Trên tư cách là một nhà ngoại giao, đồng chí Lê Đức Thọ đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, đặc biệt là trong cuộc hòa đàm lịch sử kéo dài 5 năm ở Pari (1968-1973), đồng chí để thể hiện bản lĩnh của một nhà ngoại giao chiến lược thời đại Hồ Chí Minh.
Cuộc đàm phán với Chính phủ Hoa Kỳ là một cuộc đấu trí, đấu lý hết sức cam go, bởi vậy nên lãnh đạo đàm phán trực tiếp không chỉ cần tinh thần cách mạng tiến công và ý thức kỷ luật mà còn phải có tầm tư duy chiến lược, bản lĩnh vững vàng và phương pháp sáng tạo, khôn khéo. Đồng chí Lê Đức Thọ là người thích hợp nhất được Bác Hồ chọn lựa để trao cho nhiệm vụ cao cả nhưng cũng vô cùng nặng nề này.
Trong suốt quá trình chỉ đạo và thực hiện trực tiếp đàm phán với đại diện của Mỹ ở Pari, đồng chí đã luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng triệt để tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Từ đó, để lại một bài học quý báu cho thế hệ ngoại giao Việt Nam sau này.
Ý thức sâu sắc về lợi ích dân tộc tối cao đã thấm vào máu đồng chí Lê Đức Thọ ngay từ những năm tháng đầu hoạt động cách mạng và tù đày khổ lao. Tư duy chiến lược của đồng chí Lê Đức Thọ cũng được phát triển trong quá trình tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong quá trình chỉ đạo đàm phán ở Pari, đồng chí luôn kết hợp phát huy tối đa trí tuệ tập thể với trách nhiệm của từng cá nhân. Là người có bản lĩnh vững vàng, tính quyết đoán cao, nhưng đồng chí Lê Đức Thọ không bao giờ võ đoán. Trước mọi quyết định quan trọng, đồng chí đều bắt đầu từ sự phân tích tỉ mỉ tình hình, rút ra kết luận cần thiết rồi xử lý một cách linh hoạt.
Trong các cuộc đấu trí quyết liệt với các nhà thương lượng Mỹ, Cố vấn Lê Đức Thọ luôn giữ vững nguyên tắc, kiên nhẫn bảo vệ quan điểm của mình, không lùi bước trước sức ép nào, không nao núng trước sự đe dọa nào. Ông thường đưa ra những lập luận sắc sảo và dồn đối phương vào thế bị động đối phó.
Trong ứng xử với đối phương, đồng chí Lê Đức Thọ luôn chủ động với phong thái ung dung, tự tại, uyển chuyển, khiêm nhường của một người đại diện cho một dân tộc chính nghĩa và văn hiến. Sự ứng phó linh hoạt “vạn biến”, “nhu” và “cương” đều đúng lúc và có lý của đồng chí Lê Đức Thọ đã buộc đối phương phải vị nể, khuất phục.
Trước khi được Bác Hồ và Bộ Chính trị phân công phụ trách đàm phán với Mỹ tại Pari, đồng chí Lê Đức Thọ cũng đã từng thực hiện một số nhiệm vụ đối ngoại quan trọng của Đảng, trong đó có nhiệm vụ giúp các đồng chí Campuchia thành lập một đảng riêng vào năm 1948, hay nhiệm vụ dẫn đầu Đoàn đại biểu của Đảng ta thăm Pháp vào năm 1965 theo lời mời của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp năm 1965.
Về công tác đào tạo cán bộ ngoại giao, đồng chí Lê Đức Thọ yêu cầu lãnh đạo Bộ Ngoại giao phải biết kết hợp giữa sử dụng cán bộ ngoại giao lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm với việc đào tạo một thế hệ cán bộ ngoại giao trẻ, có trình độ văn hóa, ngoại ngữ và chính trị cao.
Từ khi tập kết ra Bắc vào năm 1955, cùng với một số đồng chí khác trong Bộ Chính trị, đồng chí Lê Đức Thọ đã tham gia trực tiếp vào công tác hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Sau Đại hội VI của Đảng, đồng chí vẫn tiếp tục đóng góp vào xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng về đối ngoại nhằm phá vỡ thế cấm vận, giải quyết vến đề Campuchia, thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Bên cạnh đó, đồng chí Lê Đức Thọ đã dự và chỉ đạo nhiều hội nghị ngoại giao từ thập niên 1960 cho đến khi đồng chí lâm bệnh vào cuối thập niên 1980.
Suốt đời tận tụy phục vụ nhân dân, Tổ quốc, đồng chí Lê Đức Thọ không mưu cầu lợi ích cá nhân mà chỉ mong hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước. Tên tuổi của đồng chí luôn được khắc ghi trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Lịch sử ngoại giao luôn ghi công đồng chí như một nhà ngoại giao chiến lược tài ba và khôn khéo.