khác trên phố, họ đã viết ngay một tấm séc ghi toàn bộ số tiền.”
“Làm tốt lắm, Prendergast. Tôi biết mình có thể trông cậy vào ông.”
“Cảm ơn ngài. Tất cả những gì ngài cần phải làm là ký vào bản thỏa thuận với bà Clifton, sau đó tôi sẽ cho thanh toán tấm séc của United Dominion.”
Hugo liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay. “Vì bây giờ đã là bốn giờ rồi, sáng mai tôi sẽ qua ngân hàng ngay đầu giờ.”
Lại vang lên tiếng ho của Prendergast. “Đầu giờ, Sir Hugo, là lúc chín giờ. Và ngài có thể cho tôi biết ngài vẫn còn tám trăm bảng tiền mặt tôi đã ứng trước cho ngài hôm qua chứ?”
“Có, tôi vẫn còn. Nhưng chuyện đó liệu bây giờ còn gì quan trọng nữa?”
“Tôi vẫn nghĩ để thận trọng, Sir Hugo, tốt nhất nên trả một nghìn bảng cho bà Clifton trước khi chúng ta lấy về bốn mươi nghìn bảng từ tấm séc của United Dominion. Chúng ta không muốn sau này phải nghe bất cứ câu hỏi có thể gây rắc rối nào từ hội sở.”
“Đúng thế,” Hugo nói trong khi ông ta nhìn cái vali của mình, lấy làm nhẹ nhõm vì vẫn chưa động đến một xu nào trong chỗ 800 bảng kia.
“Tôi không còn gì thêm để nói nữa,” Prendergast nói, “ngoài việc chúc mừng ngài vì đã đạt được một trong những hợp đồng thành công nhất.”
“Làm thế nào ông biết được về hợp đồng?”
“Xin lỗi, tôi không hiểu ý ngài, Sir Hugo?” Prendergast nghe có chút bối rối.
“Ồ, tôi nghĩ ông đang nhắc tới một việc khác,” Hugo nói. “Không có gì quan trọng đâu, Prendergast. Hãy quên những gì tôi vừa nói đi,” ông ta nói thêm trước khi gác máy.
Cô Pots lại quay trở vào trong phòng. “Giám đốc điều hành đang đợi gặp ngài, thưa chủ tịch.”
“Cho anh ta vào ngay.”
“Anh đã nghe được tin vui rồi chứ, Ray?” Hugo nói khi Compton bước vào phòng.
“Đúng là tôi đã biết, thưa chủ tịch, và nó không thể đến đúng lúc hơn.”
“Tôi không chắc tôi hiểu ý anh,” Hugo nói.
“Ngài cần báo cáo kết quả kinh doanh hàng năm của công ty trong cuộc họp hội đồng quản trị tháng tới, và cho dù chúng ta vẫn phải tuyên bố thua lỗ nặng trong năm nay, hợp đồng mới đảm bảo năm tới chúng ta sẽ có lợi nhuận.”
“Và trong cả năm năm sau đó,” Hugo nhắc viên giám đốc, đắc thắng vung vẩy lá thư của ông bộ trưởng. “Anh hãy chuẩn bị chương trình nghị sự cho cuộc họp hội đồng quản trị, nhưng đừng đưa vào tin về hợp đồng với chính phủ. Tôi muốn tự mình thông báo hơn.”
“Sẽ như ngài muốn, thưa chủ tịch. Tôi sẽ chuẩn bị để mọi giấy tờ quan trọng sẵn sàng trên bàn làm việc của ngài vào trưa mai,” Compton nói thêm trước khi ra về.
Hugo đọc lại lá thư của ông bộ trưởng lần thứ tư. “Ba mươi nghìn một năm,” ông ta hô lớn tiếng, đúng lúc điện thoại trên bàn làm việc lại đổ chuông.
“Có một ông Foster từ Savills, công ty bất động sản, đang chờ máy,” cô Potts thông báo.
“Hãy nối máy cho ông ta.”
“Chúc ngài một ngày tốt lành, Sir Hugo. Tên tôi là Foster. Tôi là thành viên cao cấp của Savills. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta cần gặp nhau để thảo luận các chỉ dẫn của ngài trong việc bán Barrington Hall. Có thể là bữa ăn trưa tại câu lạc bộ của tôi được không?”
“Không cần ông phải bận tâm nữa, Foster. Tôi đã đổi ý. Barrington Hall không còn được rao bán trên thị trường nữa,” Hugo nói, và dập máy.
Ông ta dành phần còn lại của buổi chiều ký cả một chồng thư tín và séc mà cô thư ký trình lên trước mặt mình, và phải đến hơn sáu giờ một chút, ông ta mới vặn đóng nắp bút máy của mình lại.
Khi cô Potts quay lại thu thập các thư tín, Hugo nói, “Bây giờ tôi sẽ gặp Tancock.”
“Vâng, thưa ngài,” cô Potts nói với chút không tán đồng.
Trong khi Hugo chờ Tancock xuất hiện, ông ta quỳ gối xuống và mở vali ra. Hugo nhìn chằm chằm vào 800 bảng đáng lẽ được dùng để ông ta sống sót trên đất Mỹ trong khi chờ số tiền kiếm được từ việc bán Barrington Hall. Giờ đây, cũng 800 bảng đó sẽ được dùng để đem đến cho ông ta cả một gia tài từ phố Broad.
Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, ông ta đóng sập nắp vali xuống và nhanh chóng quay lại bàn làm việc.
“Tancock đến gặp ngài,” cô Potts nói trước khi quay ra và đóng cửa lại.
Người công nhân bến tàu tự tin bước vào phòng và đến bên bàn làm việc của ông chủ tịch.
“Vậy tin tức không thể đợi được là gì đây?” Hugo hỏi.
“Tôi đến để lấy nốt năm bảng nữa ông còn nợ tôi,” Tancock nói, trong mắt lộ rõ vẻ đắc thắng.
“Tôi không nợ gì anh hết,” Hugo nói.
“Nhưng tôi đã thuyết phục em gái tôi bán mảnh đất ông muốn, đúng không nào?”
“Chúng ta đã thỏa thuận ở mức hai trăm bảng, và cuối cùng tôi phải trả gấp năm lần số tiền đó, vì thế như tôi đã nói, tôi không nợ gì anh hết. Hãy ra khỏi phòng làm việc của tôi, và quay lại làm việc đi.”
Stan không nhúc nhích. “Và tôi có lá thư ông nói ông muốn xem qua.”
“Thư nào?”
“Lá thư mà Maisie nhận được từ tay ông bác sĩ trên con tàu Mỹ đó.”
Hugo đã hoàn toàn quên khuấy lá thư phân ưu từ người bạn cùng tàu của Harry Clifton, và cũng không thể hình dung ra nó còn chút ý nghĩa nào khi giờ đây Maisie đã đồng ý bán đất. “Tôi sẽ cho anh một bảng vì nó.”
“Ông đã nói sẽ cho tôi năm bảng.”
“Tôi khuyên anh nên rời khỏi phòng làm việc của tôi trong khi vẫn còn có việc làm, Tancock.”
“Được rồi, được rồi,” Stan nói, đành xuống nước, “ông có thể có nó với giá một bảng. Với tôi nó có là gì chứ?” Ông ta lấy từ trong túi sau quần ra một cái phong bì nhàu nhĩ và đưa cho Hugo. Hugo lấy từ trong ví ra một tờ bạc mười shilling và để lên mặt bàn trước mặt Tancock.
“Anh có thể cầm lá thư về hay đổi lấy mười shilling. Chọn đi.”
Stan vơ lấy tờ mười shilling và rời khỏi phòng, vừa đi vừa lầm bầm cay cú.
Hugo để phong bì sang một bên, tựa người vào lưng ghế và nghĩ xem ông ta sẽ sử dụng một phần lợi nhuận kiếm được từ vụ bán đất ở phố Broad như thế nào. Sau khi tới ngân hàng ký những giấy tờ cần thiết, ông ta sẽ băng qua đường sang cửa hàng bán xe hơi. Hugo đã để mắt tới một chiếc Aston Martin động cơ dung tích 2 lít, 4 chỗ ngồi đời 1937. Sau đó, ông ta sẽ lái xe qua thành phố tới thăm người thợ may của mình - đã từ lâu lắm rồi mà ông ta cũng không còn nhớ được kể từ lần cuối mà ông ta có một bộ may đo - và sau phần đo chỉnh sẽ là bữa trưa tại câu lạc bộ, tại đó ông ta sẽ thanh toán hóa đơn quầy bar còn nợ của mình. Trong buổi chiều, ông ta sẽ lo việc giúp hầm rượu vang ở Barrington Hall đầy trở lại, và thậm chí còn cân nhắc tới việc chuộc về từ hiệu cầm đồ vài món đồ nữ trang mà mẹ ông ta có vẻ rất tiếc nhớ. Còn buổi tối - có tiếng gõ cửa vang lên.
“Tôi về bây giờ,” cô Potts nói. “Tôi muốn qua bưu điện trước bảy giờ để kịp chuyến xe chuyển thư tín cuối cùng. Ngài còn cần gì nữa không, thưa ngài?”
“Không, cô Potts. Nhưng có thể sáng mai tôi sẽ đến muộn một chút, tôi có một cuộc hẹn với ông Prendergast lúc chín giờ.”
“Tất nhiên rồi, thưa chủ tịch,” cô Potts nói.
Khi cánh cửa đóng lại sau lưng cô thư ký, đôi mắt Hugo chuyển sang cái phong bì nhàu nát. Ông ta cầm lấy con dao mở phong bì bằng bạc để mở bì thư, rồi lấy ra một tờ giấy duy nhất. Đôi mắt Hugo nóng lòng lướt đi trên mặt giấy, tìm chỗ nhắc tới điều ông ta muốn khẳng định.
New York
Ngày 8 tháng Chín, 1939
Mẹ thân yêu nhất của con,
… con không hề chết khi chiếc Devonian bị bắn chìm… con được một tàu Mỹ vớt lên… hy vọng mong manh rằng đến một lúc nào đó trong tương lai con có thể chứng minh được Arthur Clifton, chứ không phải Hugo Barrington, là bố con… con mong mẹ hãy giữ kín bí mật này như mẹ đã giữ kín bí mật của chính mình trong suốt bấy nhiêu năm.
Con trai yêu quý của mẹ,
Harry
Hugo thấy máu trong người lạnh toát. Tất cả cảm giác đắc thắng của ngày hôm đó tan biến trong khoảnh khắc. Đây không phải là lá thư ông ta muốn đọc lần thứ hai hay, quan trọng hơn thế, mong muốn ai đó biết được sự tồn tại.
Ông ta mở ngăn kéo trên cùng bàn làm việc của mình, lấy ra một hộp diêm hiệu Swan Vesta. Hugo quẹt một que diêm, đưa lá thư hứng trên sọt rác và chỉ buông tay khi tờ giấy cháy đen thành than đã tan biến ra tro bụi. Mười shilling hiệu quả nhất từng được ông ta sử dụng.
Hugo tin chắc ông ta là người duy nhất biết Clifton vẫn còn sống, và mong muốn sẽ tiếp tục như thế. Nói cho cùng, nếu Clifton giữ lời và tiếp tục sử dụng cái tên Tom Bradshaw, làm sao có chuyện ai đó có thể phát hiện ra sự thật chứ?
Ông ta đột nhiên choáng váng khi nhớ ra Emma vẫn đang ở Mỹ. Liệu con bé có bằng cách nào đó biết được Clifton còn sống không? Nhưng chắc chắn chuyện đó không thể xảy ra nếu con gái ông ta chưa đọc lá thư. Ông ta cần biết lý do con gái mình lại đi Mỹ.
Hugo đã nhấc điện thoại lên và đang bắt đầu quay số Mitchell thì chợt nghĩ vừa nghe thấy tiếng bước chân ngoài hành lang. Ông ta gác máy, đoán rằng hẳn đó là người gác đêm đi lên kiểm tra xem tại sao đèn trong phòng ông ta vẫn bật sáng.
Cửa mở, và Hugo nhìn chằm chằm vào người phụ nữ ông ta đã hy vọng không bao giờ phải gặp lại nữa.
“Làm cách nào cô qua được người gác cổng?” ông ta hỏi.
“Tôi nói với ông ta chúng tôi có một cuộc hẹn gặp ông chủ tịch; một cuộc hẹn đáng lẽ phải diễn ra từ lâu.”
“Chúng tôi?”
“Phải, tôi mang đến cho anh một món quà nhỏ. Mà thực ra người ta cũng chẳng thể tặng người khác một thứ vốn dĩ đã thuộc về người đó.” Người phụ nữ để một chiếc giỏ lên bàn làm việc của Hugo, rồi gỡ tấm vải muslin mỏng phủ bên trên để lộ ra một đứa bé đang ngủ say. “Tôi cho rằng đã đến lúc anh nên được giới thiệu với con gái anh,” Olga nói, đứng sang bên để Hugo có thể nhìn đứa trẻ.
“Điều gì khiến cô nghĩ tôi sẽ có chút quan tâm nào tới đứa con hoang của cô?”
“Vì con bé cũng là đứa con hoang của anh,” Olga bình thản nói, “vì thế tôi đoán anh sẽ dành cho nó cùng sự khởi đầu cuộc sống như anh đã dành cho Emma và Grace.”
“Sao tôi lại phải cân nhắc tới một chuyện lố bịch ngớ ngẩn như vậy chứ?”
“Bởi vì,” cô gái nói, “Hugo, anh đã lột sạch của tôi, và bây giờ đến lượt anh phải đối diện với trách nhiệm của mình. Anh không thể cứ mặc định nghĩ rằng anh sẽ thoát khỏi nó.”
“Thứ duy nhất tôi rời khỏi là cô,” Hugo nói kèm một nụ cười khinh miệt. “Thế nên cô có thể cuốn xéo và xách theo cái giỏ kia cùng với cô, vì tôi sẽ không động đậy một ngón tay để giúp con nhóc đó.”
“Vậy thì có lẽ tôi sẽ tìm đến ai đó nhiều khả năng sẵn sàng động đậy một ngón tay để giúp nó.”
“Chẳng hạn là ai?” Hugo gằn giọng.
“Mẹ anh có lẽ là một lựa chọn tốt để bắt đầu, cho dù có lẽ bà ấy là người cuối cùng trên trái đất này vẫn còn tin vào lời anh nói.”
Hugo đứng bật dậy khỏi ghế, nhưng Olga không hề nao núng. “Và nếu tôi không thể thuyết phục bà ấy,” cô nói tiếp, “điểm dừng tiếp theo của tôi sẽ là Manor House, tại đó tôi sẽ dùng trà với vợ cũ của anh, và chúng tôi có thể trao đổi về sự thật là bà ấy đã ly dị anh từ lâu trước khi chúng ta gặp nhau.”
Hugo bước ra từ sau bàn làm việc, nhưng hành động này cũng không ngăn được Olga tiếp tục. “Và nếu Elizabeth không có nhà, tôi vẫn luôn có thể làm một cuộc ghé thăm lâu đài Mulgerie và giới thiệu với vợ chồng Lord Harvey thêm một đứa con nữa của anh.”
“Điều gì làm cô nghĩ bọn họ sẽ tin cô?”
“Điều gì làm anh nghĩ họ sẽ không tin?”
Hugo bước về phía cô, chỉ dừng lại khi hai người còn cách nhau vài inch, song Olga vẫn chưa nói hết.
“Và sau đó, cuối cùng tôi cảm thấy mình cần tới thăm Maisie Clifton, một phụ nữ tôi vô cùng ngưỡng mộ, bởi vì nếu tất cả những gì tôi được nghe kể về bà ấy…”
Hugo chộp lấy hai vai Olga và bắt đầu lay cô. Ông ta chỉ ngạc nhiên khi cô không hề tìm cách tự vệ.
“Bây giờ hãy nghe tao nói đây, con Do Thái kia,” ông ta gào lên. “Nếu mày dám dù chỉ bóng gió với bất cứ ai rằng tao là bố của con nhóc này, tao sẽ làm cuộc sống của mày khốn khổ đến mức mày sẽ phải ước gì đã bị bọn Gestapo lôi đi cùng bố mẹ mày.”
“Anh không còn làm tôi sợ được nữa đâu, Hugo,” Olga nói với vẻ cam chịu. “Tôi chỉ có một mối quan tâm trên đời, và đó là đảm bảo chắc chắn để anh không thể thoát được lần thứ hai.”
“Lần thứ hai?” Hugo lặp lại.
“Anh nghĩ tôi không biết gì về Harry Clifton, cũng như khả năng cậu ta được thừa kế tước vị của gia đình anh chắc?”
Hugo buông cô gái ra và lùi lại một bước, rõ ràng đang choáng váng. “Clifton đã chết. Được an táng ngoài biển. Mọi người đều biết thế.”
“Anh biết cậu ta vẫn còn sống, Hugo, cho dù anh rất muốn những người khác tin cậu ta đã chết.”
“Nhưng làm thế nào cô có thể biết…”
“Bởi vì tôi đã học cách suy nghĩ như anh, cư xử như anh, và quan trọng hơn thế, hành động như anh, và đó là lý do tôi quyết định thuê thám tử tư riêng.”
“Nhưng cô sẽ phải mất hàng năm…” Hugo vừa định nói.
“Không đâu, nếu tôi gặp được một người đang thất nghiệp, một người mà khách hàng duy nhất đã mất dạng đến lần thứ hai, và đã sáu tháng liền chưa được trả tiền lương.” Olga mỉm cười khi Hugo siết chặt hai nắm tay lại, một dấu hiệu rõ ràng cho thấy cô đã đánh trúng tim đen đối phương. Thậm chí cả khi ông ta vung tay lên cô vẫn không nao núng, vẫn đứng nguyên.
Khi cú đánh đầu tiên giáng thẳng vào mặt, cô loạng choạng bật lùi, đưa tay ôm lấy cái mũi bị gãy, đúng lúc cú đánh thứ hai nện vào bụng cô, làm Olga gập đôi người lại.
Hugo lùi lại, phá lên cười trong khi cô loạng choạng nghiêng ngả từ bên này sang bên kia, cố đứng vững trên hai chân. Ông ta chuẩn bị đánh cô lần thứ ba thì hai chân cô khuỵu xuống, và cô gục xuống sàn như một con rối bị cắt đứt hết dây.
“Giờ cô đã biết cô có thể trông đợi cái gì nếu còn ngu ngốc quấy rầy tôi lần nữa,” Hugo gằn giọng trong lúc đứng sừng sững phía trên cô gái. “Và nếu cô không muốn hứng chịu kết quả tương tự thêm nữa, hãy cuốn xéo khỏi đây khi cô vẫn còn cơ hội. Hãy nhớ mang theo đứa con hoang này về London cùng cô.”
Olga chậm chạp nhổm dậy khỏi sàn, quỳ trên hai đầu gối, máu vẫn tiếp tục rỉ ra từ mũi cô. Cô cố gắng đứng dậy, song còn yếu đến mức lại loạng choạng đổ nhào về phía trước, và chỉ thoát khỏi ngã nhờ bám vào cạnh bàn làm việc. Cô dừng lại một lát, hít thở sâu vài lần trong lúc cố trấn tĩnh lại. Khi cuối cùng Olga ngẩng đầu lên, cô chợt để ý đến một vật thon dài bằng bạc đang ánh lên mờ mờ trong quầng sáng tỏa ra từ chiếc đèn bàn.
“Cô không nghe thấy những gì tôi vừa nói à?” Hugo hét lên trong khi bước tới, nắm lấy tóc cô và giật ngửa đầu cô ra sau.
Bằng tất cả sức lực còn lại, Olga vung chân ra sau và đạp gót giày vào hạ bộ ông ta.
“Con điếm,” Hugo gào lên trong khi buông cô ra và bật lùi ra sau, cho phép Olga có một nháy mắt để với lấy con dao mở bì thư và giấu nó vào trong ống tay áo chiếc váy cô đang mặc. Cô quay lại đối diện với kẻ hành hung mình. Khi Hugo đã có thể hít thở bình thường, ông ta chộp lấy một cái gạt tàn nặng trịch bằng thủy tinh, vung nó lên cao quá đầu, quyết tâm dành cho cô một cú đánh cô sẽ khó lòng hồi phục nổi dễ dàng.
Khi ông ta chỉ còn cách một bước chân, cô gạt tay áo lên, nắm chặt lấy con dao mở bì thư bằng cả hai bàn tay và chĩa lưỡi dao về phía tim Hugo. Đúng lúc định nện gạt tàn xuống đầu cô gái, ông ta lần đầu tiên nhìn thấy lưỡi dao, cố né người sang một bên, trượt chân và mất thăng bằng, nặng nề ngã đè lên người Olga.
Có một giây im lặng trước khi ông ta chậm chạp khuỵu gối xuống và bật ra một tiếng hét ghê rợn đủ để khiến cả Hades(1) hẳn cũng phải bừng tỉnh. Olga quan sát ông ta chộp lấy cán con dao mở bì thư. Cô đứng sững sờ như bị thôi miên, như thể đang xem một đoạn phim được quay chậm lại. Tất cả chắc chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, cho dù với Olga nó dường như dài vô tận, trước khi cuối cùng Hugo ngã gục xuống sàn dưới chân cô.
(1) Thần cai quản âm phủ trong thần thoại Hy Lạp.
Cô nhìn chằm chằm xuống lưỡi con dao. Mũi của nó nhô ra phía sau cổ ông ta, và máu đang phun ra theo mọi hướng, như một trụ nước chữa cháy bị mất kiểm soát.
“Giúp tôi,” Hugo thều thào, cố giơ một bàn tay lên.
Olga quỳ gối xuống bên cạnh ông ta, cầm lấy bàn tay người đàn ông cô đã từng yêu. “Không có gì em có thể làm để giúp anh được, anh yêu,” cô nói, “nhưng vậy đấy, chưa bao giờ có gì hết.”
Hơi thở của ông ta trở nên hụt hơi dần, cho dù ông ta vẫn nắm chặt lấy bàn tay cô. Cô cúi thấp xuống để đảm bảo Hugo có thể nghe thấy từng lời cô nói. “Anh chỉ còn vài khoảnh khắc nữa để sống,” cô thì thầm, “và em không muốn anh xuống mồ mà không được biết chi tiết báo cáo cuối cùng của Mitchell.”
Hugo cố gắng lần cuối cùng để nói. Môi ông ta mấp máy, song không có lời nào được phát ra.
“Emma đã tìm thấy Harry,” Olga nói, “và em biết anh sẽ rất vui được biết cậu ta còn sống và khỏe mạnh.” Đôi mắt Hugo không rời cô gái trong khi cô cúi xuống gần hơn nữa, cho tới khi môi cô gần như chạm vào tai ông ta. “Và cậu ta đang trên đường trở về Anh để lấy lại di sản thừa kế hợp pháp của mình.”
Phải đến khi tay Hugo đã mềm nhũn bất động, cô mới nói thêm, “À, nhưng em đã quên nói với anh, em cũng đã học được cách nói dối giống như anh.”
-o-
Hai tờ báo Bristol Evening Post và Bristol Evening News chạy những hàng tít khác nhau trong ấn bản đầu tiên in ngày hôm sau của họ.
SIR HUGO BARRINGTON BỊ ĐÂM CHẾT
là hàng tít trên đầu trang nhất của Post, trong khi News lựa chọn giật tít
MỘT PHỤ NỮ KHÔNG RÕ DANH TÍNH LAO MÌNH XUỐNG TRƯỚC CON TÀU TỐC HÀNH LONDON
Chỉ có thám tử chánh thanh tra Blakemore, trưởng Ban Điều tra của cảnh sát sở tại, tìm ra mối liên hệ giữa hai sự kiện.