Trung tuần tháng 8/1968, Sau hai đợt tổng tiến công của ta, về cơ bản Mỹ đã ở thế thua, suy yếu nhanh chóng, dao động mạnh về chính trị và chiến lược. Chúng định thông qua thương lượng kết hợp với áp lực quân sự trên chiến trường nhằm tìm kiếm một giải pháp chính trị cho miền Nam để chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt.
Trước khả năng địch ngừng ném bom đánh phá miền Bắc, trong điện ngày 2/10/1968 gửi Bộ Tư lệnh Bảo đảm giao thông vận tải Khu 4 và Bộ Tư lệnh Đoàn 559, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã nhận định, địch xuống thang chiến tranh, ngừng đánh phá từ vĩ tuyến 19 trở ra là một âm mưu lớn của chúng, nhằm tập trung đánh phá ở Khu 4. Ta dự kiến, trước khi ngừng ném bom toàn bộ miền Bắc, địch sẽ tập trung đánh phá ác liệt trên địa bàn Khu 4 và sau này địch vẫn có thể đánh phá trở lại.
Đúng như dự kiến của ta, ngày 1/11/1968, Tổng thống Mỹ tuyên bố ngừng ném bom đánh phá trên toàn bộ lãnh thổ miền Bắc. Đặc điểm tình hình hiện nay là Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc; cục diện vừa đánh, vừa đàm đã phát triển thêm một bước mới; thái độ của Thiệu - Kỳ rất ngoan cố; mâu thuẫn giữa Mỹ và ngụy cũng như mâu thuẫn trong nội bộ ngụy quyền thêm sâu sắc. Trước tình hình đó, khả năng đẩy mạnh công kích, khởi nghĩa, kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị và binh vận ở trình độ cao đã xuất hiện rõ rệt. Chúng ta đang đứng trước thời cơ rất lớn.
Ở miền Nam Việt Nam, mâu thuẫn giữa Mỹ và ngụy tiếp tục phát triển, nội bộ ngụy quyền phân hoá mạnh. Trước tình hình đó, một mặt Mỹ vẫn chủ trương dùng Thiệu - Kỳ, nhưng đồng thời chuẩn bị một số "con bài" dự phòng để thay thế khi cần.
Cùng với việc ngừng ném bom miền Bắc, Mỹ điều chỉnh lực lượng từ Trị - Thiên và Đà Nẵng vào tăng cường cho Vùng 3, tăng cường đánh phá nhằm cản trở chiến dịch tiến công của ta vào các thành phố, nhất là Sài Gòn; mở rộng việc gom dân, giành ấp; tăng cường củng cố ngụy quân, ngụy quyền, cố gắng giữ tổng số ngụy quân ở mức 55 vạn; làm kế hoạch xây dựng lực lượng quân ngụy và kế hoạch kinh tế miền Nam 3 - 10 năm sau chiến tranh; tập trung đánh phá hành lang vận chuyển của ta và duy trì áp lực khiêu khích đối với miền Bắc.
Tuy nhiên, về cơ bản địch chưa nắm được chủ trương chiến lược đông xuân 1968-1969 của ta. Với kết quả chỉ đạo các chiến trường hoạt động thường xuyên và chuẩn bị cho đợt cao điểm suốt mấy tháng qua và với kết quả kết luận mới nhất về âm mưu và chủ trương chiến lược của địch, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp cùng Tổng hành dinh hoàn toàn yên tâm khi các chiến trường toàn miền Nam bước vào đợt tiến công chiến lược cuối cùng trong năm 1968.