I
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương, các tổ chức cách mạng của ta phải rút vào hoạt động bí mật để tránh các cuộc đàn áp, khủng bố của chủ nghĩa đế quốc. Khi này, Đảng nhận định con đường sống còn duy nhất là đánh đổ đế quốc. Trung ương Đảng có chỉ thị, tôi và anh Phạm Văn Đồng cùng vượt biên giới sang Trung Hoa. Tôi gác lại mọi công việc từ giảng dạy tại trường Tư thục Thăng Long đến hoạt động cách mạng, chia tay anh em đồng chí rồi bí mật lên đường đi Côn Minh.
II
Côn Minh sầm uất và đông đúc, đâu đâu cũng thấy biểu ngữ chống Nhật. Đảng ta ở đây được sự giúp đỡ của cộng sản Trung Quốc, hoạt động bí mật trong kiều bào. Tôi cùng anh Đồng, anh Phùng Chí Kiên, anh Cao Hồng Lĩnh sống trong một căn nhà nhỏ, giả làm người Hoa ở nước ngoài mới về nước. Thời gian ấy, lý tưởng của chúng tôi hướng đến Nguyễn Ái Quốc, một người tôi chưa gặp bao giờ nhưng trong lòng hết sức cảm mến và khâm phục. Đầu tháng 6-1940, anh Kiên đưa tôi ra Thúy Hồ. Ở đây tôi gặp đồng chí Vương. Tôi nhận ra ngay đây chính là Nguyễn Ái Quốc. Bác giản dị và rất gần gũi, tôi nhận ra một điều, con người vĩ đại là con người lúc nào cũng mộc mạc, chân phương.
III
Bọn Việt Nam Quốc dân Đảng định bám gót Tưởng để về Việt Nam khi “Hoa quân nhập Việt”. Bác bảo anh Đồng và tôi thu xếp đến Diên An học chính trị, và nhấn mạnh thêm cả việc học quân sự. Diên An là vùng đất thánh của cách mạng Trung Quốc. Cuộc sống ở Diên An khó khăn, tài chính lại eo hẹp nên sinh hoạt rất kham khổ. Trong thời điểm đó, có tin Paris thất thủ, Pháp đầu hàng. Bác lệnh cho chúng tôi hoãn lại việc học. Trên đường về Việt Nam, chúng tôi dừng chân lại Quế Lâm, và có điều kiện tiếp xúc với sách báo tiến bộ đang rất phát triển ở đây. Tháng 9 cùng năm, chúng tôi hay tin Pháp đã rước Nhật vào Đông Dương.
IV
Chúng tôi gặp Bác ở Quế Lâm, Bác cho rằng tình hình chung ở thế giới và Đông Dương đang ngày càng có lợi cho ta, phải mau chóng về Việt Nam khéo léo tập hợp lực lượng, duy trì phong trào khi Nam kỳ đang mở cuộc khởi nghĩa. Bác vạch ra tính chính xác của căn cứ địa Việt Bắc ngay từ khi chưa đến Cao Bằng. Làm việc cùng Bác, chúng tôi nhận thấy ở Người đức tính kiên nhẫn, chu đáo, tác phong nhanh nhẹn. Các bài giảng của Bác đều đi thẳng vào vấn đề, ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ và dễ hiểu đối với quần chúng.
Khởi nghĩa Nam Kỳ thành công, Bác cùng chúng tôi ở lại Cao Bằng tiếp tục đề ra kế hoạch cho thời gian sắp tới.
V
Chúng tôi tiếp tục duy trì biện sự xứ của Việt Nam Giải phóng Đồng minh, và vẫn giao dịch với bọn Quốc dân Đảng, và đi lại giữa Tĩnh Tây và Pác Bó để báo cáo công việc với Bác. Đầu năm 1941, để tăng cường cán bộ, duy trì phong trào ở vùng Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Bắc Sơn – Vũ Nhai và Cao Bằng trở thành hai trung tâm khởi nghĩa tại Việt Bắc.
Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên Xô. Bọn Quốc dân Đảng ngoài việc mở lớp học huấn luyện thì không giúp được gì hơn, chủ yếu vẫn là thăm dò lực lượng của ta. Nguyễn Hải Thần đã biết được tên thật của tôi và anh Đồng. Bọn Quốc dân Đảng bắt đầu thay đổi thái độ. Bác lệnh cho tôi và anh Đồng cùng về nước. Anh Hoan ở lại duy trì biện sự xứ rồi bị bắt một thời gian.
VI
Cao Bằng là một tỉnh vùng biên có phong trào cách mạng từ rất sớm. Lúc bấy giờ, dưới sự chỉ đạo của Bác, phong trào cách mạng ở nơi đây đã phục hồi sau nhiều năm bị địch khủng bố, và đã phát triển rất mạnh mẽ. Tôi được Bác giao cho nhiệm vụ mở lớp huấn luyện ở châu Trần Phú (Hòa An). Tài liệu chỉ có cuốn Con đường giải phóng và Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô. Đi đường mới thấy phong trào đấu tranh của nhân dân đã được mở rộng. Người cách mạng về đây được bà con vô cùng quý mến.
Khó khăn nhất trong việc đào tạo là ngôn ngữ. Đồng bào ở đây đa phần là người dân tộc thiểu số. Vậy là tôi phải tìm hiểu và học tiếng. Về các buổi huấn luyện, tôi đề cập đến các vấn đề chính như tình hình thế giới và trong nước, nguyên nhân dẫn đến đấu tranh cách mạng, cách chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tổ chức các hội cứu quốc; bên cạnh đó tôi còn tuyên truyền thêm về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng, về đời sống tốt đẹp tại Liên Xô. Tôi tuyển chọn những đồng chí trung kiên hoạt động tích cực để bồi dưỡng thêm, chuẩn bị cho việc phát triển Đảng.
Tôi nhận ra một điều rằng, đối với những tâm hồn chất phác thật thà của đồng bào vùng cao, khi cách mạng đã đem đến cho họ một niềm tin vững vàng về một tương lai tươi sáng, thì không một sức mạnh nào lay chuyển được niềm tin đó.
VII
Sang năm 1942, ở Cao Bằng đã có những châu “hoàn toàn”. Ở nhiều châu khác, cách mạng cũng đã xây dựng được nhiều cơ sở quần chúng. Thanh niên, phụ nữ đi làm cách mạng, thậm chí nhi đồng cũng xung phong vào ban liên lạc, canh gác. Đồng bào dân tộc thiểu số yêu quý cán bộ như anh em ruột thịt. Chúng tôi liên tục vận động công tác chính trị, ca ngợi Đảng và tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản.
Ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng rất rộng. Nhiều lớp huấn luyện ngắn hạn đã được tổ chức ngay trong làng bản, để đồng bào khỏi phải đi xa cũng như đảm bảo được bí mật. Song song với học tập chính trị, việc huấn luyện quân sự cũng lên mạnh. Các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu dần dần được khai mở rộng khắp, các lò rèn binh khí cũng đã xuất hiện để phục vụ cho phong trào kiến quốc.
VIII
Sau một thời gian ở Nguyên Bình, tôi được giao nhiệm vụ phát triển phong trào dưới xuôi và mở đường Nam tiến. Tôi đến Kim Mã, nơi đồng bào người Mán tiền sinh sống, vừa làm công tác huấn luyện vừa tìm hiểu tình hình địa phương. Các đồng chí sau khi học lớp huấn luyện thì nhận thức nhanh chóng và hoạt động rất tích cực, truyền cảm hứng cho cả cộng đồng. Vì thế, các hội cứu quốc phát triển rất nhanh, tư tưởng cách mạng đã tràn ra mọi nẻo.
Tuy nơi ở của đồng bào Mán tiền ở vùng rẻo cao, dường như tách biệt với xã hội nhưng bọn thống trị vẫn tìm thấy, đời sống người dân rất khổ sở. Nên khi lý luận cách mạng được truyền tới, đồng bào tiếp thu nhanh vì họ hiểu đó là ánh sáng trên con đường tối tăm gian khổ. Chúng tôi cùng đồng bào tổ chức những lễ ăn thề tập thể, thề suốt đời trung thành với hội cứu quốc, với cách mạng, với Đảng. Một thời gian ngắn sau, phong trào từ Kim Mã đã lan ra các vùng lân cận.
IX
Địch từ các phía tràn lên Nà Dú để bắt cán bộ người Kinh. Vừa giảng bài, tôi vừa nghĩ cách đối phó khi địch đang tiến dần vào làng, mặt khác cũng vừa trấn an đồng bào. Chúng tôi thu dọn rồi đi về hướng núi, tôi nghĩ đến giải pháp tốt nhất là xây dựng cơ sở cách mạng trên vùng cao.
Sau một chặng đường dài trốn sự truy lùng, khủng bố của địch, cơn sốt hai tháng trời của tôi càng lên cao. Nhưng khi nghĩ về Bác, về dân tộc, về gia đình, tôi thấy đầu óc thanh thản, cơ thể nhẹ nhõm hẳn. Cuộc khủng bố chỉ là dọa dẫm, ép người dân đầu thú. Chúng tôi tiếp tục xuống làng cùng đồng bào. Phong trào được phục hồi, còn lớn mạnh hơn trước.
X
Ở gần Bác, tôi cảm nhận được ở Người là một trái tim vĩ đại và một tấm lòng bao la. Địch khủng bố, Bác liên tục chuyển nơi ở. Sức khỏe của Bác kém đi, thuốc thang chỉ là ít lá rừng chữa theo cách của người miền núi. Ăn uống chỉ là cháo bẹ như anh em cán bộ. Ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Bác cũng thích nghi được rất nhanh và rất tự nhiên. Theo lệnh của Bác, tôi khẩn trương triển khai công tác Nam tiến và chú trọng công tác quân sự. Tôi cùng các anh Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Vũ Anh, Chu Văn Tấn cùng trao đổi những kinh nghiệm chống khủng bố, xây dựng phong trào và cùng đi đến nhận định chung: nếu phong trào được lập thành từ nhân dân, dựa chắc vào nhân dân thì địch không thể tiêu diệt được lực lượng cách mạng.
Trước lời kêu gọi của Đảng và Mặt trận Việt Minh, hàng trăm cán bộ, thanh niên nam nữ lên đường Nam tiến. Thời gian này, chúng tôi nhận được tin dữ: Bác bị bắt giam và đã mất trong ngục.
XI
Con đường Nam tiến kéo dài trên các sườn núi. Suốt dọc đường đi, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi nổi như những làn sóng. Anh Tấn báo đã bắt được liên lạc với Trung ương ở xuôi. Chúng tôi lại mở lớp huấn luyện cho hội viên tại đây. Tình hình trở nên xấu đi khi địch tăng cường khủng bố, một số đồng chí bị bắt giam hoặc bị giết hại. Đoàn Nam tiến vừa nhận được lá cờ “Xung phong thắng lợi” thì phát hiện con đường lớn bị đứt thành nhiều đoạn.
XII
Năm 1943, Cao - Bắc - Lạng đã trở thành một kho thuốc súng sắp bùng nổ. Từ cấp xã, tổng đến châu, nhiều nơi đã “hoàn toàn”. Phong trào cách mạng ở các địa phương được giữ vững. Các cuộc duyệt binh, tập trận được tổ chức thu hút hàng ngàn người tham dự. Các lò rèn mọc lên như nấm, sản xuất không đủ, người dân bán cả trâu bò, lợn gà để mua vũ khí của Tưởng.
Lúc này, Pháp đã trở thành tay sai của Nhật ở Đông Dương. Lúc này chúng khủng bố, đàn áp dữ dội hơn. Các tổ chức xung phong rút về cơ sở để lãnh đạo nhân dân đấu tranh khủng bố. Cán bộ chiến sĩ vừa hoạt động bí mật, vừa phải cảnh giác, không được sơ hở mà rơi vào tay địch. Cơ sở cách mạng phải chuyển vào nơi rừng thiêng nước độc. Những tổ đội gan dạ, bền bỉ bám làng, bám cơ quan vẫn bí mật truyền cho nhau sức mạnh của cách mạng, niềm tin đối với Đảng, vì thế phong trào quần chúng vẫn được duy trì.
XIII
Một dòng thư bằng chữ Hán viết bên mép tờ báo gửi từ Trung Quốc về. Đúng là chữ của Bác, báo rằng vẫn bình yên. Anh em chúng tôi mừng vui khôn tả.
XIV
Liên Xô thắng lớn trong trận Stalingrad. Mỗi tin thắng lợi ở Liên Xô dội về là một sự cổ vũ cho nhân dân trong những tháng ngày khó khăn. Trung đội Nam tiến đi về phía nam để nối lại những quãng đường bị đứt. Đến Phia Bioóc thì được tin địch đang khủng bố ngay gần đây. Như vậy là không thể ở lại được, anh em cán bộ gấp rút quay lại Cao Bằng. Tôi ốm nặng, nghĩ mình bị sốt ác tính, nhưng kỳ lạ là về đến cơ quan chưa kịp uống thuốc, đã thấy khỏi.
XV
Khoảng năm 1942-1943, địch càng điên cuồng tàn sát, càng khơi dậy ngọn lửa căm thù trong lòng dân. Việc kiếm lương thực cho số đông đồng chí hoạt động bí mật trở thành nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Có đến cả tháng trời anh em chỉ ăn cháo ngô, hoặc chuối rừng nấu với muối.
Chúng tôi nói với đồng bào, tình hình miền xuôi đang thuận lợi cho ta, địch hoảng sợ nên mới gây khủng bố. Cơ quan do vậy cũng liên tục chuyển dời, tuy vậy đường dây liên lạc vẫn được nối lại bởi sự dũng cảm của anh em đồng chí. Các lớp huấn luyện tiếp tục được mở, số người đến dự rất đông, chương trình học nay có 2 phần: chính trị và quân sự. Đời sống sinh hoạt của cán bộ cũng được cải thiện phần nào.
XVI
Giữa năm 1944, cuộc khủng bố trắng của Pháp lên đến đỉnh điểm. Nhân dân Cao-Bắc-Lạng mong chờ tiếng súng cách mạng để vùng dậy đánh quân bạo tàn. Ở châu Âu, Liên Xô bắt đầu phản công, giữa Nhật và Pháp chắc chắn sẽ có nổ súng. Cách mạng Việt Nam xác định rõ đây chính là lúc thời cơ sắp đến. Phong trào đấu tranh trong nước lan rộng, các tổ chức của Việt Minh ngày càng phát triển.
Hội nghị cán bộ thảo luận về vấn đề khởi nghĩa được mở ra, các cán bộ phụ trách địa phương, các đồng chí trong Liên tỉnh ủy đều có mặt. Hội nghị cho rằng sự khủng bố của địch không thể nào thắng nổi được cách mạng. Chúng tôi còn vẽ ra nhiều kịch bản để đối phó nếu như thực tế không như dự đoán.
Các địa phương nhanh chóng hoàn thành chương trình huấn luyện theo đúng kế hoạch, các lực lượng tự vệ gia nhập các đội du kích, vũ khí cũng được mua và chế tạo thêm, lương thực tích trữ 6 tháng, một phần làm thành lương khô, ăn được trong một năm. Cán bộ và Đảng viên đều dốc sức vào công việc chuẩn bị cho thời cơ sắp đến lúc chín muồi.
XVII
Sau hơn một năm ở nhà tù của Tưởng, Bác về nước. Chúng tôi báo cáo ngay cho Bác công việc trong thời gian vừa qua. Bác nhận xét tình hình hiện tại và yêu cầu thành lập một đội quân tập trung. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời, đây sẽ là đội quân chủ lực có nhiệm vụ dìu dắt, hỗ trợ các đội địa phương trưởng thành. Trong đầu chúng tôi đã hiện lên một hình ảnh huy hoàng về tương lai của đội quân cách mạng, quyết tâm làm cho ước mơ đó trở thành sự thật.
XVIII
Bác lệnh cho Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngay từ những ngày đầu phải gây ấn tượng và tạo sự tin tưởng cho các chiến sĩ và gây truyền thống hành động tích cực. Đồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần được chọn để cán bộ tiến hành công tác điều tra. Bên cạnh đó chúng tôi tiếp tục thảo ra lời thề và điều lệ, kỷ luật của đội.
XIX
22-12-1944, Lễ thành lập đội được cử hành trang trọng trong rừng Trần Hưng Đạo. Tôi được ủy nhiệm thay mặt Đoàn thể tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và vạch rõ nhiệm vụ của đội đối với Tổ quốc. Đội thành lập với 34 người chiến sĩ. 34 người là 34 hoặc còn nhiều hơn thế, những câu chuyện, những ký ức đẫm máu và nước mắt, ngùn ngụt lửa căm thù giặc và ý chí chiến đấu giành lại tự do, độc lập cho dân tộc, quê hương.
XX
Sau hai ngày thành lập, bộ đội được lệnh lên đường đi chiến đấu. Theo lời Bác dặn về việc phải chiến thắng trong trận đầu, các tiểu đội đều xung phong đánh đồn địch. Đội lên kế hoạch cải trang thành lính dõng để đột nhập vào đồn địch, khi vào sẽ chiếm luôn kho súng, bắt sống tất cả, nếu chống cự sẽ tiêu diệt. Tại Phai Khắt, đội đã thủ tiêu được tên đồn trưởng, chiến lợi phẩm thu được là kha khá súng ống, súng kíp, đủ để trang bị cho nửa trung đội và trao cho tự vệ địa phương, đổi lấy súng trường. Đội chuyển sang mục tiêu tiếp theo là đồn Nà Ngần.
XXI
Đồn Nà Ngần cách Phai Khắt 25km. Lần này Đội cũng làm theo kế hoạch cũ là cải trang thành lính tuần. Trước kho súng, nghe tiếng hô của ta, địch hoảng sợ giơ tay xin hàng. Hai tiểu đội xông vào đánh chiếm đồn địch và kho súng. Toàn bộ binh lính của địch đầu hàng. Bộ đội ta thu thập hết súng đạn, cho lính trở về quê hoặc cùng tham gia giết giặc. Binh lính đều rất cảm động về thái độ của các chiến sĩ cách mạng. Vậy là hai trận đánh đầu tiên là Phai Khắt và Nà Ngần đều giành thắng lợi.
XXII
Chúng tôi báo cáo Bác và Liên tỉnh ủy về những thành công đầu tiên của Đội, và đề nghị lựa chọn bổ sung một số đồng chí, để Đội tuyên truyền phát triển thành một đại đội. Chỉ trong một tuần, việc bổ sung đã xong. Ai được cấp trên chuẩn y cho “đi giải phóng” cũng đều coi đó là một niềm vinh dự.
Cuộc hành quân chia làm hai ngả, một nhóm theo anh Hoàng Văn Thái đi Nậm Ti mở rộng cơ sở, một nhóm khác đi Bảo Lạc, tiến hành tập kích. Chúng tôi tiến đến đồn Đồng Mu. Lần này không thể cải trang như hai lần trước vì địch đã có cảnh giác, ta chủ trương đột nhập trong đêm để tiêu diệt địch. Tuy trận Đồng Mu ta không giành được thắng lợi như dự định nhưng đã xây dựng cho ta truyền thống anh dũng chiến đấu.
XXIII
Đại đội rút quân đi bí mật, tránh để lại dấu vết trên mặt đường. Một tiếng ho, một tiếng gậy cũng phải tránh. Lại một cái Tết đã đến. Bộ đội đến vùng rẻo cao của đồng bào Mán trắng. Đồng bào yêu thương trân quý bộ đội như anh em một nhà. Mỗi món quà đều là tình thương yêu của đồng bào với người con bộ đội cách mạng.
Chúng tôi đặt một kế hoạch tuyên truyền mở rộng đi đôi với mở rộng cơ sở chính trị và vũ trang. Trên báo Việt Nam độc lập, mấy số liền đều có những bài đặc biệt thuật lại các trận đánh của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ảnh hưởng của các cuộc chiến thắng khá sâu rộng. Bọn Tây đồn, binh lính ta trong quân đội Pháp đâu đâu cũng bàn tán, phục tài dùng binh của cán bộ cách mạng, sợ lực lượng hùng hậu của quân đội cách mạng.
XXIV
Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến hồi kết thúc. Liên tỉnh ủy gấp rút kêu gọi nhân dân chuẩn bị đón lấy thời cơ, củng cố các lực lượng làm khởi nghĩa, giành chính quyền. Tại Cao – Bắc – Lạng, nhiều châu, huyện đều sửa soạn thành lập những trung đội Giải phóng quân. Chúng tôi tổ chức mít tinh và giải thích với đồng bào: “Nhật Pháp đã đánh nhau và đây là thời cơ tốt để đứng dậy chuẩn bị khởi nghĩa”.
XXV
Chúng tôi đến Chợ Rã và tổ chức mít tinh, tuyên truyền chính sách của Việt Minh. Chính quyền địch ở đây hoàn toàn tan rã. Mọi việc từ tổ chức các đoàn thể cứu quốc, chống cự với Nhật khi chúng kéo lên, cho tới việc tranh chấp ruộng, rẫy… nhân dân đều đến hỏi cán bộ. Nhưng không biết rằng thời cơ giành chính quyền đã đến hay chưa. Nếu muốn có chủ trương chung thì phải đợi chỉ thị của trung ương, nhưng riêng vùng này thì phải lập chính quyền cách mạng. Vậy là phong trào cách mạng Cao Bằng như nước vỡ bờ lan tràn nhanh chóng khắp nơi. Không đầy một tháng sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính quyền ở đây đã về tay nhân dân.
XXVI
Về đến Chợ Chu thì chúng tôi được tin của Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng chủ trương kháng Nhật để làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Mỗi đoạn đường chúng tôi đi qua Bắc Kạn, Tuyên Quang, càng thấy gần miền xuôi, phát hiện nhiều xác người chết đói. Về đến đồng bằng, anh em cán bộ chúng tôi họp lại với nhau và trao đổi tình hình ở mọi nơi. Hầu hết phong trào cách mạng đều được mở rộng. Vì vậy trong tình thế này, việc phát động chiến tranh du kích và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa phải khẩn trương tiến hành.
XXVII
Đón Bác về, anh em chúng tôi nhanh chóng báo cáo tình hình làm việc. Bác cho rằng tình thế đang rất có lợi cho ta, quyết định dừng lại ở Tân Trào để lập cơ sở cách mạng, là đầu mối trung tâm liên lạc với mọi miền và ra nước ngoài. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng chính trị trở nên cấp thiết. Tháng 7-1945, trường Quân chính kháng Nhật ra đời. Nay vùng giải phóng đã loang ra các tỉnh miền ngược nối liền nhau, sẽ gọi là Khu giải phóng, người dân được cầm phiếu bầu cử, chỉnh đốn lại chính quyền nhân dân; các lực lượng vũ trang được thống nhất và gọi chung là Quân giải phóng. Cuộc chiến đấu chống Pháp – Nhật của Giải phóng quân ngày càng gây được tiếng vang. Khu giải phóng ngày càng phát triển.
XXVIII
Cao trào kháng Nhật giờ đã lan ra cả nước. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang, không thể cản được phong trào đấu tranh cách mạng. Không khí tổng khởi nghĩa như lò lửa sẵn sàng bùng lên bất kỳ lúc nào. 13-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Đêm cùng ngày, Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa được phát ra, trong lòng chúng tôi rộn rã lã thường, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Quốc dân đại hội đã lập ra Ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc, chuẩn bị khi cần có thể trở thành Chính phủ lâm thời ngay lập tức.
XXIX
Mọi công việc của nhân dân, đồng bào dường như tạm dừng để tiến hành một việc khác quan trọng nhất thời đại: Tổng khởi nghĩa. Gần sáng, bốn bề quanh tỉnh Thái Nguyên rộn rã tiếng súng, nhân dân đồng loạt nổi dậy. Quân địch đã trở nên bé nhỏ giữa vòng vây trùng điệp của nhân dân. Trước áp lực của Giải phóng quân và nhân dân, Nhật phải đầu hàng và trao lại khí giới sau bảy ngày chống trả yếu ớt.
XXX
Làn sóng khởi nghĩa dâng lên ở mọi nơi trên khắp đất nước ta. Hà Nội giành được chính quyền ngày 19-8, sau đó là Huế thắng lợi ngày 23-8 và 25-8 ở Sài Gòn. Chúng tôi cùng tiến về Hà Nội, trong lòng rạo rực hân hoan đầy xúc động. Ngày 30-8, hầu hết chính quyền đã về tay nhân dân.
Vừa giành được chính quyền chưa được bao lâu, đất nước ta đã phải đối mặt với quá nhiều khó khăn, thách thức, phía Bắc là sự đổ bộ của 20 vạn quân Tưởng, trên cả nước vẫn còn quân Nhật đang chờ giải giáp, ở miền Nam, Pháp bám gót quân Anh quay lại Sài Gòn. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân miền Nam bắt đầu. Quân giải phóng miền Bắc cũng lên đường Nam tiến hỗ trợ miền Nam chống Pháp.