Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa thể về nước. Theo đó, Người đã phân công Trần Phú, Ngô Đức Trì về nước hoạt động và gửi thư giới thiệu hai người với Ban Chấp hành Trung ương lâm thời trong nước. Thông qua Luận cương chính trị tại Đại hội lần I, Đồng chí Trần Phú trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi có sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng phát triển mạnh, đặc biệt là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Bên cạnh đó, nhiệm vụ cấp thiết của Đảng là phải mở rộng lực lượng ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, song song với đấu tranh chính trị, cần phải tăng cường cả đấu tranh kinh tế, đẩy mạnh cách mạng ruộng đất.
Thông qua báo cáo chi tiết, cụ thể từ những đốm lửa cách mạng nhỏ nhất trong ngọn lửa cách mạng ở Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế cộng sản nắm được tình hình phong trào đấu tranh cách mạng của Việt Nam. Năm 1931, bọn đế quốc manh nha cấu kết với nhau để bắt bớ, giam cầm các chí sĩ yêu nước của Việt Nam đang hoạt động trong và ngoài nước. Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang lấy tên là Tống Văn Sơ cũng bị bắt tại Hồng Kông vào ngày 6-6-1931. Quốc tế cộng sản đã cử luật sư đến bào chữa, cùng với sức ép của dư luận về việc một nhà yêu nước nổi tiếng và lỗi lạc bị hãm hại, Tòa án tối cao buộc phải xét xử một cách công khai. Tháng 9-1931, Người được trả tự do.
Trải qua những tháng năm đầy sóng gió, tháng 10-1934, Nguyễn Ái Quốc ghi danh học tại Trường quốc tế Lênin, nơi bồi dưỡng lý luận dành riêng cho cán bộ đảng anh em. Người đề nghị cho xuất bản những cuốn sách có nội dung về tuyên ngôn của đảng cộng sản, lịch sử Quốc tế cộng sản... để giúp các cán bộ, đảng viên không bị lạc hậu về lý luận, tránh được những sai lầm không đáng có. Song song với việc này, Người chỉ đạo từ xa công việc hoạt động chính trị trong nước, điều chỉnh lại những tư tưởng còn đang tồn tại mà xa rời mục tiêu chính là chống đế quốc và phong kiến.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai lan rộng, chiến tranh ở khu vực Thái Bình Dương đang bùng cháy dữ dội, Nguyễn Ái Quốc nóng lòng muốn trở về nước. Đầu tháng 10-1938, Người quay về Trung Quốc trong bối cảnh tình hình có nhiều biến động. Người lấy tên là Hồ Quang, bí mật tìm cách liên lạc với trong nước. Khoảng thời gian những năm 1938-1940, Người viết báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, thông báo về tình hình của Việt Nam khi chiến tranh tại châu Âu bùng nổ và động cơ hành động của Việt Nam sau khi Pháp đầu hàng Đức.
Cuối tháng 6-1940, sau khi gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp sang, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước để lãnh đạo cách mạng vì Pháp đang bị phát xít tấn công. Nhân việc này Việt Nam phải tranh thủ thời cơ.
Cuối năm 1940, để chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần VIII, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng xuống Nậm Bo (sát biên giới Việt-Trung). Tại đây Người đã mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam. Chương trình học là các nội dung thiết thực và rất cần kíp trong tình hình lúc bấy giờ: tình hình quốc tế, trong nước; tổ chức đoàn thể quần chúng; cách thức tổ chức, huấn luyện đấu tranh.
Sau gần nửa đời ngươi bôn ba nơi xứ người để tìm con đường giải phóng dân tộc đang chịu gông cùm xiềng xích dưới thân phận nhân dân nước thuộc địa, nhiều lần bị tù đày trong nhà lao của thực dân đế quốc, nhưng Người vẫn kiên định với con đường đã lựa chọn. Nguyễn Ái Quốc đã tỏ rõ là người có ý chí, nghị lực phi thường, sẵn sàng vượt qua những khó khăn, trở ngại. Năm 1941, Người về sống và làm việc tại Pác Bó (Cao Bằng), thành lập nhiều Hội, nhiều tổ chức, từng bước chuẩn bị thành lập Mặt trận Việt Minh trong toàn quốc.
Thời gian không có nhiều, mà thời cơ chỉ có một. Việc thành lập một mặt trận thống nhất là vô cùng cấp thiết, xuất phát từ việc xác định rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là phát xít Pháp – Nhật và các lực lượng phản cách mạng, tay sai cho chúng. Để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, tranh thủ mọi lực lượng yêu nước, hướng mũi nhọn vào kẻ thù, Mặt trận Việt Minh đã chính thức ra đời ngày 19-5-1941.
Tháng 6-1941, Nguyễn Ái Quốc viết Kính báo đồng bào kêu gọi nhân dân phải đoàn kết đánh đổ đế quốc và Việt gian, nhằm cứu lấy toàn dân tộc. Cùng với việc xuất bản nhiều tờ báo tuyên truyền cho nhân dân về mục đích chính trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, với nội dung chính là động viên, phát động toàn dân tiến tới khởi nghĩa giành thắng lợi.
Bước sang năm 1942, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cực kỳ căng thẳng khi Pháp đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Tình hình càng lúc càng cấp bách, Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường đi Trung Quốc với tư cách là đại biểu của Việt Minh và đại diện Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược. Tuy nhiên khi đến Quảng Tây, Người bị bắt với lý do một số giấy tờ đã quá hạn sử dụng. Hơn một năm trời sống khổ cực, đói rét ở hàng chục nhà lao, Hồ Chí Minh đã sáng tác cuốn Nhật ký trong tù. Năm 1943 Người được trả tự do, Người tiếp tục hoạt động cách mạng và hợp tác với Nguyễn Hải Thần cải tổ lại Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội.
Trước tình hình thế giới bấy giờ, và phân tích những điều kiện thuận lợi cũng như những hạn chế, khó khăn của cách mạng Việt Nam. Năm 1944, thời cơ chín muồi, Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, thành lập đội vào ngày 22-12-1944 và giao nhiệm vụ phụ trách, chỉ huy cho đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Cùng với sự phát triển của phong trào Việt Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và các lực lượng vũ trang tại các địa phương, cùng khí thế quần chúng dâng cao đã làm cho các lực lượng phản động ngày càng hoang mang, tạo thêm nhiều thuận lợi mới cho cuộc Tổng khởi nghĩa sắp tới.