Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9-3-1946
I
Về đến Hà Nội, sức khỏe Bác hãy còn rất yếu. Bác nhận gánh trọng trách nặng nề, gánh trên vai vận mệnh quốc gia dân tộc, chèo lái con thuyền quốc gia mới hình thành, vượt qua những thác ghềnh hiểm trở. Ủy ban dân tộc giải phóng do Bác làm Chủ tịch sẽ trở thành Chính phủ lâm thời.
II +III
Mới vài hôm trước, đất nước vẫn còn chìm ngập trong khói lửa, đau thương, cách mạng bỗng nổi lên như một cơn lốc, cuốn bay nỗi nhọc nhằn, khổ đau của kiếp nô lệ. Chính quyền nhân dân được thành lập, cuộc sống mới của nhân dân được thiết lập thành một trật tự mới: trật tự của cách mạng. Hà Nội ngập trong sắc cờ đỏ sao vàng.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng càng được nhân dân đồng bào tin yêu, Mặt trận Việt Minh được quốc dân ủng hộ, đã giành thắng lợi từ Bắc chí Nam. Chế độ thực dân cùng với chế độ phong kiến sụp đổ tan tành.
IV
Về sống tại căn nhà nhỏ ở phố Hàng Ngang, Bác vẫn giữ nếp sống giản dị và không cho phép mình hưởng bất kỳ sự ưu tiên nào. Tại đây, Người đã hoàn thiện xong bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, chuẩn bị cho buổi diễn thuyết trước quốc dân đồng bào vào một ngày mùa thu đầy nắng.
V
Ngày 2-9-1945, những dòng người nô nức, trang phục đủ màu sắc tiến về Quảng trường Ba Đình. Cái tên Hồ Chí Minh không bao lâu đã vang khắp năm châu bốn bể cùng những câu chuyện người ta vẫn ngỡ là chỉ có trong truyền thuyết. Vị lãnh tụ kính yêu xuất hiện trước đồng bào cả nước với bộ quần áo bạc màu, đơn sơ, trên ngực không một tấm huân chương.
Mấy chục vạn con người như hòa làm một, xướng lên lời thề kiên quyết làm theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đất nước thân yêu bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của nền độc lập, tự do và hạnh phúc.
VI
Chính quyền cách mạng mới thành lập, cần có nhiều thời gian xây dựng và củng cố. Vì vậy việc cần làm lúc bấy giờ là hòa hoãn với quân Tưởng cùng bọn Việt Quốc, Việt Cách. Tuy vậy, cầm đầu bọn Việt Quốc và Pháp đã cùng đến Việt Nam. Điều này không thể không chú ý tới.
VII
Trước tình hình rối ren, Trung ương Đảng và Bác Hồ nhận định kẻ thù lớn nhất lúc này chính là quân nước ngoài từ bốn phương đang ập tới, mục đích chính của chúng là muốn thôn tính Việt Nam và một lần nữa biến nhân dân Việt Nam thành nô lệ.
Trong buổi họp, Bác đề ra sáu nhiệm vụ cần phải giải quyết gấp. Cuộc họp diễn ra không mất quá nhiều thời gian, mặc dù rất nhiều vấn đề nhưng được Bác trình bày mạch lạc, ngắn gọn, ai ai cũng hiểu. Trung ương Đảng và các bộ, ngành bắt tay ngay vào việc xử lý các vấn đề trọng tâm, đặc biệt là quét sạch nạn đói và hoàn thành việc dạy chữ quốc ngữ cho nhân dân.
VIII
Sức khỏe bác tốt lên. Người thức khuya làm việc nhiều hơn, viết thư kêu gọi, viết báo cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân đang thực hiện các chính sách, chủ trương của Chính phủ, tham gia nhiệt tình vào các tổ chức cứu quốc. Mặc dù bận, nhưng Bác vẫn tiếp rất nhiều lượt khách, thậm chí là nhân dân, đồng bào. Trong cương vị của một người lãnh đạo, Bác vẫn giữ nếp sống, nếp làm việc thanh tao giản dị như những ngày hoạt động ở chiến khu.
IX
Tháng 9-1945, tình hình ở Nam Bộ trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Bọn Pháp đã nã súng vào đoàn người rước cờ đón ngày độc lập ở Sài Gòn. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân miền Nam đã bắt đầu. Trung ương quyết định tăng cường lực lượng vào Nam Bộ để cùng miền Nam chiến đấu, bước đầu đã giành được nhiều chiến công, chủ trương đánh du kích, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của kẻ thù.
Đoàn chiến sĩ Nam tiến bây giờ không còn là đội quân áo vải đơn sơ, mà đã được trang bị vũ khí tốt nhất thời bấy giờ, quân trang quân dụng, mũ ca lô đính sao vàng, áo trấn thủ, giày da. Cả đất nước sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ đấu tranh chống Pháp.
X
Bọn Tưởng sớm thể hiện việc vào Việt Nam không chỉ với mỗi lý do là giải giáp quân Nhật. Tuy vậy chúng vẫn điếng người khi ta đón quân đồng minh vào Việt Nam với tư cách là chủ nhân của một đất nước độc lập. Bọn tay sai như Nguyễn Hải Thần biết không dễ gì thao túng được nhân dân Thủ đô như cách chúng làm với nhân dân miền biên giới, nên chúng dùng thủ đoạn hèn hạ là lôi kéo các phần tử phản động, lưu manh trong đám quan lại cũ, nhằm tuyên truyền thông tin sai lệch phá hoại chính quyền. Khi đó, Bác vẫn bình tĩnh nhắc nhở anh em phải nín nhịn, kiên nhẫn, giữ hòa hoãn với Tưởng để tập trung mũi nhọn vào Pháp.
XI
Đảng nhấn mạnh chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi giữa ta và đồng minh, sau khi vạch ra được âm mưu của Pháp, Tưởng và quân đồng minh. Nhiệm vụ của Đảng đề ra là: “Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài; phối hợp chiến thuật du kích với phương pháp bất hợp tác đến triệt để".
XII
Đảng ta mới 15 tuổi đã giành được chính quyền. Đây là một niềm tự hào, niềm vui vô cùng to lớn. Vậy nhưng ta phải đối mặt với tình thế ngàn cân treo sợi tóc: quân xâm lược tranh nhau chen chân vào Việt Nam, tình hình tài chính rối ren với đủ loại tiền tệ trên thị trường khiến việc giao thương buôn bán bị ngưng trệ, dịch bệnh hoành hành mọi nơi.
Vấn đề cấp bách được đặt ra lúc này là phải củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng. Quỹ Độc lập được lập ra, trước mắt trông chờ vào sự đóng góp tự nguyện của đồng bào để giải quyết các chi phí cần thiết, nhất là chi phí cho quốc phòng. Tuy thời gian trước mắt còn nhiều khó khăn, nhưng quốc dân đồng bào vẫn có một niềm tin vững chắc vào Đảng và Chính phủ.
XIII
Trong cao trào cách mạng sôi nổi của toàn dân, vấn đề lúc này là tiếp tục vận động quần chúng vào những cuộc đấu tranh ngày một gian nan hơn. Trong các bức thư gửi nhân dân đồng bào, Bác đều nhấn mạnh việc phải tích cực, nhiệt tình tham gia vào các đoàn thể cứu quốc. Ở Thủ đô, việc củng cố vũ trang thu hút đông đảo các tầng lớp thanh niên, phong trào tòng quân sôi nổi khắp cả nước, các hội cứu quốc tấp nập đưa các hội viên của mình vào bộ đội. Bộ đội đi đến đâu cũng được dân thương dân quý. Các lực lượng vũ trang và quân đội ta ra đời trong hoàn cảnh đất nước gặp nạn ngoại xâm nhưng sớm trưởng thành, sớm lĩnh hội các phẩm chất, tư cách đạo đức cũng như nâng cao trình độ chính trị bằng sự giáo dục của Đảng, Bác Hồ, cùng sự luyện rèn trong khói lửa chiến tranh, sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của đất nước, dân tộc.
XIV
Nhiều năm sống ở Trung Quốc và hoạt động cách mạng bí mật giữa vòng vây quân thù, trải qua hàng chục nhà tù cùng cuộc sống khốn khó trong nhà lao, Bác hiểu hơn ai hết bản chất của bọn Quốc dân Đảng. Quyết sách của ta là hòa hoãn với Tưởng, tuy nhiên hòa hoãn với chúng không hề dễ dàng. Nhiều tên tướng lĩnh của Tưởng đến Việt Nam và tiếp cận Bác. Tuy nhiên khi gặp Người, được mắt thấy tai nghe những lời nói chắc nịch và sự cương quyết trong đôi mắt sáng ngời của Bác, chúng cũng phải kiêng nể, trong sâu thẳm có lẽ chúng cũng thừa hiểu số phận sau này của chúng sẽ ra sao nếu mãi ôm mộng thôn tính Việt Nam.
XV
Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Chính phủ lâm thời ban sắc lệnh tổ chức buổi tổng tuyển cử, bầu ra Quốc dân Đại hội. Bọn phản động tuyên truyền thông tin sai lệch, nói xấu chính phủ và biểu tình khiêu khích đều bị ta huy động lực lượng trừng trị ngay lập tức, không những thế, chúng còn gây áp lực khi không thể đàm phán với ta về việc cải tổ chính phủ. Ở miền Nam, kháng chiến chống Pháp ngày càng ác liệt.
XVI
Chính phủ lâm thời công bố cuộc tổng tuyển cử sẽ diễn ra ngày 6-1-1946. Vẫn thực hiện quyết sách hòa hoãn với Tưởng, ta phải cho Nguyễn Hải Thần giữ ghế Phó Chủ tịch và Bộ Kinh tế cùng Bộ Vệ sinh cho Việt Quốc, Việt Cách.
XVII
Hà Nội tưng bừng chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử đất nước. Mặc cho bọn Việt Quốc mang cả súng ra để ngăn không cho đặt hòm phiếu, cử tri vẫn dũng cảm thực hiện quyền công dân của mình. Khẩu hiệu, biểu ngữ giăng khắp các đường phố, từ nông thôn đến thành thị không giấu nổi mừng vui. Cuộc Tổng tuyển cử này có ý nghĩa chính trị và lịch sử vô cùng to lớn, vì để có được lá phiếu của độc lập, tự do cầm trên tay, dân tộc đã phải đánh đổi bằng mồ hôi xương máu của bao con người.
Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ứng cử ở Hà Nội và thu được 98.4% trên tổng số phiếu bầu.
XVIII
Giữa tháng 1-1946, tôi được cử vào miền Nam công tác ít ngày. Trung ương Đảng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam trung bộ và Nam bộ để bảo vệ chính quyền non trẻ. Dọc đường đi, tôi gặp khá nhiều những đoàn quân Nam tiến, hầu hết là các thanh niên mặt mũi trẻ măng.
Về đến Huế, đã thấy hừng hực không khí kháng chiến, Huế lúc này là hậu phương trực tiếp của nhiều mặt trận, người người, nhà nhà đều dốc lòng chăm lo cho kháng chiến. Quan lại triền Nguyễn giờ đã trở thành những công dân bình thường. Tôi ở lại Huế cùng anh em thực hiện chỉ thị của cấp trên, đề phòng Pháp mở rộng chiến tranh ra cả miền Trung.
XIX
Suốt dọc đường đi vào từ miền Bắc, tôi dừng chân ở đâu cũng nhận được lời hỏi thăm của đồng bào về Bác. Càng đi về phía Nam, không khí chiến đấu càng sôi nổi. Từ Quảng Nam, Quảng Ngãi cho đến Bình Định, đâu đâu cũng gặp người cách mạng, từ phong trào tòng quân cho đến những người công nhân ngày đêm chế tạo, sửa chữa vũ khí để dùng trong kháng chiến. Tôi vào đến Khánh Hòa thì Bác gọi quay ra Bắc. Lúc này đã là những ngày giáp tết. Dừng chân ở Huế, tôi cùng đón giao thừa và cái tết độc lập đầu tiên với đồng bào nhân dân Huế.
XX
Khi đọc thư chúc tết của Bác, ai cũng nghĩ là Bác viết cho mình. Những lời lẽ giản dị, chân tình mà cũng đầy sâu sắc khi nói về các chiến sĩ đang ở ngoài mặt trận. Đường phố Hà Nội rợp bóng cờ hoa đón mùa xuân độc lập đầu tiên. Đêm giao thừa, Bác lặng lẽ đi thăm một số gia đình ở Hà Nội, từ nhà của một công chức, nhà của người có công với cách mạng, nhà của người lao động nghèo… Những việc làm này đã trở thành thói quen trong tất cả những đêm giao thừa về sau của Bác. Nó đã trở thành một thói quen trong cuộc sống giản dị mà vĩ đại của Người.
XXI
Tôi trở lại Hà Nội vào lúc đồng bào đang xôn xao vì quân Pháp đã tràn lên Lai Châu. Trao đổi với phái bộ Pháp, ta vẫn giữ vững lập trường: điều tiên quyết là Pháp phải công nhận độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Khi ấy, bọn Việt Quốc có những hành động chống phá dữ dội. Nhưng đáp lại những hành động ngang ngược, những cuộc biểu tình, phá hoại của bọn phản động, nhân dân Thủ đô vẫn kiên định với niềm tin sắt son vào Đảng và chính phủ, cứng rắn trừng trị bọn chúng.
XXII
Để nhân dân hiểu rõ được khó khăn của tình hình hiện tại mà không ảnh hưởng đến ý chí chiến đấu, Bác đã viết bài đăng báo với nội dung trấn an đồng bào, khuyên nhân dân nên bình tĩnh không được dao động trước những âm mưu xảo trá, nguy hiểm của kẻ thù. Đây chính là lời cảnh báo cũng như hiệu triệu cả nước sẵn sàng vùng lên bất kỳ lúc nào để dẹp tan quân xâm lược đang bủa vây tứ phía. Song song với lời của Bác, công cuộc chuẩn bị kháng chiến được tiến hành ở khắp mọi nơi. Các lực tượng vũ trang, tự vệ được củng cố, trẻ em và người già nhanh chóng sơ tán về các vùng nông thôn hoặc ATK.
Ngày triệu tập Quốc dân đại hội sắp tới, bọn Việt Quốc hống hách đòi ta nhượng cho bảy trong mười bộ của Chính phủ, cùng các chức vụ quan trọng khác.
XXIII
Xã hội Việt Nam có chuyển biến sâu sắc, ảnh hưởng tích cực đến kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, khiến cho hàng ngũ tướng tá Pháp cho rằng bản tuyên bố của De Gaulle trước đó đã không còn phù hợp. Âm mưu mới của Pháp sẽ là quay lại miền Bắc, tuy nhiên chúng vẫn dè chừng khi miền Bắc vẫn có sự tồn tại của quân Tưởng.
XXIV
Trong cùng một khoảng thời gian, địch mở những cuộc tấn công trên nhiều phương diện. Cách mạng Việt Nam bị đẩy vào tình thế khó khăn vô cùng. Trước đây ta còn lợi dụng sự mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tập trung đánh Pháp, nhưng hiện tại chúng lại thỏa thuận với nhau để chống lại ta. Kế hoạch này đã được Bác và Trung ương Đảng hiểu rõ, và đồng bào cả nước đã sẵn sàng cho cả trường hợp xấu nhất, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến đầy gian nan và thử thách.
XXV
Quốc dân đại hội diễn ra sớm hơn dự kiến 1 ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại đại hội, nêu rõ những thuận lợi và thách thức của chính phủ mới, đồng thời nhấn mạnh gánh nặng của Quốc hội và chính phủ trong tình hình mới, và khẳng định kháng chiến nhất định sẽ thành công.
Danh sách Chính phủ lâm thời được Quốc hội thông qua, trong đó ta vẫn giữ lời hứa với bọn Nguyễn Hải Thần và Việt Quốc, Việt Cách về những thỏa thuận nhượng quyền, chức trong chính phủ. Đại hội kết thúc, các cán bộ phải quay lại địa phương để chuẩn bị cho kháng chiến có thể nổ ra rộng khắp bất kỳ lúc nào. Trong những giờ phút sinh tử khó khăn, Bác vẫn truyền cho mọi người tinh thần đoàn kết, sự lạc quan, niềm tin tưởng vào tương lai.
XXVI
Các cuộc đàm phán của ta và Pháp vẫn không đi đến thống nhất chung. Bác vẫn giữ thái độ kiên quyết và nhận định ngắn gọn: điều cần nhất lúc này là chuẩn bị, bình tĩnh và giữ vững tinh thần. Pháp và Tưởng cũng không thỏa thuận được với nhau, nếu gặp nhau chắc chắn có va chạm. Trước việc này, Ủy ban kháng chiến toàn quốc ra lời kêu gọi đồng bào đứng dậy chống giặc.
XXVII
Bác lập tức tỏ thái độ cương quyết trong mọi cuộc đàm phán, lập trường kiên định là các bên phải công nhận và tôn trọng nền độc lập cùng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tuy nhiên Pháp vẫn ép ta phải nhận Việt Nam là một nước “tự trị”, vì thế, nếu nhận là “tự trị” thì có nghĩa từ bỏ một phần máu thịt đã phải mất bao công sức mới giành được độc lập, đó là Nam bộ. Do đó, mọi cuộc đàm phán với Pháp đều không đi đến thỏa ước chung mà có lợi cho đôi bên.
XXVIII
6-3-1946, bản Hiệp định sơ bộ được ký kết. Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do. Bản Hiệp định này có ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó là bản thỏa ước ta ký với nước ngoài trên tư cách là một quốc gia độc lập. Kẻ đầu tiên công nhận Việt Nam độc lập lại chính là kẻ mà hơn nửa thế kỷ trước đã tước đoạt quyền độc lập của dân tộc ta với bản Hòa ước sỉ nhục ký với nhà Nguyễn năm 1883. Tuy rằng ta mới chỉ thành công bước đầu, mà cuộc chiến còn nhiều gian khổ, nhưng Bác đã cương quyết khẳng định rằng Việt Nam sẽ kiên trì đi đến thắng lợi cuối cùng.