K
hông ai thấy ông ta rời khỏi nhà.
Ông ta xách theo một vali và mặc bộ vét ấm bằng vải tuýt, đi một đôi giày màu nâu bền chắc, khoác ngoài một chiếc áo khoác dày nặng và đội mũ phớt nâu. Chỉ nhìn thoáng qua, bạn sẽ nghĩ ông ta là một thương gia đang đi công tác.
Ông ta đi bộ tới điểm dừng xe buýt gần nhất, cách nhà chỉ hơn một dặm, phần lớn quãng đường nằm trong lãnh địa của ông ta. Bốn mươi phút sau, ông ta bước lên chiếc xe buýt một tầng màu xanh lục - một loại phương tiện giao thông trước đây ông ta chưa bao giờ thử qua. Ông ta ngồi ở ghế cuối xe, không rời mắt khỏi chiếc vali. Ông ta đưa cho người soát vé một tờ bạc mười shilling, cho dù chỉ được yêu cầu trả ba penny; sai lầm đầu tiên của ông ta nếu muốn tránh sự chú ý đổ về hướng mình.
Chiếc xe buýt tiếp tục chuyến hành trình tới Bristol, một chuyến đi bình thường ông ta chỉ mất có mười hai phút trên chiếc Lagonda, nhưng hôm nay phải hơn một giờ trôi qua trước khi họ về tới bến. Hugo không phải là hành khách đầu tiên, cũng không phải người cuối cùng rời khỏi xe. Ông ta xem đồng hồ: 2 giờ 38 phút chiều. Ông ta đã dành ra cho mình đủ thời gian.
Hugo đi bộ lên triền dốc dẫn tới nhà ga Temple Meats - ông ta chưa bao giờ để ý thấy sự tồn tại của triền dốc này, song trước đây ông ta cũng chưa bao giờ phải tự xách vali của mình - và tại đây xếp vào sau một hàng người dài, sau đó mua một vé toa hạng ba một chiều tới Fishguard(1). Ông ta hỏi đoàn tàu sẽ xuất phát từ đường ke nào, và khi tìm ra nó rồi, Hugo đứng chờ ở tận cuối đường ke, dưới một ngọn đèn ga không thắp sáng.
(1) Thị trấn ven biển ở vùng tây nam Wales.
Khi đoàn tàu cuối cùng cũng về tới ga, ông ta lên tàu, tìm thấy một chỗ ngồi ở giữa toa hạng ba, nơi này nhanh chóng đông kín hành khách. Ông ta để vali lên giá đối diện với chỗ ngồi của mình, và hầu như không rời mắt khỏi nó. Một người phụ nữ mở cửa toa và nhìn vào khoang hành khách đông nghịt, song Hugo không nhường chỗ cho bà ta.
Khi đoàn tàu bắt đầu chuyển bánh, ông ta thở phào nhẹ nhõm, khoan khoái nhìn thấy Bristol trôi dần lại phía sau. Hugo ngồi ngả lưng ra sau, suy nghĩ về quyết định của mình. Vào giờ này ngày mai, ông ta sẽ đến Cork(2). Ông ta sẽ không thể cảm thấy an toàn cho tới khi đặt chân lên đất Ai-len. Song chuyến tàu cần tới Swansea đúng giờ nếu ông ta muốn hy vọng bắt kịp chuyến tàu đi Fishguard.
(2) Một thành phố ở Ai-len.
Khi đoàn tàu vào đến ga Swansea, ông ta vẫn còn dư ra nửa giờ đồng hồ; thời gian đủ để thưởng thức một tách trà và một cái bánh ngọt nhân hoa quả kiểu Chelsea tại nhà hàng tự phục vụ của ga. Hiển nhiên không thể sánh được với trà Earl Grey hay cà phê Carwardine’s, nhưng Hugo đã quá mệt để còn hơi sức bận tâm. Ăn uống xong, ông ta rời khỏi nhà hàng tự phục vụ ra một ke ga tranh tối tranh sáng nữa và đợi chuyến tàu đi Fishguard xuất hiện.
Tàu đến muộn, nhưng ông ta tin chắc rằng chuyến phà sẽ không rời vịnh trước khi tất cả hành khách đã lên boong. Sau một đêm nghỉ lại Cork, ông ta sẽ đặt chỗ trên một con tàu, bất cứ tàu nào, sang Mỹ. Tại đó, Hugo sẽ bắt đầu một cuộc đời mới, với món tiền kiếm được từ việc rao bán Barrington Hall.
Ý nghĩ về việc ngôi nhà của cha ông bị mang ra đấu giá làm ông con trai lần đầu tiên nhớ đến mẹ mình. Bà cụ rồi sẽ sống ở đâu, sau khi tòa dinh thự bị bán đi? Mẹ ông ta luôn có thể tới sống cùng Elizabeth ở Manor House. Nói cho cùng, tại đó vẫn còn thừa đủ chỗ. Nếu không, bà cụ có thể tới sống cùng vợ chồng Lord Harvey, hai người này sở hữu tới ba dinh thự, chưa nói đến vô số ngôi nhà đồng quê trong lãnh địa của họ.
Dòng suy nghĩ của ông ta sau đó quay sang Công ty Hàng hải Barrington - một doanh nghiệp đã được gây dựng bởi hai thế hệ trong gia đình, trong khi thế hệ thứ ba lại thành công trong việc làm nó đổ sụp xuống còn nhanh hơn cả lời ban phước của một ông giám mục.
Trong giây lát, ông ta nghĩ tới Olga Piotrovska, thầm lấy làm may vì sẽ không bao giờ phải gặp lại cô này nữa. Thậm chí Hugo còn dành một ý nghĩ thoáng qua cho Toby Dunstable, người chính là nguồn cơn dẫn tới mọi rắc rối cho ông ta.
Emma và Grace cũng thoáng xuất hiện trong tâm trí ông bố, nhưng chẳng được bao lâu: ông ta chưa bao giờ thấy mấy người con gái của mình có ý nghĩa gì. Và rồi Hugo nghĩ tới Giles, cậu con trai đã tránh mặt ông ta sau khi thoát khỏi trại tù binh Weinsberg và trở về Bristol. Người ta vẫn hay hỏi ông ta về cậu con trai anh hùng, và mỗi lần Hugo lại phải bịa ra vài câu chuyện mới. Chuyện đó rồi đây sẽ không còn cần thiết nữa, vì một khi ông ta tới Mỹ, mọi mối dây liên hệ huyết thống rồi sẽ bị cắt đứt, cho dù cùng với thời gian - và Hugo cho rằng đó sẽ là một khoảng thời gian dài đáng kể - Giles sẽ có lúc thừa kế tước vị của gia đình, cho dù và tất cả những gì kèm theo giờ đây thậm chí chẳng còn đáng giá như những gì được viết trên giấy tờ nữa.
Nhưng phần lớn thời gian ông ta dành để nghĩ về chính mình, một mối bận tâm chỉ bị làm gián đoạn khi đoàn tàu về đến ga Fishguard. Hugo đợi cho tất cả những người khác rời khỏi toa trước khi ông ta lấy vali từ trên giá xuống và bước ra ngoài ke ga.
Hugo đi theo hướng dẫn từ trên loa phóng thanh, “Xe buýt ra cảng. Xe buýt ra cảng!” Có bốn xe tất cả. Ông ta chọn xe thứ ba. Lần này chỉ là một chuyến đi ngắn, và ông ta không thể lỡ được điểm đến, bất chấp đèn đóm phải tắt hết vì giới nghiêm; thêm một lần nữa xếp vào hàng dài chờ mua vé hạng ba, lần này là cho chuyến phà đến Cork.
Sau khi mua một chiếc vé một chiều, ông ta bước lên cầu ván, đặt chân lên boong và tìm thấy một góc xó xỉnh mà không đến ngay cả một con mèo cũng không thèm cuộn mình nằm xuống. Hugo không cảm thấy an toàn cho tới khi ông ta nghe thấy hai hồi còi réo vang, và trong nhịp lắc lư nhè nhẹ cảm thấy con tàu từ từ rời bến.
Khi chiếc phà vượt ra ngoài vịnh cảng, thì lần đầu tiên ông ta mới cảm thấy thư thái nhẹ nhõm, và mệt mỏi đến mức ông ta gục đầu lên cái vali và ngủ thiếp đi.
Hugo không rõ ông ta đã ngủ được bao lâu khi cảm thấy có ai đó vỗ lên vai. Ông ta ngước mắt nhìn lên và thấy hai người đàn ông đang đứng sừng sững nhìn xuống mình.
“Sir Hugo Barrington phải không?” một trong hai người này cất tiếng hỏi.
Dường như phủ nhận cũng không ích gì. Hai người kia xốc vai ông ta lên và cho biết ông ta đã bị bắt. Hai người này dành thời gian cẩn thận đọc ra một danh sách dài những tội mà ông ta bị truy tố.
“Nhưng tôi đang trên đường tới Cork mà,” ông ta phản đối. “Chắc chắn chúng ta đã ở ngoài ranh giới mười hai hải lý rồi chứ?”
“Không, thưa ngài,” người cảnh sát thứ hai nói, “ngài đang trên đường quay lại Fishguard.”
Vài hành khách cúi người qua lan can tàu để nhìn rõ hơn người đàn ông đang bị còng tay giải xuống cầu ván, là nguyên nhân đã khiến họ bị chậm trễ.
Hugo bị đẩy lên băng ghế sau một chiếc xe Wolseley màu đen, và chỉ một lát sau, ông ta bắt đầu cuộc hành trình dài quay trở về Bristol.
-o-
Khi cửa phòng giam mở, một người mặc đồng phục mang vào một chiếc khay đựng ít đồ ăn sáng - không phải loại bữa sáng, không phải loại khay, và chắc chắn cũng không phải loại người mặc đồng phục mà Sir Hugo đã quen trông thấy đầu tiên vào mỗi buổi sáng. Đưa mắt nhìn qua một lần miếng bánh mì nướng cùng món cà chua ngập trong dầu, ông ta lập tức gạt cái khay sang một bên. Hugo tự hỏi sẽ bao lâu nữa những thứ này trở thành một phần trong thực đơn hàng ngày của mình. Người cảnh sát quay lại vài phút sau đó, cầm khay đi và cánh cửa phòng giam đóng sầm lại.
Lần tiếp theo cánh cửa mở ra, hai sĩ quan cảnh sát bước vào phòng giam và giải Hugo đi lên các bậc thang đá tới phòng thẩm vấn trên lầu một. Ben Winshaw, luật sư của Công ty Hàng hải Barrington, đang ngồi đợi ông ta.
“Tôi rất xin lỗi, ngài chủ tịch,” ông này nói.
Hugo lắc đầu, trên mặt hiện rõ vẻ cam chịu. “Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo?” ông ta hỏi.
“Cảnh sát trưởng cho tôi biết họ sẽ buộc tội ông sau vài phút nữa. Tiếp theo, ông sẽ bị đưa ra tòa và phải trình diện trước một vị thẩm phán. Tất cả những gì ông cần làm là tuyên bố không có tội. Ông cảnh sát trưởng nói rõ bên cảnh sát sẽ phản đối bất cứ đề nghị bảo lãnh tại ngoại nào, và sẽ nói rõ với quan tòa ông bị bắt trong lúc định rời khỏi đất nước mang theo một vali có đựng tám trăm bảng. Tôi sợ rằng báo chí sắp có một ngày thỏa sức tưng bừng.”
Hugo và luật sư của ông ta ngồi một mình trong phòng thẩm vấn chờ ông cảnh sát trưởng xuất hiện. Ông luật sư cảnh báo Hugo nên chuẩn bị tinh thần ngồi vài tuần trong tù trước khi phiên tòa được mở. Ông này đề xuất tên của bốn luật sư có thể thuê để bào chữa cho Hugo. Hai người vừa kịp nhất trí chọn Sir Gilbert Gray thì cửa mở và một thượng sĩ bước vào.
“Ngài được tự do ra về, thưa ngài,” viên thượng sĩ nói, như thể Hugo vừa có một hành động vi phạm nho nhỏ với luật giao thông.
Phải mất một lúc Winshaw mới kịp định thần lại để hỏi, “Liệu thân chủ của tôi có phải quay lại trong ngày hôm nay không?”
“Theo tôi biết thì không, thưa ngài.”
Hugo bước ra khỏi đồn cảnh sát, lại trở lại là một người tự do.
-o-
Biến cố chỉ được nhắc đến trong một đoạn tin ngắn ở trang 9 của tờ Bristol Evening News. “Ông Toby Dunstable, con trai thứ hai của bá tước Dunstable, đã chết vì một cơn đau tim trong khi đang bị giam tại đồn cảnh sát Wimbledon.”
Sau đó Derek Mitchell chính là người cung cấp thêm những chi tiết ẩn sau câu chuyện.
Tay thám tử kể lại rằng ông bá tước đã tới phòng giam thăm con trai, chỉ vài giờ trước khi Toby tự kết liễu đời mình. Người sĩ quan trực ban nghe thấy vài câu đôi co dữ dội giữa hai bố con, trong đó ông bá tước không ngớt nhắc đi nhắc lại về danh dự, tiếng tăm của gia đình và điều đúng đắn cần làm trong hoàn cảnh đó. Trong phiên điều trần diễn ra hai tuần sau tại Tòa án Hoàng gia Wimbledon, quan tòa đã hỏi người sĩ quan trực ban liệu anh ta có thấy loại thuốc nào được chuyền tay giữa hai người đàn ông trong khi bá tước vào thăm con trai không.
“Không, thưa ngài,” anh ta trả lời, “tôi không thấy.”
Chết vì nguyên nhân tự nhiên là phán quyết sau đó được quan tòa tại Tòa án Hoàng gia Wimbledon đưa ra chiều hôm ấy.