1. Từ bên trụ cầu số chín, cậu Khuể, tổ trưởng máy khoan cọc nhồi số hai, gọi vào bộ đàm cho Lượng:
- Báo cáo anh, có sự cố rồi ạ?
- Sự cố gì thế? Lại gặp hang caste nữa sao? Liệu có nghiêm trọng không? - Lượng lo lắng hỏi.
- Báo cáo, mũi khoan chạm sắt. Khả năng là một khối sắt lớn ạ...
Lượng thấy lo lắng. Đã đi qua mùa mưa, công trường đang đẩy nhanh tốc độ khoan cọc nhồi. Cứ nhịp độ mỗi tuần, mỗi tổ khoan cho đổ bê tông một cọc nhồi, thì mùa hạ tới, có thể hoàn thành các trụ cầu. Và mùa thu, có thể triển khai thi công các dầm cầu bê tông đúc hẫng. Khi đó, công việc đa phần chỉ làm trên không, thuận lợi hơn dưới nước nhiều. Số cọc nhồi trụ cầu số chín đã gần hoàn tất trọn vẹn. Ngỡ là đầu xuôi đuôi lọt. Ai ngờ, mũi khoan cọc nhồi cuối cùng, lại gặp sự cố.
Lượng leo lên con tàu kéo, sang sà lan bên kia. Trong khi lòng dạ Lượng héo hon rầu rĩ, cánh thợ khoan ở đây lại nhảy múa tưng bừng.
- Thưa anh, chúng ta trúng to rồi! Hì hì... - Một thợ khoan nói.
- Cụ thể thế nào? Trúng cái chi to? Cậu nói lại coi? - Lượng vẫy sang cậu Khuể nói.
- Dạ, báo cáo, mũi khoan đang múc bùn, sâu chừng một mét, thì gặp vật cứng. Kiểm tra gàu khoan cho thấy, vật cứng là sắt ạ!
- Báo cáo anh - Một thợ khoan mau miệng giải trình - Đường kính mũi khoan hai mét. Và miệng gàu va chạm, cho biết đấy là một khối sắt không nhỏ!
- Có thể đấy là một con phà, hay một chiếc ô tô! Bị bom đánh chìm? - Một thợ khoan khác đế theo.
- Biết đâu được, đấy là một chiếc xe tăng, hay một khẩu cao xạ pháo, hoặc lựu pháo 105 ly? - Lại một ý kiến khác chen vào.
- Dẫu sao, đơn vị ta trúng to. Phà, xe tăng, hay đại pháo, bán sắt vụn, chí ít cũng được một bữa liên hoan ra trò cho cả công trường. Hỉ?
Ai nấy vỗ tay reo hò tán thưởng. Công việc khoan ở đây tạm dừng. Lượng lên bờ, đi thẳng vào văn phòng giám đốc.
Ông Thông nghe Lượng báo cáo, mặt đang tươi tỉnh, chợt buồn thiu. Sao cuộc đời cứ phải buồn vui xâu chuỗi cho được? Niềm vui chưa kịp no tháng trước, nỗi buồn đã ám ngay trước mặt! Bất kể dưới đó là cái gì, thì công ty ông cũng mất toi mấy ngày khoan.
Ông cho lập biên bản vụ việc ngoài dự toán. Và điện ngay cho Tổng giám đốc Thủy báo cáo tình hình sự cố và hướng xử lý. Ông Thủy còn đi kiểm tra tiến độ ở nhánh đường phía tây, không liên lạc được. Ông nhờ Doanh liên hệ và báo cáo giúp về sự cố ở cầu Long Sơn. Đoạn, ông điện cho công ty nạo hút bùn ở thành phố. Tiếp liền, ông điện mời cánh thợ lặn sáng mai có mặt.
Mặc tâm trạng không vui của những người có trách nhiệm, tin tổ khoan cọc nhồi số hai khoan trúng vật sắt cứng khá to, loan đi rất nhanh. Tối, cả công trường đã râm ran bàn tán. Vẻ mặt ai cũng phấn khởi. Một số hình dung sẽ bán được vài ba tấn sắt vụn, lấy tiền liên hoan. Đây đích thị là trời cho. Một số khác hiếu kỳ, háo hức muốn biết cái khối sắt thép ấy là cái gì. Họ hết tưởng tượng xe tăng, sang tưởng tượng máy bay. Và thêu dệt nên những câu chuyện kỳ bí, hấp dẫn về khối sắt thép dưới bùn.
Người tưởng tượng xe tăng thì cho rằng, ngày xưa, khi các sà lan chở tăng từ cửa biển Nhật Lệ ngược sông đi lên. Đáng lẽ sà lan áp mạn bờ nam, phía dưới con đường sắt. Từ đó, tăng nổ máy đi sang trái, leo lên con đường đã dọn sẵn cho nó. Nhưng có một lần, do con tàu kéo sà lan trúng đạn, chết máy. Chiếc sà lan chở tăng trôi tự do, ngược sông theo thủy triều đang dâng. Đến đây, nó trúng phải bom tọa độ đánh chìm. Như thế, dưới đó, có cả sà lan và xe tăng...
Những người phỏng đoán dưới đó là xác máy bay Mỹ, thì cho rằng, bến phà Long Sơn xưa, có địa thế rất hiểm. Nó nằm sát chân dãy Long Sơn chọc trời. Ban đêm phà hoạt động. Ban ngày phà kéo lên phía thượng nguồn, ngụy trang ẩn nấp, trú tránh dưới những rặng cây cổ thụ ven bờ sông. Kẻ địch rất khó phát hiện. Nhưng sau nhiều năm trinh sát, chúng tìm ra nơi ẩn nấp của những con phà. Và một lần, chúng quyết tâm tổ chức đánh chìm cho bằng được. Chúng không thể bổ nhào theo hướng vuông góc dòng sông. Vì ngọn Long Sơn như con rồng núi trương vẩy lên trời. Máy bay chưa kịp cắt bom, đã bị các đỉnh lèn chọc cho tan xác. Chúng chỉ còn mỗi cách duy nhất, là bay thấp, lượn dọc theo sông. Nhưng chúng không ngờ, hỏa lực phòng không hai bờ dày đặc. Một tên trúng đạn chỗ hiểm, không kịp ngóc lên được nữa. Đành chịu cắm đầu xuống ngay bến phà...
Đêm, ông Thủy nhận được điện của Doanh, báo cáo về sự cố mới gặp phải ở cầu Long Sơn. Ông cười cho rằng, đó là một chiếc ô tô nào đó sót lại. Bến phà Long Sơn địa thế hiểm. Cắt bom hay phóng hỏa tiễn trong đêm rất khó chính xác. Ít khi bom đánh trúng phà. Thời ông còn ở đó, không đêm nào không có xe trúng đạn, bốc cháy. Nhưng đa số đang chờ ở hai đầu bến phà. Và đều được cứu chữa kịp thời để thông đường. Chỉ hãn hữu những lần, bom không trúng phà, nhưng nổ cách phà không xa. Áp lực của nó mạnh đến nỗi, hắt xe văng ra khỏi phà. Rơi xuống đáy sông sâu...
*
Người ta càng thêu dệt hấp dẫn bao nhiêu, lượng người hiếu kỳ, háo hức chờ đợi đông bấy nhiêu. Sáng hôm sau, khi con tàu hút bùn vào vị trí, người ở dưới các sà lan, ở các tàu kéo, và ở trên bờ chong mắt nhìn xuống. Con tàu hút bùn sục các vòi cao su xuống sông sâu. Giây sau, một cột bùn lẫn nước đen ngòm tuôn ra phía đối diện. Con tàu di chuyển rất chậm. Dòng sông phía bên kia thân tàu đục ngầu.
Độ một giờ sau, con tàu dừng hút bùn, nhường chỗ cho một thợ lặn. Mọi người nín thở hồi hộp. Mười lăm phút sau, người thợ lặn ngoi lên. Anh ta leo lên sà lan, từ từ cởi bỏ đồ lặn. Chưa vội nói gì, anh chàng tiếp tục mặc quần áo khô. Anh ta nhếch mép cười một mình. Cố kéo dài sự hồi hộp của mấy chục con tim thoi thóp ngóng chờ. Trật lất cả! Không phải con phà. Không phải ô tô. Cũng không phải xe tăng, hay một chiếc máy bay F4H như nhiều phỏng đoán. Đợi lúc giám đốc Thông không chịu được sốt ruột, anh ta mới lấy vẻ nghiêm túc nói:
- Báo cáo giám đốc. Đó là một chiếc ca nô! Nằm ở độ sâu hơn một mét. Máy hút bùn hút rộng ra phía ngoài một lúc nữa, là có thể trục vớt được nó.
- Trong ca nô có thấy gì không? - Ông Thông gặng hỏi.
- Báo cáo, một ca nô đong đầy mặp, toàn bùn là bùn!
Nghe thợ lặn nói đến một ca nô đầy mặp bùn, những bộ óc giàu tưởng tượng và giỏi thêu dệt, bỏ đi tất. Kéo theo cả những bộ óc hiếu kỳ rời khỏi hiện trường trong lặng im. Chỉ còn những người có trách nhiệm. Tàu hút bùn hoạt động nới rộng. Tạo một hố sâu quanh chiếc ca nô. Thợ lặn lại xuống kiểm tra lần chót đáy vũng sâu. Và cho biết, có thể trục vớt được ngay chiếc ca nô.
Lượng ra lệnh cho con tàu kéo sà lan bấy lâu, đi chuyển vào vị trí thích hợp. Sau khi con tàu hút bùn hết nhiệm vụ. Từ đuôi con tàu kéo, nhả ra một cuộn dây cáp có gắn chiếc móc thép lớn hình lưỡi câu. Thợ lặn lại một phen xuống đáy sông. Anh ta tìm được một chỗ vững chắc để đẩy móc sắt vào. Và lại trồi lên ở sà lan. Máy bộ đàm của Lượng vang lên. Người lái chiếc tàu kéo từ từ cho tàu chạy. Sợi cáp to như bắp tay từ từ kéo căng. Và giây sau, một khối đen ngòm, trôi theo giữa dòng sông. Con tàu kéo đưa nó vượt ra khỏi khu vực thi công, lên phía thượng nguồn. Rồi đi dần vào bến sông, cạnh một doi cát dài, dưới chân núi Hàm Rồng. Từ đây, một chiếc tời khỏe, kéo chiếc ca nô đầy mặp bùn, trượt lên bãi cát.
Dưới sông, Lượng ra lệnh cho tổ khoan cọc nhồi số hai, bắt tay ngay vào công việc. Anh quay lại, cùng Giám đốc Thông lên bờ. Họ đi về phía chiếc ca nô hoen gỉ và tanh nồng mùi bùn. Chiếc ca nô được kéo lên bãi cát, cách mép nước dăm bước chân. Không biết chiếc ca nô chìm thời nào, chống Pháp hay chống Mỹ? Hai người đi một vòng quanh nó, ước lượng số sắt vụn.
Đêm, ông Thông điện được cho ông Thủy.
- Báo cáo anh - Ông Thông nói - Đã trục vớt được chiếc ca nô, trọn vẹn và an toàn ạ. Cũng mất một ngày trời đấy...
- Cậu cứ lập biên bản. Và những chi phí phát sinh do trục vớt...
- Thưa anh, ta xử lý chiếc ca nô gỉ hoét này thế nào ạ?
- Cái này, chắc nằm dưới bùn sâu hơn ba mươi năm rồi ấy, nhể? Mình đoán nó là ca nô kéo phà, bị bom đánh chìm!
- Có lẽ thế, anh ạ.
- Cái đó, cậu cũng chẳng cần báo cáo báo chồn gì nữa đâu. Chỉ lập hội đồng cho bán sắt vụn...
- Dạ vâng! Cám ơn anh! Em sẽ giao cho bên công đoàn của công ty...
Ông Thủy vừa cúp máy, đã có chút giật mình. Thời ấy, ca nô là sinh mệnh của một tuyến đường chiến lược. Vì đêm đêm, nó cõng những chuyến phà đầy ắp xe cộ và lính tráng vào Nam. Nó được giữ gìn, bảo dưỡng và thu giấu cẩn mật. Nếu bị bom đánh chìm, thì lập tức được trục vớt, sửa chữa ngay. Suốt những năm ông ở đấy, không bị chìm và đánh mất chiếc ca nô nào. Vậy chiếc ca nô này ở đâu ra? Thời trước ông và sau ông, có chiếc nào bị đánh chìm không? Chắc có tài liệu nào đó ghi chép. Nhưng ai đi lục tìm cứ liệu bây giờ? Vả lại, nó đã thành sắt vụn, tìm làm gì nữa. Chiến tranh mà, ông chậc lưỡi, tất cả sẽ qua đi. Biết bao điều hệ trọng khác trong chiến tranh, cũng qua đi theo thời gian...
2. Tin công nhân cầu Long Sơn bán sắt vụn chiếc ca nô trục vớt được, có hai người đến hỏi mua. Một thanh niên tuổi trạc ba lăm. Và một bà buôn béo phục phịch, tuổi trạc năm mươi. Người thanh niên xem xét kỹ càng. Lấy búa gõ trước gõ sau. Ra bộ, anh ta mua về sửa chữa thành máy chi đó. Nhưng phải mua giá phế liệu, may ra mới có lãi. Còn người đàn bà tỏ ra rất sành ỏi. Bà ta vần khó nhọc cái mông núc ních một vòng quanh chiếc ca nô. Đoạn ra một giá chắc nịch. Bảo cậu thanh niên trả hơn được thì lấy. Bà sẵn sàng nhường.
Người thanh niên nghe bà hô giá vậy, thì khẽ cười. Lắc đầu bỏ đi. Người đàn bà quay lại Giám đốc Thông, bảo:
- Anh thấy chưa! Ngó rứa mà không dễ ăn mô! Phải mất một buổi súc nước rửa sạch bùn. Sau đó dùng khò xả ra. Cái này mới đưa dưới bùn lên, thì nom vậy đó. Nhưng để trên cạn mười hôm, gỉ vàng đổ từng mảng như bánh tráng đó. Nỏ còn được mấy sắt vụn mô!
Lão Thông khẽ gật đầu xác nhận. Lòng thầm cảm phục sự hiểu biết của bà ta. Hai người thỏa thuận xong, ông xin phép đi theo công việc. Để việc tiếp theo cho chủ tịch công đoàn cơ quan. Thế là coi như giải quyết xong sự cố chiếc ca nô...
Chiều, Giám đốc Thông đang cắm cúi trong phòng làm việc, chợt nghe tiếng thét thất thanh ngoài bến sông. Ông nhìn ra, đã thấy bà buôn sắt vụn bươn bả chạy vào. Bà càng cố chạy nhanh, thì càng thấy chậm lại. Cái mặt bự phấn đổ chàm. Miệng mũi chen nhau thở hồng hộc:
- Có người... chết... Có người... chết... - Bà lao vào Giám đốc, như sợ ma người chết đang chạy đuổi theo.
- Ai chết? Chết ở đâu... - Giám đốc Thông thất sắc, líu lưỡi vặn hỏi. Nghe nói đến chết người là ông xanh mắt, sợ dính tai nạn lao động.
- Không... biết! Trong ca nô... - Vừa thở hổn hển, bà vừa nói không ra hơi.
Bà ta lạch bạch chạy theo ông Thông ngược ra bến sông. Chiếc ca nô đã được kéo đổ nghiêng. Hai thanh niên giúp việc cho bà đang dùng vòi bơm nước súc sạch bùn trong lòng ca nô. Những vòi nước phun rất mạnh. Nước bùn trôi ra, đen cả bãi cát.
Hai thanh niên đã dừng việc phun nước khi phát hiện xương người. Họ kéo ông Thông đến gần, và chỉ cho ông bộ xương trong buồng lái ca nô. Ông Thông thốt giật mình. Ông nhập ngũ nhưng đã tham gia đánh trận nào đâu, nên chưa thấy người chết kiểu ấy bao giờ. Hơn nữa, ông cũng chưa khi nào thấy được bộ xương người nguyên vẹn trắng hếu như vậy. Ông cho gọi Luân Trương Phi và cậu Tuấn lái xe đến ngay.
- Hai người về nhanh thành phố - Ông Thông căn dặn - Mua gấp tiểu sành, cờ vải đỏ, rượu, hương, hoa...
Lão Luân nghe Giám đốc căn dặn, thì đã hiểu sự thể. Lão đến sát mép ca nô, kiễng chân nhìn vào buồng lái. Một bộ xương sau khi rửa trôi bùn, đã lộ ra. Ông hiểu là phải làm gì. Hai người chạy gấp ra xe, nổ máy đi về thành phố.
Giám đốc Thông run tay quay điện thoại cho Tổng giám đốc Thủy. Ông Thủy đang ở Hà Nội. Nghe tiếng ông Thông nói, ông Thủy khẽ quát:
- Cậu bình tĩnh nói xem nào! Gì mà hốt hoảng lên thế?
- Báo cáo anh, có... người chết ạ...
- Ai chết? Chết ở đâu... Bị tai nạn lao động, hả? Các ông là chúa chủ quan! - Ông Thủy hốt hoảng quát lại trong máy.
- Dạ không... Không phải tai nạn lao động... Có người chết... trong ca nô!
- Ca nô nào? Có phải ca nô mới trục vớt không?
- Dạ phải! Nguyên vẹn một bộ xương người...
Đầu dây kia, ông Thủy cố nén tiếng thở ra. Ông thốt rùng mình. Một cái gì lạnh toát chạy dọc sống lưng ông. Hai thái dương buốt rức, tựa thể tóc gáy ông đang dựng ngược. Và một cái gì đó nữa, vỡ nát trái tim ông. Không lẽ ca nô của cậu ta? Ai cũng thấy cậu ta cùng chiếc ca nô bay về trời kia mà! Ông Thủy nói rành rọt từng tiếng vào máy:
- Cậu tổ chức khâm liệm chu đáo. Và quàn theo nghi thức một người anh hùng hy sinh nơi chiến trận. Báo cáo với ngành chức năng tỉnh sở tại. Tổ chức lễ an táng trang trọng. Có tiêu binh hẳn hoi. An táng tại nghĩa trang của ngành giao thông vận tải. Chỗ tôi và cậu đi dâng hương lần trước ấy...
- Báo cáo anh, an táng vào khu liệt sĩ vô danh?
- Ấy không! Không được! Đó là cậu Phan Vững, đơn vị tôi đấy! À, hỏi xem ai biết, thì mời người nhà cậu ấy...
*
Lão Luân Trương Phi tỏ ra có nghề trong việc cất bốc và cải táng mồ mả. Ông cầm ra một cái chậu lớn. Lách mình vào buồng lái chiếc ca nô. Ông ngồi xuống cẩn thận. Nhặt nhạnh từng cái xương một. Từng đốt tay đốt chân đã bị bong rời. Nước đẩy, xương nhỏ bong rời, lặn xuống phía dưới đáy thùng sắt buồng lái. Xong, ông bê chậu hài cốt ra bãi cát, đổ ngập rượu. Ông dùng vải màn lau từng cái xương một. Mùi rượu ướp xương, át cả mùi tanh của bùn. Lần lượt, những cái xương được tắm rửa bằng rượu, đặt vào đúng vị trí, trong tư thế của một con người nằm. Trên một tấm vải mới, trắng tinh. Không thiếu một đốt nào.
Ông đứng dậy nghiêm trang nhìn bộ xương. Thắp ba cây hương cắm lên phía trên đầu. Đây là hài cốt một người đàn ông cao lớn. Hẳn là anh ta hy sinh khi đang cầm lái chiếc ca nô này. Giám đốc Thông thấy ớn rét trong người. Chiến tranh đi qua gần ba mươi năm, vẫn như mới hôm qua. Người lái ca nô như vừa ngã xuống. Ông bước đến, đứng nghiêm trang dưới chân người quá cố. Vái lạy kính cẩn vào bộ xương. Bắt chước ông, những người có mặt đều kính cẩn vái lạy. Cuối cùng là bà buôn sắt vụn cùng đám tay chân. Bà khấn rất lâu. Tuồng như bà tin rằng, đây là một may mắn. Một điềm lành. Không mấy ai đi mua phế liệu, lại được luôn cả bộ hài cốt liệt sĩ. Một anh hùng! Bà đến khẩn khoản, nài nỉ Giám đốc Thông, xin được đóng góp toàn bộ mai táng phí. Ông Thông cảm động trước tấm lòng của bà, gật đầu đồng ý cho bà toại nguyện...
Lão Luân trải tấm vải điều vào lòng tiểu sành. Vẩy rượu lên bốn phía. Đoạn, lần lượt sắp từng chiếc xương vào tiểu. Xong, cuốn hai mép vải điều lại. Và đậy nắp tiểu. Ông cẩn thận đánh dấu phía đầu và phía chân. Đoạn, ông dùng băng dán cỡ lớn, dán kín bốn phía khe hở miệng tiểu. Sau đó, chiếc tiểu sành được gói bọc bằng một lớp vải điều, thành một khối chữ nhật vuông vức. Sau cùng, nó được phủ một lá cờ đỏ sao vàng mới tinh. Lão Luân một bên, Giám đốc Thông một bên, bước đều chân, bê chiếc tiểu sành đi chầm chậm. Như bê một cỗ quan tài con. Theo sau là những người có mặt trên bến sông.
Quan tài được quàn trong phòng giám đốc. Ở đó, người ta đã trang hoàng cẩn thận. Chiếc tiểu phủ cờ đỏ được đặt trên cái bàn cao cũng phủ vải đỏ. Sau cùng, một chiếc đèn dầu cháy ngọn hạt đỗ được đặt lên trên tiểu sành. Hương, hoa, nến, cũng kính cẩn tỏa mùi hiếu đễ. Theo lời ông Thủy, ông Thông cho kẻ dòng chữ Liệt sĩ Phan Vững, dán lên đầu tiểu sành. Mọi người, trừ các tổ khoan cọc nhồi thay phiên nhau, lần lượt đi vòng quanh hài cốt người quá cố. Thắp nén hương tri ân người anh hùng hy sinh trên bến phà này, vừa muộn màng tìm được hài cốt...
Đến giờ, làm lễ truy điệu, xe chở lính tiêu binh và đoàn quân nhạc kịp có mặt. Ai nấy quân phục trắng có ngù vai rất đẹp. Theo điện của Tổng giám đốc Thủy, người chỉ huy đơn vị thanh niên xung phong ở bến phà Long Sơn xưa, các ngành chức năng đã hiểu được trường hợp hy sinh của liệt sĩ Phan Vững. Và tổ chức trang nghiêm lễ an táng cho người hy sinh mới tìm được hài cốt.
Mấy vị đại diện ngành chức năng, đến bắt tay Giám đốc Thông. Mọi người kính cẩn xếp hàng trước sân. Giám đốc Thông trịnh trọng, run run đọc lời tri ân người anh hùng liệt sĩ, như một bài điếu văn. Ông không quên cầu mong hương hồn những người ngã xuống trên bến phà Long Sơn lịch sử năm xưa, phù hộ cho những người thi công cầu bê tông vĩnh cửu hôm nay, được mọi điều an lành và thuận lợi. Đoàn quân nhạc cử những giai điệu bi tráng và trầm hùng. Chiếc tiểu sành được các tiêu binh kính cẩn chuyền tay đưa lên xe.
Xe quân nhạc đi trước. Tiếp đến xe tiêu binh ngồi hai hàng, quay mặt vào chiếc tiểu sành đặt trên chiếc ghế cao chính giữa lòng xe. Nối sau là xe Giám đốc Thông, xe quan khách, và một đoàn dài xe máy...
Đoàn xe đi theo hướng nam. Qua cầu sắt thì rẽ trái. Chưa đầy nửa tiếng sau, đã đi vào nghĩa trang của ngành giao thông vận tải, do chính Tổng công ty Ánh Dương đầu tư xây dựng và tu bổ. Ở đó, bộ phận đào huyệt và cánh thợ nề đã chuẩn bị mọi điều cần thiết. Một bia đá mang tên liệt sĩ Phan Vững đã được khắc từ hôm qua. Chiếc tiểu sành được các tiêu binh chuyền tay, kính cẩn đặt vào dưới lòng mộ. Quân nhạc cử khúc Hồn tử sĩ. Mọi người đứng hai bên cúi đầu. Quân nhạc cử sang Khúc quân hành, cát được vốc bỏ vào lòng huyệt. Xong, mọi người đi vòng, lần lượt dâng hương lần cuối. Lễ an táng kết thúc, trong chiều lạnh se se...
Giám đốc Thông và Luân Trương Phi ở lại sau cùng. Hai người đứng chờ cánh thợ nề hoàn tất phần xây mộ. Và dựng xong tấm bia đá. Hai người đặt hoa, thắp hương. Và kính cẩn khấn vái lần cuối, hồi lâu.
Khi trở về, cả hai ngạc nhiên, không thấy mặt Lệ Thu đâu. Từ hôm qua, khi lão Luân sắp từng mẩu xương lên tấm vải trắng, theo thế người đang nằm, Lệ Thu có đến thắp hương vái lạy. Rồi sau đó mất hút. Trên lịch trực, cũng không có tên cô nàng...
3. Ông Thủy lại mất ngủ. Cứ chạm đến bất kỳ cái gì thuộc về quá khứ bến phà Long Sơn, vật thể hay phi vật thể, đều làm ông mất ngủ. Thậm chí đêm nay còn thổn thức hơn. Việc tìm được chiếc ca nô, và hài cốt cậu Phan Vững vùi trong đó, ngần ấy năm dưới bùn, đã làm ông mừng vui và đau nhói. Chỉ có ông mới thấm thía nỗi niềm ứa máu này...
Ngoài cái cơ thể cao lớn như nhau, vóc dáng như nhau, Phan Vững có gì hơn ông đâu? Thậm chí, ông còn có nhiều cái nổi trội hơn cậu ta. Ông là chỉ huy. Ông là anh hùng. Vậy mà, cậu được Thu Cúc đem lòng si mê. Tự bố trí thời điểm hiến dâng đời con gái trinh trắng và vô cùng xinh đẹp cho Phan Vững! Ngay chính cái thời điểm thật ngặt nghèo nữa chứ. Trước khi cậu ấy lái ca nô cảm tử. Làm được điều này, quả thật, ngoài trái tim quỷ, người thường không ai có thể nghĩ ra. Sức mạnh tình yêu của nàng khủng khiếp. Tuồng như nàng hiểu rằng, không dâng hiến cái quý nhất đời mình cho Phan Vững vào những giờ phút ấy, sẽ không còn dịp nào nữa. Và rằng, cái quý nhất của đời con gái, chỉ có ý nghĩa, khi nó trao đúng người, đúng thời khắc...
Phan Vững là con gia đình gốc tư sản. Không được vào ngay đại học. Và cũng không được đi bộ đội. Cậu ta nằm trong số thanh niên, yêu cầu phải được tham gia thực tiễn sản xuất và chiến đấu tại địa phương, tối thiểu hai năm. Sau đó mới được xem xét. Cậu chàng vào thanh niên xung phong một dịp với ông. Và cũng được bố trí về trung đội bờ bắc phà Long Sơn. Người thành phố, nhưng cậu ta có nước da rám nắng. Sau những tháng năm sương nắng trận mạc, nước da cậu chuyển màu đồng hun. Thu Cúc cứ hay trêu, bỏ lên chạn bếp tìm không ra. Cậu ta hiền lành và sắc sảo. Việc khó mấy, cậu cũng nghĩ cách để làm cho bằng được. Nhưng, cái lý lịch gia đình còn đen hơn chạn bếp, nó như một cái gông, cùm cho cậu không ngóc đầu lên. Nhiều lần chi bộ cho người đi thẩm tra lý lịch kết nạp Đảng cho cậu. Nhưng hết thảy đều trở về, với lời phê không đủ điều kiện kết nạp...
Nhưng hình như, những nhận xét ấy, với anh ta, không là gì cả. Lòng yêu nước, đâu có bị ai độc quyền, ban phát? Đâu có phân biệt giai cấp? Đâu có phân biệt tầng lớp? Đâu có phân biệt giàu nghèo? Và đâu có cần tung hô, chứng giám? Anh vẫn sống như mình muốn thế. Sẵn sàng xả thân vào chốn hiểm nguy. Không đắn đo. Không toan tính.
Chiến trường phát triển mau lẹ. Xe tăng cần cho chiến trường miệt biển Quảng Trị gấp rút. Cần cho cuộc đọ tăng ở ngay mênh mông trảng cát Cửa Việt. Xe tăng được chở từ Hà Nội vào, theo con đường sắt, đến Vinh. Trên các toa goòng trùm kín bạt. Đến ga Vinh, những chiếc tăng nổ máy tìm về cảng Bến Thủy. Tại đây, những chiếc tàu há mồm đang đợi chúng. Xe tăng được các con tàu há mồm ngậm đi trong đêm, rồi nhả ra cho các sà lan, ngay cửa biển Nhật Lệ. Các sà lan lại tiếp tục cõng những chiếc xe tăng đi ngược sông. Đến gần cầu sắt Long Sơn, thì cập vào bờ nam. Ở đó, người ta đã chuẩn bị sẵn bến bãi và con đường cho xe tăng đi. Xe tăng phải vượt qua đường Mười Lăm, vào đường Mười, trước khi trời sáng. Đó là một vùng đồi núi khe suối rộng lớn. Người ta đã chuẩn bị sẵn nơi ẩn nấp, cho mấy chiếc xe tăng mỗi đêm, nếu lỡ trời sáng. Từ đây, xe tăng đi vào Làng Ho, một địa điểm trên con đường chiến lược vào Nam. Xe tăng tiếp tục di chuyển đến bờ bắc thượng nguồn sông Bến Hải. Và dừng lại dưới những tán rừng cao su của Nông trường Quyết Thắng. Người ta đào hầm, và ngụy trang cho xe tăng. Bằng cách bứng cây non mé rừng về trồng. Và chăng những tấm lưới ni lông như cỏ nhân tạo. Kẻ địch không tài nào phát hiện được. Khi có lệnh, xe tăng vượt sông Bến Hải ở phía thượng nguồn. Và di chuyển về chiến trường Cửa Việt...
Đơn vị thanh niên xung phong của ông, nhận thêm nhiệm vụ mới. Quét sạch bom từ trường trên dòng Nhật Lệ, thông tuyến cho sà lan chở tăng đi. Phần thủy lôi ngoài cửa biển, đã có công binh đảm nhiệm. Chỉ có đoạn từ cửa biển, lên đến bến phà Long Sơn, là do cánh thanh niên bến phía bắc phà đảm nhiệm. Con sông Long Sơn, đoạn chảy qua thị xã Đồng Hới ra đến cửa biển, được mang tên Nhật Lệ. Bom từ trường nằm lặn đáy sông. Hoặc giữa vời giữa phá. Lẩn giữa cỏ năn, cỏ lác. Rất khó xác định. Mấy lâu, dòng sông vẫn có thuyền bè xuôi ngược. Nhưng đó là những đoàn thuyền nan. Của các đơn vị thanh niên xung phong chở gạo. Hay những chiếc thuyền tam bản bé tẹo. Của dân biển chở cá, chở muối ngược nguồn. Không mang trên mình chút sắt thép nào. Nghĩa là không tạo ra sức hút cho bom từ trường nổ. Và những quả bom từ trường của Mỹ, vẫn phục kích tuyến sông này mấy năm qua.
Bây giờ, là những sà lan trọng tải lớn. Lại cõng trên mình mỗi chuyến mấy khối thép xe tăng. Nó sẽ tạo nên một từ trường sức hút khổng lồ. Đủ cho bom từ trường nằm cách cây số đã phát nổ. Phá bỏ hết bom từ trường trên dòng Nhật Lệ với một hành lang đủ rộng dọc hai bờ sông, quả là nhiệm vụ nan giải đối với một đơn vị chỉ có hai tay không. Nhưng đó là mệnh lệnh quân sự, không ai có quyền từ chối. Chỉ có quyền tìm cách thực thi nhanh chóng và chính xác.
Đơn vị thảo luận mấy phiên, phát huy sáng kiến, tìm cách hoàn thành nhiệm vụ. Rõ ràng bom từ trường có khối nam châm cực mạnh. Nằm dưới bùn nước, bom chỉ phát nổ khi có sức hút từ trường tác động. Vậy thì, ta phải tạo ra từ trường lớn để hút nó nổ. Phải đưa một khối sắt thép lớn, di chuyển với tốc độ cao, vượt ra khỏi tầm sát thương của nó. Nguyên lý thì đã rõ. Nhưng thực tiễn xử lý thế nào đây, để ít tổn thất nhất? Trong khi yêu cầu chiến trường rất cần kíp?
Không còn con đường nào khác, là phải dùng ca nô chạy dọc theo sông. Với tốc độ cao. Tốc độ ca nô càng cao, càng tạo ra từ trường lớn, bom càng dễ nổ. Và với tốc độ cao, cơ hội sống sót của người lái ca nô, cũng cao hơn. Trừ phi, bom từ trường nằm giữa lòng sông, hoặc gần hai bờ sông, ca nô có thể bị hất tung lên trời. Còn mọi trường hợp khác, sống sót là có phần trăm hy vọng. Nhưng đó là chuyện của may rủi. Chuyện của số phận. Bởi ai biết nơi nào của lòng sông, có bom từ trường? Cho nên, những người cầm lái ca nô, chính là những cảm tử quân. Ra đi không hẹn ngày về! Nói đúng hơn, ra đi là cầm chắc không trở về!
Trước hết, dành nhiệm vụ vinh quang và nguy hiểm này cho những người tình nguyện. Lần lượt, mỗi đợt ra đi một chiếc. Cho đến khi thông tuyến. Có hai người tình nguyện đợt đầu. Cậu Vững và cậu Toản. Cả hai đều chưa vợ con. Và cả hai không chịu nhường cho ai. Buộc phải đi đến nhất trí: Rút thăm! Là trung đội trưởng, ông chủ trì cuộc rút thăm. Ông bẻ hai nhánh cỏ. Tước sạch lá. Và bí mật cắt thành que ngắn, que dài. Ông nắm chặt vào giữa lòng tay. Chỉ chừa hai mút que, vừa đủ cho hai người cầm rút. Mọi người hồi hộp nhìn vào. Toản và Vững, mỗi người thong thả rút một que cho mình. Xong, ông ngửa bàn tay ra trước mọi người. Và Toản cùng Vững, lần lượt bỏ que thăm của mình vào lòng bàn tay ông. Cậu Vững thắng! Chiếc thăm của cậu ta dài gần gấp đôi thăm cậu Toản.
Mọi người có một ngày chuẩn bị. Đơn vị cử người đi khiêng về một chiếc quan tài. Cùng hương hoa và vải vóc khâm liệm. Ai nhìn thấy cũng lạnh buốt sống lưng. Phan Vững đi chia tay với từng người trong đơn vị. Anh chúc mọi người khỏe mạnh, chân cứng đá mềm. Mọi người cố giấu nghẹn ngào, chúc anh may mắn trở về. Người cuối cùng, Phan Vững dành chia tay, là Thu Cúc. Hai người đứng lặng trước nhau một lúc. Tuồng như không biết nói gì, không biết làm gì. Không ghìm nén được nữa, Cúc lao đến, ôm ghì lấy Vững. Mặt của họ xát vào mặt nhau. Môi của họ hút vào môi nhau. Tay của họ riết chặt thân nhau...
Mặc kệ mọi người. Mặc kệ những đôi mắt đồng tình hay phản đối. Mặc kệ những lý tưởng cao sang. Mặc kệ cuộc chiến tranh đẫm máu. Mặc kệ...
- Em chỉ còn có anh bên cạnh, cho đến trưa mai... Chiều mai mọi việc đã khác. Ta hãy tận dụng những giờ còn lại bên nhau...
Tuồng như Thu Cúc muốn nói nhiều hơn, muốn nói rõ hơn với Phan Vững. Nhưng giữa bao nhiêu cặp mắt nhìn ngó, nàng cũng thẹn thùng. Vả chăng, hình như Phan Vững cũng không hiểu hết điều đó.
- Không! Anh sẽ trở về! Nhất định anh sẽ trở về... - Cậu chàng khăng khăng nói. Tựa như cậu ta nắm được bản mệnh của mình...
Vững vẫn thản nhiên như không. Như không biết mình sắp hy sinh. Anh không còn ra hiện trường trực chiến, nhưng vẫn bổ củi, xách nước, phụ người yêu nấu cơm. Anh vẫn làm vui vẻ như không. Thậm chí, trưa hôm sau, trước khi làm lễ truy điệu, Vững cùng ông Thủy xuống sông tắm. Bảo, phải tắm rửa sạch sẽ, trước khi làm nhiệm vụ quan trọng, có khi là nhiệm vụ cuối cùng!
Đó là một lần tắm định mệnh. Hẳn là trời đất quỷ thần đã sắp xếp. Đã trao cho Thủy người con gái ấy. Không phải trao cho cậu Vững!
*
Lễ truy điệu sống cho Phan Vững được tổ chức cạnh bờ sông. Dưới bờ đất cao che phủ bởi rừng cây dại. Mấy cụm cây rưới vươn cao, tạo khoảng râm rộng lớn. Từ bờ đất cao, chạy vào sâu sườn đồi, là những đường hào, với nhiều ngách hầm chữ A kiên cố. Đây là nơi thường nghỉ chân của các đội thuyền nan, trước khi đi qua trọng điểm phà Long Sơn, ngược lên thượng nguồn. Chiếc ca nô ngụy trang như một lùm cây. Được đưa theo một con lạch ra mép sông. Đậu im lìm chờ. Chiếc quan tài bằng gỗ, được sơn loang lổ như tấm dù ngụy trang. Đặt dưới bóng cây rưới. Trong quan tài, đầy đủ vải vóc khâm liệm. Trên nắp quan tài, đầy đủ hương, đèn, hoa rừng và nước.
Trời khoảng bốn rưỡi chiều. Nắng đã nhạt. Nhưng tốp máy bay địch vẫn còn hoạt động. Mọi người căng thẳng chờ đợi. Như chờ đợi giờ hành quyết. Ông quyết định tiến hành buổi lễ. Thay mặt đơn vị, ông lên bổng xuống trầm đọc lời điếu văn, trước mặt Vững. Bài điếu văn ca ngợi lòng quả cảm và đức hy sinh của Phan Vững trước giờ khắc của lịch sử. Mọi người lau nước mắt. Riêng Thu Cúc đứng sát bên Vững, tay nắm chặt tay anh ta. Và khóc nức nở. Cả hai đều cố ghìm cơn run. Nàng tự hỏi, sao đến nông nỗi này? Có lẽ cũng không ai nghe bài điếu văn nói gì. Nói gì cũng có sống lại một con người được đâu?
Khi bài điếu văn kết thúc, ai nấy đều bật ra khóc òa. Phan Vững cũng khóc. Ở phút sinh ly tử biệt này, ai cầm lòng được! Vững hình như không muốn kéo dài cảnh này. Anh muốn có ngay mệnh lệnh của chỉ huy. Nhưng Thu Cúc thì hiểu rằng, chỉ ra đến bờ sông kia, là nàng mất Phan Vững vĩnh viễn. Nàng cố níu kéo. Cuối cùng, ông Thủy cũng ra được mệnh lệnh đanh thép:
- Lên đường!
- Rõ! Tuân lệnh!
Phan Vững đáp, và quay lại trấn an Thu Cúc:
- Em đừng khóc! Anh sẽ về ngay bây giờ đây mà!
Vững gỡ tay Cúc. Đi bắt tay từng người. Anh không muốn chùng chình nữa. Anh quay lại nắm tay Cúc lần nữa, nháy mắt:
- Anh về ngay đây mà! Đứng đó chờ anh...
Không hiểu sao, lời anh ta như tiên tri. Không ai nghĩ, anh ta sẽ trở về. Thế mà anh ta trở về thật. Sau mười lăm phút chạy cật lực trên sông. Mọi người ai nấy tìm một chỗ nấp thích hợp. Đủ giữ khoảng cách an toàn, khi bom từ trường nổ. Vừa có thể nhoi đầu lên trông rõ chiếc ca nô cảm tử chạy.
Ông Thủy nhớ, lúc đó, đã khoảng năm giờ chiều. Máy bay Mỹ cũng thưa hoạt động. Trời miền Trung mùa hạ trong veo. Dòng sông ngời xanh trước mặt. Vững khởi động chiếc ca nô. Máy nổ giòn vang. Anh từ từ nhích ca nô ra giữa dòng sông. Và bất ngờ mở hết tốc lực. Chiếc ca nô xé nước chạy ra hướng cửa biển. Nhưng nó lao vừa độ cây số, chợt bên trái dòng sông, nổ bùm một tiếng. Tiếng nổ xé trời. Dựng một cột bùn, nước và khói lên trời. Ai cũng nghĩ, thế là xong. Lo tìm cách đi đưa thi thể Vững về. Nhưng chợt thấy chiếc ca nô ló ra khỏi cột nước. Và loạng choạng lao đi. Chưa được năm phút sau, lại nghe một tiếng nổ bùm nữa. Lần này, tiếng nổ ở phía tay phải. Nghe trầm và đục. Có lẽ nó ở xa. Cột nước và khói đen dựng lên, không che khuất được chiếc ca nô. Nhưng nó cũng gây ra sự loạng choạng cho người lái. Hình như tiếng dội gây sức ép trở lại, làm cho Vững bị choáng. Chiếc ca nô lượn chữ Z mấy vòng, rồi dừng lại. Mươi phút sau, nó như thức giấc. Bật lên tiếng nổ giòn. Và quay đầu trở về...
Người anh hùng trở về. Lúc đó đã trời tối mịt. Mọi người dìu Phan Vững từ ca nô về hang Hàm Rồng. Anh chỉ bị sức ép mạnh, gây choáng chút ít. Người ta để Phan Vững nằm ngả trên sạp. Cúc lấy khăn ướt đắp trán cho anh. Sự trở về của Vững ngoài sức tưởng tượng của nàng. Nàng sững sờ, mấy lần cầm tay anh, không biết là thực hay mơ. Nàng đi nhóm bếp, bắc cho anh bát cháo. Ở trong hang đá, giữa đêm khuya thế này, thật khó mà kiếm được thứ gì tẩm bổ cho người từ cõi chết trở về...
Nhưng sức trẻ đã giúp Vững vượt qua nhanh. Hoặc trong cuộc chiến sinh tử này, cơ thể con người biết tự thích nghi mà đứng dậy. Sự sống giữa chiến trận thật lạ kỳ. Sáng hôm sau, anh đã ăn uống đi lại được. Dù bước chân chưa thật vững, và trong đầu còn ong ong. Ai cũng mừng. Thu Cúc mừng hơn cả. Nàng nghĩ rằng, chỉ cần bước chân ra đến bờ sông, là nàng mất anh mãi mãi. Nhưng không ngờ, anh trở về với nàng. Thật phúc ba đời mới được như thế!
4. Cuộc chiến tranh ngày một quyết liệt. Kế hoạch đưa xe tăng vào hướng này vẫn chưa thực hiện được. Và điều này như một món nợ trả gấp đối với đơn vị ông Thủy. Việc phá bom từ trường trên sông Nhật Lệ chỉ còn hai quãng. Quãng tiếp theo từ chỗ Vững quay ca nô về, cho đến cửa biển. Và quãng còn lại từ chỗ làm lễ truy điệu sống, ngược đến vị trí cầu sắt đường hỏa xa.
Lần này, lễ truy điệu sống được tổ chức dành cho cậu Toản. Vẫn ở vị trí cũ. Vẫn chiếc quan tài gỗ hôm trước dành cho cậu Phan Vững. Vẫn hương hoa cho kẻ ở người đi. Vẫn ngọn khói nhang phiêu diêu tỏa mùi ly biệt. Nhưng cậu Toản không có cô gái nào cầm tay, để nói lời sẽ trở về. Dẫu vậy, trong lòng Trần Toản cũng như mọi người, đinh ninh cậu ấy sẽ trở về. Cậu Phan Vững, hôm trước đã chẳng trở về lành lặn đó sao?
Ông Thủy nhớ, mình ngoài mặt làm cứng. Để đồng đội bình tĩnh lúc lâm trận. Điếu văn của ông, hẳn nhiên, cũng đậm màu thuyết giáo. Rằng, cuộc chiến đấu nào rồi cũng có hy sinh, có đổ máu. Thắng lợi nào cũng phải trả bằng mất mát, đau thương. Và hôm nay, Tổ quốc gọi đến tên anh em chúng ta. Gọi đến tên Trần Toản. Toản giơ nắm tay rắn chắc, thẳng lên trời: “Có tôi!”. Mọi người vỗ tay, trong niềm hân hoan đẫm nước mắt.
Toản hùng dũng từng bước một. Như một bậc anh hùng nhảy lên con chiến mã. Nhưng anh leo lên chiếc ca nô mấy lần sẩy chân. Mãi mới leo lên được vào buồng lái. Giờ nhớ lại, ông Thủy vẫn gặp lại cái cảm giác ấy. Cảm giác ai leo lên ca nô, như là đi nộp mạng cho trăn tinh. Không ai nói ra, nhưng ai cũng mang tâm trạng nặng nề ấy. Dù bên ngoài, tỏ ra hào hứng, tựa pháo nổ cờ bay. Đi vào chỗ hiểm nguy, mặt cố tươi như đi hội...
Toản nổ máy, quay lại giơ tay vẫy chào mọi người lần nữa. Anh cho ca nô ra giữa sông. Và chạy với vận tốc trung bình. Đây là quãng sông cậu Vững đã rà nổ hai quả bom từ trường hôm trước. Anh phải đi hết quãng đường cậu ấy đi, mới tăng tốc. Từ trên bờ, ai nấy căng thẳng dõi mắt theo ca nô cậu ấy. Từ đây, nếu có bom nổ, những người ngóng theo trên bờ cũng không hề hấn gì. Chiếc ca nô cậu Toản ngày một nhỏ dần...
Ca nô Toản đã tăng tốc. Lao thẳng về phía cửa biển. Con tuấn mã đã xung trận. Dòng sông cong hình cánh cung trước khi đổ ra biển. Từ đây, vẫn có thể nhìn được chiếc ca nô chạy trong mờ ảo xa xôi. Nhưng kìa! Một cột nước như rồng phun hình loa kèn, đột ngột dựng lên giữa trời. Ngay chỗ dòng sông đổ vào lòng thị xã. Chiếc ca nô cậu Toản lẩn vào trong cột nước, mất tăm...
Thế là phép màu đã không xảy ra. Chiếc ca nô bị bom hất nghiêng lên vạt ruộng ven bờ. Bẹp rúm một bên. Người cậu Toản như không còn xương. Mềm oặt và gãy gập trong khoang lái. Máu rỉ ra cả tai lẫn miệng...
*
Dẫu thế nào, dòng sông cũng phải được thông tuyến. Lệnh của trên rất gấp. Lại phải có một lễ truy điệu sống tiếp theo diễn ra. Nhưng lần này, sẽ đến lượt ai trong số những trai tráng còn lại? Chưa có ai tình nguyện lên tiếng. Sự hy sinh của Trần Toản, đã có chút tác động mạnh tâm lý mỗi người. Tình nguyện lái ca nô ra đi, là hình dung mình sẽ thành Trần Toản...
Ông Thủy nhớ, không khí đơn vị lúc đó ngột ngạt và căng như dây đàn. Số người được huấn luyện, và lái ca nô giỏi, chỉ đếm trên đầu ngón một bàn tay, trong đó có ông. Hình như, mọi người đang nhắm vào ông? Họ muốn thử thách một anh hùng? Lúc đó, anh Chất bị ốm liệt giường. Sau lần lăn quả bom nổ chậm xuống mé ruộng. Bị nó nổ hất văng ra. Anh yếu đi trông thấy. Giờ lại một cơn sốt ập đến, đã vắt kiệt sức anh. Người đi chưa vững, nói chi đến cầm tay lái ca nô! Nếu không, có thể anh ấy đã xung phong.
Lúc đó, thật may, chính cậu Vững bất ngờ đứng lên nhận nhiệm vụ.
Vững có một đêm và nửa ngày nghỉ ngơi, trước khi lâm trận lần thứ hai. Lần này, anh không đi bắt tay từng người như lần trước. Anh muốn việc ra sông lái ca nô hút bom từ trường, cũng như đi lái ca nô hằng đêm. Và hy sinh bởi bom từ trường trên sông, cũng như hy sinh trên bến phà. Anh ngồi viết một bức thư cho mẹ. Và nói chuyện đôi lần với Thu Cúc. Cúc hình như không hiểu nổi anh lúc này. Nhưng nàng đã là gì của anh đâu, mà ngăn cản? Vả chăng, khi cần phải hy sinh cho Tổ quốc, ai đi ngăn cấm bao giờ. Đặc biệt, đấy là con đường cho xe tăng ta ra trận!
Dù Vững không muốn, nhưng đơn vị vẫn phải làm lễ truy điệu sống cho anh. Vẫn địa điểm cũ. Vẫn đồng đội cũ. Chỉ thiếu mỗi mình Trần Toản. Anh Chất cũng chống gậy đến tham dự. Vững chỉ xăn văn đi đi lại lại trên đám cỏ. Tuồng như anh muốn nhanh cho xong việc. Để còn đi làm việc khác. Quãng sông chưa đến vài cây số. Chỉ vù một cái là xong! Đêm mai, xe tăng có thể ung dung cập bến. Kẻ địch sẽ rất bất ngờ, khi xe tăng ta gầm lên ngay sát nách cứ điểm chiến lược Đông Hà...
Lễ truy điệu sống cũng xong. Như một bài điếu văn soạn sẵn cho mọi người. Chỉ cần lắp ráp họ tên tuổi tác. Phan Vững đi bắt tay từng người. Anh nắm rất chặt. Tuồng như anh ta biết, lần này là không trở về. Phúc bất trùng lai mà! Đến lượt bắt tay Thu Cúc sau chót, anh ôm chầm lấy nàng hôn thắm thiết. Nàng cũng đón nhận nồng nàn. Không còn trời đất. Không còn chiến tranh. Không lễ truy điệu sống cho mình. Không còn ai xung quanh. Không phải e dè. Không phải giấu giếm. Đó là nụ hôn kết tụ trăm ngàn ý nghĩa. Của tình yêu. Của hạnh phúc. Của bản năng. Của khát vọng sống. Của đôi lứa tử biệt sinh ly chỉ ít phút sau nữa...
Vững tăng tốc ngay sau khi khởi động. Vì quãng sông chỉ vài cây số. Chiếc ca nô như một mũi tên. Đoạn sông này quá gần nơi ẩn nấp, nên ai cũng vào sẵn cửa hầm hay ngách hào. Chỉ chừa có đôi mắt để theo dõi. Nín thở chờ tiếng nổ định mệnh. Chiếc ca nô nhỏ dần. Chợt, một cột nước dựng đứng và tung tung lên trời cao. Chiếc ca nô theo đà, bay vút lên không. Như một phi thuyền trong vũ trụ. Kèm ngay đó là tiếng nổ xé trời. Giội rung cả vách hào. Ai cũng ngồi thụp xuống, chui đầu vào hầm. Cái phản xạ bản năng ấy xảy ra trong giây khắc. Không ai cưỡng được. Khi định thần, nhoi đầu lên. Chiếc ca nô đã biến mất cùng với cậu Vững...
Sau này, khi thông tuyến đường sông trọn vẹn, người ta đã cử nhiều đoàn tìm kiếm dọc quãng sông đó. Nhưng không thấy đâu chiếc ca nô và cậu Vững. Ai cũng tin chắc, người anh hùng ấy, đã lái ca nô về trời...
Bây giờ phân tích, ông có thể lý giải phần nào. Rằng, có thể do tốc độ ca nô quá lớn. Khiến cho ca nô vụt qua khi bom chưa kịp nổ. Và khi bom nổ, vô tình cùng với sức đẩy của nước, tạo thành một thứ phản lực, đẩy sau chiếc ca nô. Khiến nó lao vút lên trời xanh. Và sau đó, đạt độ cao cực đại, nó chuồi xuống dọc lòng sông. Cho đến khi hết tầm, do đầu găm sâu xuống bùn cản lại. Rất có thể, khi ở trên không, và cả khi nó rơi xuống sông sau đó, chiếc ca nô vẫn còn nổ máy. Nó như con cá chạy trong dòng nước, cho đến khi đầu găm sâu vào bùn. Ngần ấy năm, phù sa đắp cho Phan Vững ngôi mộ trong lòng chiếc ca nô...
5. Lệ Thu xuống tàu thì đã hai giờ sáng. Nàng gọi xe ôm về nhà ngay. Căn nhà hai mẹ con ở trong một xóm nhỏ ven làng đồi. Ngày từ lâm trường về quê nghỉ hưu, mẹ nàng đã xin nơi này để làm nhà. Ngày xưa, đây là vùng đồi bỏ hoang. Bao năm bỏ mặc nắng mưa cằn cỗi. Làng Đức Thổ của nàng là một vùng bán sơn địa. Đất hoang chưa khai phá còn rất nhiều. Chẳng ai tranh giành. Mẹ nàng bỏ tiền thuê vỡ đất. Đất như hiểu lòng người. Từ ngày lập vườn, mẹ bỏ xuống đất cây nào, xanh tươi cây đó. Xa trung tâm một chút, nhưng vườn rộng, cũng không sợ đói. Bây giờ, khu vườn sum suê cây trái và nhiều rau xanh. Nhiều năm ở lâm trường, mẹ nàng đã lây phẩm chất người trồng rừng bao giờ. Khu vườn rộng được thiết kế cây trồng khá hợp lý. Vành ngoài cùng là cây lấy gỗ. Tiếp đến là cây ăn trái lưu niên. Vành trong, chia theo luống để trồng các loại rau củ quả và chè xanh. Mẹ lại thả gà, nuôi cả thỏ. Trứng gà đủ để bà cho cháu ăn hằng ngày.
Có chút lương hưu ổn định. Có vườn để trồng rau. Có cháu để vui vầy tuổi già. Lại không còn ở rừng sâu. Mẹ nàng bỏ lại đằng sau quãng đời cơ cực và hờn tủi. Nơi chốn rừng thiêng nước độc. Cùng với đám nữ thanh niên xung phong quá lứa lỡ thì chuyển về lâm trường. Nước da sốt rừng mai mái biến mất. Cơ thể gầy gò teo quắt như được phục sinh. Dáng vẻ đẫy đà trở lại. Mái tóc không còn rụng nữa. Mẹ nàng trẻ lại rất nhiều. Những nét xuân sắc dần quay lại với bà. Nàng ra đi, bôn ba đây đó ở các công trường, vẫn rất yên tâm. Vì mẹ còn rất khoẻ. Và con gái nàng cũng rất ngoan. Vài ba tháng, nàng tạt về một vài hôm. Ăn với mẹ vài bữa cơm. Ôm con gái ngủ vài tối...
Từ ngày ra trường, nàng mải mốt theo các công trường. Nay đây mai đó. Ăn cơm tập thể, ngủ giường cá nhân. Không có nhu cầu sắm sanh gì cao sang. Tiền lương gom cả về cho mẹ. Mẹ dựng được ngôi nhà gạch mái ngói cao ráo. Sàn nhà lát đá hoa. Hai bà cháu cứ lau chùi tíu tít. Ngoài năm mươi lăm tuổi, lần đầu tiên, mẹ nàng biết đến ngôi nhà nền lát gạch hoa...
Nhưng hôm nay, nàng về đột ngột trong đêm. Nghe tiếng gọi của con gái, bà giật mình. Ra mở cửa, lòng hồi hộp lo lắng. Lệ Thu cũng đi một quãng đường trong một cảm giác mừng tủi, lo âu đầy ắp. Chiếc cầu vĩnh cửu, nàng đang tư vấn giám sát thi công đây, nằm trên bến phà Long Sơn xưa mẹ nàng từng ở. Nàng đã được hoài thai ở đấy. Nàng cố không để cho ai hay biết. Ngay mẹ nàng cũng không muốn trở lại nơi này. Cũng không muốn ký ức những năm tháng ở đây sống dậy. Mẹ nàng muốn đào sâu chôn chặt. Muốn vĩnh viễn không có những năm tháng đau buồn ấy. Khi chứng kiến người yêu, hai lần tự nguyện đi vào chỗ chết. Nói đúng hơn, là hai lần chứng kiến cái chết của người yêu. Người mà bà xác định đã là chồng. Rồi những tháng ngày bụng mang dạ chửa trên bom dưới đạn. Bị cấp trên và đồng đội coi như gái chửa hoang. Làm xấu mặt anh em, làm hoen ố thành tích đơn vị. Tìm một chốn nương thân lúc đó, đối với bà, gần như vô vọng...
Hai mẹ con nắm tay nhau vào nhà. Con bé đã ngủ say. Nàng ghé môi hôn vào trán nó một cái cho đỡ thèm. Mẹ nàng bảo đừng làm cháu thức giấc. Cả hai người tỉnh hẳn. Nàng bước vào ngôi nhà của mình, được thấy con gái đang ngủ say. Bà mẹ nàng cũng vì bất ngờ gặp được con gái, gặp lại chút nhan sắc mình ngày xa xưa. Và nhất là bà phán đoán, đang có chuyện gì hệ trọng đối với con gái. Có thể nó đã tìm được người tâm đầu ý hợp mới, để đi bước nữa. Bà thấp thỏm mừng lo.
- Mẹ ạ. Con đã gặp rồi! - Lệ Thu đột ngột lên tiếng.
- Gặp ai, con gái? - Bà Cúc nói và nắm tay nàng.
- Bố con! Bố con! Trên bãi cát...
- Bố con? Bố con? Con đang mơ đó, hả?
Bà mẹ cuống lên, lo con gái bị sao đó. Bà đưa tay sờ trán con gái.
- Thật! Chính mắt con nhìn rõ. Họ đang liệm bố con vào tiểu sành...
- Con nói chi, như mơ ngủ rứa con? Hay con ốm đau răng đó? Nơi đó rừng thiêng nước độc lắm, hả con?
- Không! Con khỏe mà. Họ đang liệm. Và con nhảy lên tàu, về báo cho mẹ biết đây...
- Con nói như chiêm bao. Bố con đã cưỡi ca nô bay lên trời. Cả mẹ và những đồng đội trong đơn vị lúc đó, đều nhìn rõ mồn một, con nạ. Con đừng động đến vong hồn cha con nữa. Nhắc đến, đau lòng mẹ lắm...
- Không! Họ đã trục vớt được chiếc ca nô ấy. Dưới lòng sông sâu. Bị bùn khỏa lấp. Và tìm được bố con trong buồng lái. Thật đó! Con xin lỗi mẹ...
- Nỏ có rứa mô! - Bà mẹ lắc đầu phủ nhận - Chính mẹ, và các đồng đội của bố con lúc đó, thấy sờ sờ trước mắt mình. Giữa thanh thiên bạch nhật. Chiều trời xanh mây trắng. Chiếc ca nô đã bay vút vào tầng không...
Đã ngần ấy năm, những người có mặt hôm đó, cùng với bà, đã đinh ninh như thế. Đã cố gắng tin như thế. Nhất là, sau này tổ chức tìm kiếm mấy bận. Suốt quãng sông ấy, vẫn không tìm thấy chiếc ca nô đâu. Càng củng cố niềm tin đầy chất truyền thuyết của họ. Càng huyễn hoặc họ. Đến nỗi giờ đây, khi sự thật hiển nhiên ấy bày ra, vẫn không làm họ vừa lòng. Họ không muốn người anh hùng của họ có kết cục bi thương ấy. Nhiều năm nằm lạnh lẽo dưới bùn sâu...
Lệ Thu đã thuật lại cho mẹ, quá trình phát hiện và trục vớt chiếc ca nô. Kèm theo những phán đoán lôgích. Những người tìm kiếm sau này, đã không ngờ quả bom từ trường có sức công phá mạnh đến thế. Đã hất chiếc ca nô lên cao thăm thẳm, rồi đẩy nó chuồi ra khỏi vùng phán đoán của họ. Theo lời kể của người trong cuộc, họ chỉ tìm quãng sông từ trụ cầu đường sắt về xuôi. Bà Cúc thở dài. Dẫu sao, tìm được Phan Vững dưới bùn sâu, trong lòng chiếc ca nô, còn hơn mãi mãi không tìm được. Với bà lúc này, tìm được Vững, lo cho anh mồ yên mả đẹp, là hạnh phúc cuối đời của mình. Dẫu sao, cuối cùng, vợ chồng cha con cũng gặp được nhau...
Ba mẹ con bà cháu khóa nhà, đóng cổng, nhờ hàng xóm trông hộ. Họ lên chuyến tàu trưa hôm sau. Sẩm tối, ba người đã đến ga Lệ Cầm. Họ tìm một chỗ nghỉ trọ qua đêm. Bà Thu Cúc cố ý không trở lại nơi những năm chịu nhiều đắng cay oan khuất! Và sáng hôm sau, nàng gọi điện về cho Giám đốc Thông, xin mượn xe một lúc. Tiếng sau, lão Luân đã đem ô tô đến đón họ.
Xe đi qua chiếc cầu sắt đường hỏa xa. Bà Cúc hết sức ngỡ ngàng. Núi Long Sơn vẫn đấy. Dòng Long Sơn còn đây. Nhưng mọi cái đã không còn như thời bom đạn bà sống. Nội con đường tàu và chiếc cầu sắt sừng sững, đã làm bà ngộp thở. Chưa kể, trên bến phà Long Sọ xưa, những trụ cầu bê tông vĩnh cửu to lớn, đã mọc lên giữa không trung. Và kia, chiếc cửa hang Hàm Rồng, bị cây rừng che quá nửa, vẫn như con mắt đang nhìn bà. Hỏi bà có nhớ những buồn vui hờn tủi, thời con gái xa lắc? Và trên kia nữa, hang đền thờ trái tim quỷ, tỏ mờ sương khói ban mai...
Không biết từ bao giờ. Không ai nói ra. Không ai khẳng định. Không có cam kết. Nhưng trong ánh mắt cánh đàn ông đơn vị, ai cũng nghi hoặc. Đồ rằng, Thu Cúc đích thị là trái tim quỷ ! Không thể khác. Với một niềm yêu mến. Với một niềm tự hào. Và với tất cả những gì tốt đẹp khác. Với họ, trái tim quỷ hiện thân của tình yêu mãnh liệt. Không giới hạn. Quỷ của tình yêu. Phù thủy của tình yêu. Một thứ tình yêu ma quái, ma mị. Nhưng tuyệt đỉnh. Cuốn hút hết thảy cánh đàn ông. Thứ tình yêu, ai cũng thấy mình có thể với tới được. Nhưng không mấy ai với tới...
Hay sự ra đi của Vững lần hai, là do trái tim quỷ! Chỉ có quỷ mới làm chuyện bất thường như vậy! Sau sự hy sinh của Phan Vững, xuất hiện nhiều tiếng xì xào. Rằng, do trái tim quỷ xui khiến đấy. Chính trái tim quỷ muốn thế. Trái tim quỷ đã giết chết cậu ấy...
Thu Cúc hồ nghi cả mình. Nàng khóc hết nước mắt khi không có ai. May thay, một sự kiện tiếp theo xảy ra, cũng gây không ít chấn động. Thu hút ánh mắt chú ý của mọi người. Ấy là nàng bỗng nhiên hôi cơm hôi cá. Không thể khác. Bất kỳ sự kiện nào, giờ đây, ai cũng nghĩ có bàn tay trái tim quỷ can thiệp. Nhưng cánh đàn ông lần này như phát rồ! Họ ôm nhau nhảy tưng tưng, cười ha hả trong hang đá. Trái tim quỷ tuyệt vời! Trái tim quỷ thật đáng yêu! Chỉ có trái tim quỷ mới làm được việc đó! Họ không để nàng động tay động chân vào bất cứ công việc gì. Xách nước, chẻ củi, vo gạo, nhặt rau. Nàng chỉ ngồi một chỗ nấu cơm. Đi lên đi xuống cửa hang có người dìu. Họ dồn lại những chiếc áo rách có thể bòn để may tã lót cho thằng bé. Với họ, nhất định phải là thằng bé!
Lão Luân dừng xe lại trước cổng nghĩa trang. Bà Cúc ngạc nhiên, khi gặp một nghĩa trang xây cất đàng hoàng và hiện đại thế này. Ngày xưa, đây là mé đồi lúp xúp sim mua. Một lần, bà được phân công đi làm nhiệm vụ chôn cất tử sĩ. Bốn người thay nhau khiêng một thi hài. Đường mấp mô sỏi đá và gốc cây. Chẳng biết đâu là phương hướng trong đêm. Người ta chỉ cho một chỗ, rứa là cúi cổ đào. Mùa hạ, đất sỏi cứng như đá. Cuốc chim bổ xuống tóe lửa. Phải dùng xà beng khới dần từng lớp. Khi xuống sâu, đất mềm hơn, mới dùng được cuốc chim và xẻng. Nhờ ánh pháo sáng nhập nhọa đâu đó, nhóm mai táng của bà mới chỉnh sửa được cái huyệt mộ ưng ý. Không kịp có quan tài gỗ, người hy sinh được mai táng trong cái túi ni lông. Không kịp có bia, dù là bia gỗ khắc tên. Bà đã bê một tảng đá trắng tự nhiên ven đồi, đặt lên đầu mộ làm dấu. Không biết giờ, ngôi mộ ấy nằm ở đâu, trong mấy ngàn bia mộ ở đây?
Lão Luân dẫn ba mẹ con bà cháu đến thẳng ngôi mộ Phan Vững. Mộ mới xây. Bia mới khắc. Lệ Thu kính cẩn, đặt bó hoa lên cạnh tên người. Ngay dưới chân bia. Bà Cúc cắm nén hương vào bình cát. Cả ba mẹ con bà cháu đến quỳ dưới chân mộ. Bà Cúc và Lệ Thu lầm rầm khấn khứa những điều cần nói với người đã khuất, cho tâm trạng mình. Không ai khóc thành tiếng. Chỉ nước mắt lăn qua các gò má. Niềm vui đoàn tụ muộn màng của một gia đình. Dù vẫn âm dương cách biệt...
Trưa, xe đưa cả nhà bà Cúc về lại sân ga. Lệ Thu mua vé cho hai bà cháu trở về. Họ ăn qua quýt bữa cơm bình dân trước cửa nhà ga cùng lão Luân. Cuối bữa, lão Luân lần trong túi áo, đưa ra trước mặt bà Cúc, một chiếc nhẫn đúc từ mảnh xác máy bay. Nom khá tinh xảo. Mặt nhẫn đúc nổi chữ C, viền xung quanh nét hoa văn đơn giản.
- Thưa chị - Lão Luân khẽ nói - Khi sang tiểu cho anh nhà, tôi có nhặt được cái này. Giám đốc Thông nói hãy giữ lấy. Khi nào có người nhà của anh ấy, hãy đưa lại...
Bà Cúc sáng mắt lên. Mấy hôm nay, bà băn khoăn chỉ mỗi việc này. Nhưng không tiện hỏi con gái. Có thể ở lâu dưới bùn, xương cốt mủn ra cả. Và khi phun nước rửa ca nô, làm trôi mất nó.
Bà lật đật tìm túi xách, lấy ra một cái túi nhỏ. Rồi lần ngón tay một lúc, lôi ra chiếc nhẫn y hệt. Mặt nhẫn đúc nổi chữ V, cũng bao quanh bằng mấy nét hoa văn đơn giản. Bà đặt lên mặt bàn đôi nhẫn, nói:
- Trong làng sơ tán bên kia đồi, có một xưởng gia công đồ gia dụng. Làm từ xác máy bay, ống bom bi, thùng pháo sáng. Họ gò xoong nồi, đúc bát chén ăn cơm. Họ làm cả những đồ nữ công và nữ trang từ các vật liệu ấy. Anh ấy đã đặt một đôi nhẫn. Mặt nhẫn đúc nổi chữ cái tên hai đứa chúng tôi. Mỗi người đeo một chiếc, có chữ cái tên người yêu. Nói, chiến tranh tàn khốc, em hãy giữ lấy. Biết mô nhờ rứa, sau ni tìm được nhau...
Bà nói xong thì òa khóc. Lần này bà khóc rất to. Khóc hả hê. Tuồng như đôi nhẫn khiến bà mãn nguyện. Khóc xong, bà lau nước mắt, khẽ cười. Lão Luân bật cười to hơn:
- Rứa là... châu về Hợp Phố, chị hỉ?
- Phải phải! Cám ơn trời Phật!
*
Ba tiếng đồng hồ nữa mới đến chuyến tàu của hai bà cháu. Lệ Thu cho lão Luân đánh xe về trả Giám đốc Thông. Và nhờ ông ba tiếng nữa đem xe máy ra đón mình. Cả ba mẹ con, bà cháu vào phòng trọ tối qua nghỉ trưa. Mất ngủ hai đêm liền, vừa ngả lưng, Thu đã ngủ ngay.
Ngược lại, bà Cúc không sao nhắm mắt được. Biến cố to lớn và dữ dội trong cuộc đời con gái, giờ kết cục mở ra bất ngờ, từ đêm trước tới sáng nay. Làm sao bà ngủ được? Nó khuấy cuộn cuộc đời bất hạnh của bà lên lần nữa. May mà bà còn có được Lệ Thu. Còn ối chị em thanh niên xung phong trên các tuyến đường, sau chiến tranh, tụ về lâm trường Ba Rền lúc ấy, toàn quá lứa lỡ thì…
Những người mẹ nuôi con giữa rừng sâu còn gian nan hơn. Sốt rừng, nước độc, thiếu ăn thiếu mặc, sữa mẹ ít. Con còi cọc ốm đau liên miên. Buổi chiều, sau giờ làm, mỗi bà mẹ một chiếc cần câu, ngồi lặng thầm bên góc suối. Họ câu những con cá khe bé tí, cũng ốm o như họ. Mong kiếm chút tươi nuôi con thơ...
Thu Cúc quả là may mắn. Nói đúng hơn là trời thương. Chị hầu như bị sốt rừng rất ít. Cả Lệ Thu nữa. Con bé vô tư lớn lên giữa rừng sâu. Như một phần của thiên nhiên hoang dã. Mọi gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật không cản được con bé lớn lên. Khi đến tuổi đi học, chị gửi Lệ Thu về cho mẹ chị trông giúp...
Người đời hay nói, mắt con trai tai con gái, là vậy chăng? Ở tận rừng sâu bên kia núi, không biết bằng cách nào, Hoạt lại biết chị? Hoạt là đội trưởng đội khai thác gỗ của lâm trường. Anh đã tuổi bốn mươi, yên bề gia thất với vợ và hai con trai ở quê. Vợ anh làm nghề dạy học. Cuộc sống gia đình anh đang yên ấm, lại bị chị xáo lên. Không, chị bị anh xáo lên thì đúng hơn.
Một lần, chị gánh nước từ dưới khe sâu, lên tưới cây trên đồi. Đang cao điểm mùa hạ, đồi cây non mới trồng có nguy cơ bị nắng thiêu rụi. Tổ ươm cây của chị phải thay nhau gánh nước lên đồi, tưới từng gốc. Dốc cao, gánh nặng. Mỗi bước đi lên là một bước trượt xuống. Đang bấm chân lên từng bước một, đôi vai nặng trĩu của chị bỗng nhiên nhẹ tênh. Chị nghiêng người nhìn lại, thấy sát bên mình là một người đàn ông cao lớn. Và đôi cánh tay chắc nịch của anh ta đang nhấc bổng đôi thùng nước trên vai chị. Anh ta đặt gánh nước qua vai mình, và bước lên dốc phăm phăm. Chị như cô bé mười tám tuổi chạy đuổi theo sau.
- Đã nhìn thấy bóng em đôi lần từ xa. Nhưng hôm nay, anh mới có diễm phúc được gặp mặt. Anh là Hoạt...
Một chiều sau giờ làm, anh bỗng xuất hiện trong khu lán tập thể nữ công nhân. Tay xách chai mật ong rừng vàng hươm. Hàng trăm con mắt đàn bà của hai dãy lán đổ dồn về đó. Thật hiếm hoi có bóng đàn ông đến khu lán trại của chi em công nhân trồng rừng như thế này. Chị mời anh ngồi lên chiếc võng buộc giữa hai cột hiên. Và đưa ấm nước lá đặt lên chiếc ghế đẩu ngay bên cạnh. Chị cũng ngồi lên chiếc ghế gỗ thấp thường ngồi ăn cơm, nói chuyện. Chị cố không mời anh vào phòng.
Từ đó, cứ cuối tuần, là anh ghé về thăm chị. Khi thì một bao hạt giẻ đã đãi sạch vỏ. Khi thì một xâu thịt nai đơn vị anh bắn được. Chị chia đều cho cả lán. Ai cũng mừng cho chị, gặp được người đàn ông ra đấng đàn ông.
Nhưng cuộc đời thật đa đoan. Được mấy tháng, lại có một người đàn ông khác, can dự vào cuộc đời chị. Nói đúng hơn, bước sâu vào cuộc đời chị. Đó là một thanh niên, khoảng hai lăm, hai bảy tuổi. Anh chàng là kỹ sư chuyên về kỹ thuật trồng rừng.
Điều mong ước bấy lâu của chị, là được ươm cây từ hạt, đã được Kiên làm thỏa mãn. Khi chưa có hạt giống cây, anh huy động chị em công nhân vào rừng, gạt tìm trên mặt đất. Những gốc lim, táu, sến, huệnh, trường, dó trầm, huê... vừa bị khai thác, để lại trên mặt đất bao nhiêu hạt của chúng. Chị em mang theo giỏ và chổi cùn. Gạt lớp lá khô, là gặp ngay lớp hạt nằm trên đất ẩm. Hạt được đưa về theo loại. Kiên hướng dẫn cách giâm hạt vào bầu ni lông. Đất mùn được chuẩn bị sẵn. Mỗi bầu ni lông đựng một bầu đất. Hạt được giâm vào giữa bầu. Sắp thành dãy dưới giàn bóng râm. Vài hôm tưới nước một lần. Thời gian sau thì hạt nảy mầm. Kiên hướng dẫn trồng xen kẽ. Loại trăm năm cho gỗ như lim. Loại bảy, tám chục năm như táu, sến, gỏ, kiền kiền. Loại ba, bốn chục năm như huệnh, dẻ, chua, bời lời... Anh bảo, trồng như thế, khi khai thác, rừng không bị chặt trụi một lúc.
Kiên thường đến vườn ươm của chị. Anh chàng không rời mắt khỏi đôi tay đẹp của gái một con này. Chị nhắm mắt lại, mặc những gì đang xảy ra. Lúc sau, chị giật mình, đứng phắt dậy, ẩy tay Kiên ra, và quýnh quáng bỏ về. Ấy là chị ngầm bảo anh, đừng đùa với lửa!
Nhưng anh ta nhất quyết nhảy vào lửa.
- Chị ơi... Em yêu chị... Em nhất quyết cưới bằng được chị!
- Không đâu! Cậu tỉnh lại đi! Chị lớn hơn cậu năm, bảy tuổi. Chị đã có một đời chồng, với đứa con gái năm tuổi. Còn cậu...
- Mặc kệ! Mặc chị lớn hơn mấy tuổi! Mặc chị có mấy đời chồng! Mặc chị có mấy đứa con! Mặc kệ! Em chỉ yêu mỗi mình chị, không yêu ai khác! Em nhất quyết cưới bằng được chị...
Người đâu mà bướng bỉnh, gan lì! Anh ta bắt đầu để râu. Nom dáng vóc ngày một chững chạc. Cử chỉ nói năng cũng như từng trải. Anh ta làm thơ rất hay. Cứ năm ba hôm, có một bài mới đem ra đọc. Mấy tháng sau, trên bàn chị, đã có một tập sổ tay thơ anh viết cho chị.
Hai người đàn ông ấy, đã biết rõ về nhau, nhưng họ lại không tìm cách bài xích, hay hại nhau. Thậm chí, họ còn cùng hẹn nhau đến nhà chị. Hoạt mang theo bì hạt dẻ, bảo chị rang. Kiên thủ thêm cút rượu trắng. Chị trải chiếu ra hiên. Trăng rừng rải ánh sáng vằng vặc ngoài hiên cỏ. Những người phụ nữ trong hai lán tập trung lại. Có thể vì hiếu kỳ. Họ ngồi thành vòng tròn. Những đĩa lớn hạt dẻ nóng giòn để trước mặt. Sau mỗi bài thơ Kiên đọc, là một bài hát của những nữ thanh niên xung phong đi mở đường đáp lại. Và cũng chừng ấy, Hoạt nhấp một ly rượu trắng. Đêm vui kết thúc, thì cũng là lúc Hoạt say mèm. Kiên phải dìu anh ta về chỗ mình ngủ lại.
Hoạt đã biết, chị không thể cùng anh đi đến hôn nhân. Một lần, anh quyết định nói hết với chị. Rằng anh muốn cưới chị ngay. Chị hỏi, vợ con anh ở quê giải quyết cách răng?
Kiên có thế mạnh của anh ta. Nhưng cách biệt tuổi tác và mặc cảm con cái đã không cho chị mạnh chân bước tới. Như một phản xạ dè chừng đổ vỡ, chị cố ép mình đi lùi trong mối quan hệ này. Nhưng chị càng lùi, anh càng tiến tới. Ngày nào chị cũng đọc những bài thơ gan ruột của anh. Đêm đêm, chị bị tiếng sáo của anh làm thổn thức. Anh thường ra ngồi trên tảng đá dưới mép suối trong đêm vắng, cốt để tiếng sáo theo gió bay đến phòng chị. Tiếng sáo thoạt đầu mời gọi thiết tha, sau thúc giục, mong chờ. Về khuya thì thổn thức trách móc. Trái tim chị đâu phải gỗ đá?
Không chịu nổi tình cảm anh lay gọi, chị lén mắc màn vờ đi ngủ, nhằm đánh lạc hướng mọi người, rồi lẻn cửa sau ra đi. Đường rừng khuya mấp mô không ngăn được bước chân chị. Bước chân vụng trộm của gái một con, vừa mạnh bạo quả quyết, vưa mặc cảm mình lớn tuổi. Đó là bước chân của người đàn bà nửa đời leo núi. Nhẹ và êm như bước đi của con mèo rừng...
Chị chui vào lùm cây gần chỗ anh. Hai người cách nhau một bãi cát dăm ba bước chân. Trăng ngàn khuya rây thứ bột óng ánh vàng lấp lánh. Chị ngồi rất lâu với câu hỏi: Bước ra hay không bước ra? Chị mê lịm đi bởi tiếng sáo tỏ tình của anh. Khỉ thế, gió lại thổi theo chiều ngược lại. Nếu không, mùi hương nhu và lá rừng trên tóc chị, mùi da thịt trắng ngần như con gái của chị, đã chỉ cho anh vị trí chị đang ngồi chờ. Có thể chị đã có anh. Có thể đã có hạnh phúc. Và có thêm những đứa con khác...
Rất khuya, có lẽ không thấy chị ra, anh đã bỏ về...
Bất ngờ, người đàn ông trẻ lê những bước chân mệt mỏi và vô vọng, bỏ bờ sông khuya ra về. Bỏ luôn cả chị tức thở một mình trong lùm cây.
Cả người đàn ông đứng tuổi nữa. Cũng bỏ chị mà đi, trong đau xót tột cùng.
Hai người ra đi cùng một lúc, trong một cái chết tức tưởi, oan uổng. Chiều đó, Hoạt rủ Kiên vào chỗ mình chơi. Họ vừa bẫy được con lợn rừng. Hoạt cùng anh em đội khai thác gỗ, vừa uống rượu vừa nghe Kiên đọc thơ. Mải vui, trời chuyển tối lúc nào. Và cơn mưa rừng ập đến tối mắt. Kiên đã ra giữa lòng suối. Bất ngờ nước suối dâng cao, đẩy anh đi ra giữa dòng sâu. Hoạt lao ra cứu Kiên. Bao năm sống ở rừng, anh biết tính nết những cơn mưa chiều. Nhưng lần này, cơn mưa dữ dội. Hai người nắm được tay nhau, nhưng không thể chống cự được với thác nước đang ào ạt tống về. Họ bị cuốn mất tăm trong cơn lũ trào sôi lòng suối.
Chị khóc hết nước mắt. Những người đàn bà trong hai lán tập thể nhìn chị bởi những đôi mắt giận dữ. Họ nguýt ngoáy, nhiếc móc sau lưng chị. Rằng, Thu Cúc đúng là một con quỷ! Một con quỷ ăn thịt đàn ông! Đàn ông nào phải lòng ả ta, đều bỏ mạng một cách oan ức!