1. Ông Thủy bắt đầu đi thăm và kiểm tra tiến độ thi công của các công ty cấp dưới. Cả hai nhánh tây, đông của tuyến đường chiến lược này, Tổng công ty Ánh Dương đều trúng thầu. Mỗi nhánh dài hàng trăm cây số. Đây là một bài toán đố của Tổng công ty Ánh Dương. Ông Thủy, vì ân nghĩa, vì danh dự, và vì tiếng tăm đã quyết tâm thắng thầu. Nhưng thâm tâm ông biết, đó là một cục xương lớn khó gặm. Một bài toán hóc búa với nhiều tham số chưa xác định. Một đại công trình với nhiều ẩn họa chưa lường ước hết. Ông đã thắng thầu trước các tổng công ty hùng hậu, với chút duy ý chí của người lính trở lại chiến trường xưa. Duy ý chí là điều tối kỵ trên thương trường. Nhưng ông đã tặc lưỡi bỏ qua. Tổng giám đốc của các tổng công ty khác, đều là các tay trẻ tuổi, và rất quyết đoán. Nhưng trong dự án này, họ không muốn mạo hiểm. Họ thật sự chúc mừng ông, khi tên Tổng công ty Ánh Dương được xướng lên. Sâm banh được bật nút nổ bôm bốp. Tổng giám đốc của các tổng công ty không trúng thầu lần lượt đi qua trước mặt ông. Ông đứng thẳng người, hơi ngẩng cao đầu. Vẫn phong thái ung dung. Quảng giao. Điềm tĩnh. Tiếng ly pha lê chạm nhau lanh canh. Giòn vang. Lời các đồng nghiệp nể phục. Lời các quan chức Bộ an vui. Việc lớn đã trao đúng nơi đúng chỗ. Đúng tay người chí lớn...
Ông đã ở đây một ít năm, đi lại đôi lần trên các cung đường này. Ông tin những nền đường đất sỏi, đá gan gà qua các triền đồi. Những lòng đường đá xám nguyên sơ dưới các chân núi, hang lèn. Chúng sẽ giúp ông bao nhiêu công đầm nén, lu lăn. Nhưng núi non miền Trung nghiêng như mái nhà. Lắm vực sâu đèo cao hiểm trở. Con đường nhiều phần xẻ vào lòng núi, sườn đồi. Nơi rừng nguyên sinh đã bị đốn phá căn bản. Ẩn họa những sụt lở, chuồi trượt đất sau mỗi cơn mưa không lường hết được. Sông suối miền Trung dốc đứng. Nước chảy xiết hỗn hào. Địa tầng địa mạo chồng chất bí ẩn. Dưới chân các dãy núi đá vôi phủ dây leo giăng giăng bạt ngàn như sóng đại dương kia, ai biết có bao nhiêu con sông ngầm, bao nhiêu vực ngầm, mà khi khoan khảo sát, mũi khoan không chạm tới! Chỉ đến khi thi công nó mới lộ mặt. Khi đó, công cán và kỹ thuật xử lý không thể tính hết...
Nhưng giờ đây, ông đã cưỡi lên lưng hổ. Vẻ ngoài điềm tĩnh, song ai biết trong ông như có nước sôi lửa bỏng. Chỉ mong những rủi ro kia càng ít càng hay. Các công ty của ông đang rải quân trên các cung đường. Đã bắt tay vào cuộc. Máy móc, lán trại đã tập kết từ vài tháng trước. Đại bản doanh dã chiến của Tổng công ty Ánh Dương cũng đã dời vào đây. Ông sẽ có mặt hằng ngày trên các hiện trường. Sẽ chỉ đạo quyết liệt, xử lý nhanh các tình huống. Quyết không để đội giá. Không để trượt thời gian. Ông gần như đã đặt cược uy tín cả đời mình, lên công trình cuối cùng, to lớn và rất ý nghĩa này. Xong, ông sẽ nghỉ hưu...
Cả nhóm đi bộ. Chương trình kiểm tra hôm nay dành cho nơi gần nhất, Công ty Bình Minh. Cậu Doanh đi đầu dẫn đường. Từ đại bản doanh dã chiến của tổng công ty, đến chỗ trú quân của lão Thông bạc, chưa đầy cây số. Một con đường đất mở qua loa, chạy song song bờ sông. Ông Thủy chợt thấy xốn xang bồi hồi lạ thường. Dòng sông, ngọn núi xưa vẫn đấy. Nhưng giờ nom khác hẳn. Bãi bờ phía nam chằng chịt hố bom đỏ loét, đã thay bằng những bãi ngô non trái vụ mướt xanh. Ngày xưa, quãng này là chiếc cầu phao giả. Do anh Chất và mấy người đảm trách. Là nơi hứng bom thay cho bến phà Long Sơn như cái cầu chì trong mạch điện nối hai đầu bờ, của đường Mười Lăm trên kia. Vào những năm cuối của cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc, đơn vị ông nhận thêm nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Và đêm đêm, chiếc cầu phao giả cũng được cắt rời quãng giữa, để các sà lan chở xe tăng ngược từ cửa biển Nhật Lệ đi qua. Tăng leo lên bờ bãi đất bên kia. Từ đây, tăng nổ máy vượt qua đường tàu, cắt đường Mười Lăm, rẽ theo đường Mười đi vào. Xe tăng được tập kết dưới rừng cao su Nông trường Quyết Thắng. Bên này bờ sông Bến Hải. Dưới những chiếc hầm được đào sẵn. Trên đầu có lưới ngụy trang. Tất cả phải hoàn tất trước khi trời sáng. Khi đoàn tăng đi hết, anh Chất cho nối cầu phao giả lại như cũ. Và làm giả những vết xe tải vượt cầu trong đêm. Bằng cách lăn mấy chiếc lốp xe cũ, trên đoạn đường đất cát giáp hai đầu cầu...
Chiếc cầu sắt trên đường hỏa xa, từ đây nhìn lên sừng sững giữa trời. Nó đã thay thế cái không gian trống toang hoác xưa kia. Nghe nói, chiếc cầu này bị ta giật đổ, khi ngăn bước tiến của quân Pháp hồi chín năm kháng chiến. Khi ông ở đây, lòng sông trơ ra hai mố cầu, và giữa dòng mấy trụ bê tông hoen gỉ. Nom không khác một cửa miệng, răng bị rụng thưa.
Con đường đất vắt qua đường tàu, xuống ngay một vùng đất phẳng. Ngổn ngang lán trại, kho tàng, máy móc. Con đường Mười Lăm qua đây tạm đứt đoạn, do chiếc cầu vĩnh cửu đang thi công. Người ta làm đường dẫn, lưu thông chung qua lòng cầu đường sắt. Ngọn núi Đầu Rồng vẫn hoang vu và uy nghiêm, ngay sau dãy lán công nhân. Dù cây cối đã lên rậm rì rậm rịt, nhưng cái hang Miệng Rồng mà dân địa phương gọi là Hàm Rồng vẫn trông thấy. Một khoảng trống đen ngòm sau cây lá. Có những khối thạch nhũ từ trên cao rũ xuống, nom như những chiếc răng. Ông đã ở đó năm năm thời trai trẻ, trước khi đi Liên Xô. Năm năm bằng vốn nửa cuộc đời! Phía trên hang Hàm Rồng, còn có một hang nhỏ nhưng sâu. Người ta gọi là hang Mắt Rồng. Đội của ông chưa ai dám đặt chân lên đó. Đường lên rất hiểm. Đá lèn dựng đứng, rêu xanh mờ lối lên. Lại nghe nói, bên sâu trong hang Mắt Rồng, có một trái tim quỷ. Bình thường nó im lìm như hòn đá xám. Hay như cục sắt nguội. Nhưng khi thấy bóng người bước vào, cục sắt nguội lập tức phát sáng, vàng chóe. Như vàng luyện trong lửa. Và từ đó, xỉa ra từng chùm tia sáng xanh lóa mắt. Ma quái. Khiến cho không ai có thể thấy được gì trong hang. Ai trúng phải những tia sáng đó, nặng thì bỏ mạng, nhẹ cũng tật nguyền suốt đời. Trái tim quỷ gây bao chuyện động trời, làm điêu đứng dân tình thế thái xứ này. Khiến ai cũng nơm nớp sợ hãi. Không biết tự đời nảo đời nào, và bằng cách nào, người ta đã đặt bên ngoài cửa hang Mắt Rồng, một cái am nhỏ. Thờ trái tim quỷ. Mong cho linh hồn nó đừng ám phải con gái đẹp trong vùng...
Lão Thông bạc đón đoàn kiểm tra trong cái lán trung tâm. Sau ly nước chè tươi vàng màu mật ong, lão mời ông Thủy cùng đoàn tùy tùng ra hiện trường. Lão biết tính ông Thủy, văn bản báo cáo nhét vào túi, cho ông làm căn cứ khi cần. Còn mọi việc được thể hiện trên thực địa. Công việc thi công, có tuân thủ quy trình kỹ thuật không! Thao tác vận hành máy móc, có bảo đảm kỹ thuật và an toàn lao động không! Bố trí thi công các hạng mục trên thực địa, có tối ưu không! Có bị cản trở nhau, vướng chân nhau, dẫn đến lãng phí nhân công nhân lực không! Tất cả đều phơi bày trên hiện trường. Giữa thanh thiên bạch nhật. Không giấu giếm đi đâu được...
Lão Thông bạc đi nhanh như con mèo, qua những bãi sắt thép, nơi công nhân đang buộc các lồng thép, nom như những chiếc rọ sắt khổng lồ. Người đi lại lọt thỏm trong đó. Ông Thủy kín đáo đưa mắt nhìn những ống siêu âm buộc kèm phía trong lồng sắt. Chất lượng bê tông các cọc nhồi của mỗi trụ cầu, rồi sẽ được kiểm tra bằng phương pháp siêu âm thông qua hệ thống ống này. Dòng sông rộng, núi đá phía thượng nguồn dốc, mùa mưa nước chảy xiết, việc thi công sẽ rất gian nan.
Cả đoàn dừng lại trên bờ đất cao, nơi tiếp giáp phần cầu dẫn trên cạn. Hai bên đang được xây đá hộc giữ đất. Dưới lòng sông rộng, nước xanh lè, chấp chới con sóng lăn tăn trong nắng buổi sớm. Sau những cơn mưa đầu mùa, dòng sông duềnh lên, rộng mênh mông. Hai chiếc sà lan cỡ lớn, mỗi chiếc ước bảy, tám trăm tấn, đang đỡ trên mình hai con vật bằng sắt khổng lồ. Gần bờ bên kia, là chiếc máy khoan cọc nhồi. Với mũi khoan đường kính xấp xỉ hai mét. To hơn cái nong phơi lúa nhà quê thời xưa. Đang xoáy vào lớp đá đáy sông. Âm thanh rùng rùng dội từ lòng đất. Nước rung những vòng xoáy tròn lan trên mặt sông. Trên sà lan bên này bờ sông, chiếc cần cẩu màu cam, đang vươn cái cổ dài ngoẵng, móc toòng teng chiếc rọ sắt khổng lồ, như tha thứ đồ chơi giữa không trung. Họ đang xếp các lồng sắt lên sà lan, chuẩn bị đổ bê tông cọc nhồi thứ nhất.
Trên sà lan, năm bảy bóng người áo xanh mũ vàng, đang sẵn sàng cho các thao tác kỹ thuật tiếp theo. Chợt một bóng dáng thon thả, quay ngoắt về phía bờ. Không biết, do trông thấy lão Thông, hay trông thấy ông Thủy đã cười toe toét, vẫy tay. Hóa ra là Thu. Lão Thông bạc quay sang ý tứ nhìn vào mắt ông Thủy. Ông Thủy nhíu mày, quay đi. Ông dị ứng với dáng hình ấy. Và nhất là, đôi mắt ấy. Chính nó đã ám ảnh thời trai trẻ của ông ở đây. Và mới hôm kia, đã làm ông hỏng quả bóng cuối cùng, để dẫn đến cả đội thua cuộc...
Cả đoàn quay trở lại. Bước trên mặt đường cấp phối cao ngất, so với xưa kia là lối xuôi xuống bến phà. Con đường dẫn cao ngang với mặt con đường hỏa xa. Ngày xưa, ở hai phía bờ sông này, đường hạ thấp thoai thoải. Lưỡi phà được trườn trên mặt cát bến sông. Ô tô đèn gầm. Bò lên lắc lư, tròng trành. Lòng phà lung liêng. Phà nhỏ, mỗi chuyến qua ba, bốn xe. Xe chở đạn. Xe chở gạo. Xe quân trang quân dụng, thuốc men. Xe kéo pháo. Xe chở quân. Từ hướng bắc vào. Từ trong ra, đa phần xe chạy không. Một số xe chở thương binh. Thỉnh thoảng có tù binh. Hay học sinh sơ tán, hoặc cán bộ công tác. Hai chiếc phà thay nhau. Đều đặn. Chiếc này cập bến bờ bắc, thì chiếc kia cập bến bờ nam. Và ngược lại. Những người lái phà căng mắt trong bóng tối. Tất cả nhờ vào ánh trăng sao của trời. Nhiều khi là ánh pháo sáng của địch treo đâu đó phía xa gần. Còn lại đi trong trí nhớ, cảm giác, thói quen. Phà đi trong nước mặn, ánh lân tinh chói ngời, lấp lóa hai mạn. Và ngự trị tất cả, một thứ ánh sáng không gọi thành tên, ánh sáng tự bản năng sự sống. Sự sống không bao giờ đầu hàng trước bất kỳ trở lực nào. Tựa ngọn cỏ bị tảng đá đè lên. Nó buộc phải trườn dưới lòng đất một quãng, rồi ngoi lên phía bên kia. Tươi xanh đón ánh nắng mặt trời và hít thở bầu không khí trời ban. Thời đó, trong các báo cáo thành tích của mình, ông gọi đó là ánh sáng niềm tin! Nghe được ý này, các cấp lãnh đạo đánh giá như một phát minh của một thanh niên dạt dào lý tưởng cách mạng...
Ông Thủy nhớ, trước khi xuống phà, xe tập kết từng dãy dài hai bên. Tất cả đều được ngụy trang kỹ càng. Bất thần có pháo sáng, xe dạt vào hai phía đường. Nom như những bụi cây bất động. Để lại mặt đường trống trơ. Kẻ địch trên trời khó phát hiện. Đại đội thanh niên xung phong của ông giữ cung đường có bến phà Long Sơn hiểm yếu này. Điều tiết xe xuống phà. Dập lửa cứu người, cứu xe, san lấp mặt đường kịp thời sau mỗi lần bị máy bay địch giội bom, phóng rốc két. Nguy hiểm và ác liệt nhất, là bộ phận trực tiếp điều hành ở bến phà. Nó không được cơ động như trên đất liền. Cũng không thể trốn tránh, ẩn nấp vào đâu được. Khi pháo sáng treo trên đỉnh đầu, mọi cái như trơ ra giữa ban ngày. Ngỡ trông rõ từng chi tiết nhỏ, kể cả cái kim trên mặt đất. Khi đó, chỉ còn giơ lưng chịu trận. Bom dựng những cột nước lên trời. Những tiếng nổ với ánh chớp ma quái bao trùm. Mảnh bom bay vèo vèo. Tất cả chỉ còn nhờ vào sự may rủi. Có thể sau những cột nước, cột khói, cột lửa mù trời, các thùng xe chỉ bị mảnh bom sây sát. Cả đoàn xe vẫn nguyên lành chuyển bánh trong đêm, sau khi lũ giặc trời bỏ đi. Nhưng cũng có thể có xe bốc cháy. Có thể có xe nổ tung tan tành. Có thể nhiều người không tìm ra xác. Việc khắc phục hậu quả, là rất khó khăn và mất thời gian. Nhưng cuối cùng, vẫn phải thông đường, thông bến. Sáng hôm sau trên bến phà, không còn dấu vết gì nữa. Kẻ địch bay qua đây, không thấy bóng một con phà nào, hay một chiếc ô tô nào. Tuồng như, những thứ chúng thấy đêm qua ở đây, chỉ là chiêm bao, là ảo giác...
Người ta bố trí ở đây hai trung đội chạy phà. Mỗi trung đội với hơn hai mươi đàn ông trai tráng, đảm trách mỗi bến sông và một con phà. Trung đội ông ở bến bờ bắc, dưới chân núi Đầu Rồng. Lấy hang đá Hàm Rồng làm chỗ trú ẩn, ngủ đêm, thay ca đổi kíp. Tất nhiên, dọc hai vệ đường, có các con hào chữ Z ngoằn ngoèo, sâu quá đầu người. Và bên cạnh chúng, rất nhiều những chiếc hầm chữ A bằng gỗ nguyên cây vững chắc. Dành cho những người thường trực bến phà, và cả người đi qua khi có sự cố. Nhưng hang Hàm Rồng vẫn là chỗ trú ẩn hằng đêm an toàn nhất.
2. Cả đoàn theo lão Thông bạc đi qua các dãy lán cán bộ công nhân. Ở giữa các dãy lán nam và nữ, là lán lão Thông bạc và đám tùy tùng Công ty Bình Minh. Các lán đều làm cùng cỡ. Mái lợp lá cọ vàng hươm. Vách bằng cót ép công nghiệp nâu sẫm. Bên trong có những gian lớn, giường đặt san sát. Cuối dãy lán nam có hai phòng nhỏ. Khi đoàn đi qua cửa một gian phòng nhỏ, chợt nghe bên trong tiếng rên ư ử. Không, đó là tiếng hát của một giọng nam trầm, mùi mẫn và khê đặc, điệu cải lương. Đêm nay lạnh... tìm em... trên gác tối! Trong cánh tay em... dâng... cả tháng năm ăm... thừa ừa...
Lão Thông bạc khẽ kéo cánh cửa liếp. Một thân hình trong bộ y phục bảo vệ nằm ngửa trên giường. Hai chân mang giày vải cổ cao, đế răng cá sấu, kiểu nhà binh, thò ra ngoài mép giường. Thoáng thấy Thông bạc, lão ta bật dậy như lo xo. Đứng nghiêm, mắt nhìn thẳng. Hai chân rập vào nhau. Hai tay đặt nẹp chỉ quần. Người đậm và chắc. Da ngăm đen. Mặt lão đỏ ửng. Cái đầu hói cũng láng đỏ. Tóc ba phía bạc lốm đốm, dày và xoăn tít. Đôi mắt sâu, ẩn dưới đôi mày chổi xể rậm. Cái cằm vuông đeo một vành râu rậm, cũng bạc muối tiêu. Lão chộp vội cái mũ lưỡi trai rơi trên giường, chụp lên đầu.
- Anh đang làm gì đây? - Thông bạc cười, nhã nhặn hỏi.
- Báo cáo giám đốc, em đang đợi phiên mình. Thấy phòng để trống, ngả lưng tạm...
- Thế à? Vậy anh nghỉ đi nhá...
Lão Thông quay ra, nói nhỏ với ông Thủy và đoàn tùy tùng:
- Đấy là Luân Trương Phi, tổ trưởng tổ bảo vệ công trường.
Lão Thông kể rằng, Luân người Quảng Trị. Hồi nhỏ, mê đứng mê ngồi nhân vật Trương Phi trong các tích tuồng. Nên theo học võ. Sau giải phóng Bảy Lăm, theo một đoàn tạp kỹ đi diễn đây đó. Vừa múa võ, vừa sắm các vai bặm trợn. Hết thời các đoàn tạp kỹ, lão về mở một lớp dạy võ. Một hôm, Thông bạc đi qua cửa một siêu thị lớn. Mải nhìn kiến trúc lạ, lão không biết mình bị móc túi từ khi nào. Tiền và các giấy tờ quan trọng để ở túi trên, không cánh mà bay. Thông bạc tìm đến đồn công an báo cáo. Viên sĩ quan trực cười bảo rằng, muốn nhanh, khi tiền chưa bị chúng tiêu, thì gặp ngay Luân Trương Phi. Anh ta chỉ vào ngôi nhà mái tôn trong khu vườn, cạnh con hẻm. Bọn móc túi, hay cắp vặt vùng này, chỉ sợ mỗi Luân Trương Phi. Quả thật, độ mười lăm phút sau khi kiến diện Luân Trương Phi, một tên trẻ măng đã lễ phép trao cho Thông bạc gói tiền nguyên vẹn và đầy đủ giấy tờ, ngay trước mặt Luân Trương Phi. Cảm kích trước tấm lòng nghĩa hiệp của anh ta, Thông bạc đã mời anh ta về, cho ký hợp đồng làm bảo vệ. Từ ngày khoác bộ đồ bảo vệ, anh ta càng chăm chút dáng vẻ và sắc mặt, cho giống Trương Phi hơn. Luân Trương Phi làm việc rất tốt. Được anh em đề cử, giữ chức tổ trưởng tổ bảo vệ công trường.
Phòng thứ hai cũng không đóng cửa. Nhưng không có người. Chỉ hai chiếc giường trống. Trên gác có hai chiếc màn trắng. Có lẽ họ đang ở hiện trường. Lão Thông bạc giải thích:
- Hai phòng này dành cho khách nam. Chủ yếu các anh ở Công ty Tư vấn Giám sát của Bộ. Đôi khi có cánh nhà báo nghỉ trưa... À, Hồ Rật, con trai Hồ Rần, bạn anh ngày xưa, ở phòng này đấy. Cậu ấy là kỹ sư giám sát...
- Thế à? Cậu ấy giống cha như hai giọt nước ý... - Ông Thủy gật gù nhớ lại.
Dãy lán nữ cũng cấu trúc hệt dãy lán nam. Nhưng hai phòng dành cho khách được đặt ngược lại. Ngay sát dãy của Giám đốc Thông bạc. Công trình cầu Long Sơn là công trình lớn, trọng điểm của Công ty Bình Minh, nên văn phòng dã chiến của giám đốc đặt ở đây. Lão Thông bạc là con người giỏi giang, chu đáo. Tận tâm tận tình. Với cả trên cả dưới. Quả thật, lo cho đời sống hàng trăm con người trong tay, không phải chuyện đùa.
- Hai phòng đơn này - Lão Thông bạc chỉ tay nói - Cũng dành cho khách. Khách nữ. Một phòng thường xuyên của Lệ Thu. Phòng kia không thường xuyên của Thảo Duyên. Nhưng hai cô nàng dọn sang ở chung. Gái xứ Nghệ khí khái lắm. Nhưng không hiểu sao, lại rất hợp nhau...
- Có phải hai cô... hay đi với nhau không? - Ông Thủy ngập ngừng hỏi, chợt nhớ lần hai cô đứng ôm nhau cười khúc khích trong trận bóng chuyền hôm ấy.
- Phải, phải! Chính hiệu con nai vàng!
- Người của cơ quan nào thế?
- Lệ Thu, kỹ sư trưởng tư vấn giám sát, của nhánh đường phía đông này đấy. Chính anh ký hợp đồng với họ kia mà? Còn Thảo Duyên, phóng viên báo ngành ta, thường trú trên hai nhánh tây, đông của đại công trường này...
- À à... Mình ký với công ty họ, nhưng không nhìn kỹ danh sách kỹ sư kèm theo. Vả chăng, có nhìn thì cũng biết ai lại ai đâu...
Ông Thủy vừa đi vừa khẽ gật đầu một mình. Thế là, ngay sát bên sườn, có hai lực lượng chuyên theo dõi, “bới móc” công việc thi công, trong từng công đoạn, của mỗi công trình. Hai lực lượng này mà kết hợp với nhau, dễ làm mình xiêu điêu chứ không phải chơi. May mà, họ đều là nữ. Hy vọng, phụ nữ vốn mềm mại, sẽ dễ chịu hơn.
- Này… - Ông Thủy quay lại, nói nhỏ vào tai Thông bạc - Ông phải tìm hiểu kỹ về hai cô nàng này nhé. Phải đáp ứng mọi yêu cầu, mọi đề nghị của họ. Nhớ đấy nhé? Không cà trớn, ba lơn được đâu!
- Dạ, em hiểu cả rồi. Anh đừng lo. Bước đầu đã biết, Lệ Thu lấy chồng sớm. Khi cả hai anh chị còn là sinh viên. Được một đứa con gái, thì anh chồng mất vì tai nạn giao thông. Giờ cháu đang sống với bà ngoại. Ở một vùng quê miền núi huyện Đức Thọ. Còn Thảo Duyên người Quỳnh Lưu, trước có chồng là công an. Nhưng anh chồng ngày một bê tha. Rượu chè nghiện ngập. Suốt ngày lè nhè. Thường xuyên thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh mắng cô ta. Không tiếc lời. Không tiếc tay. Buộc cô ấy phải ly hôn. Và công khai tuyên bố, sẽ không bao giờ lấy chồng nữa. Khi nào thích, gặp đối tượng tâm đầu ý hợp, thì cặp bồ, kiếm đứa con bầu bạn sau này...
- Hừm... Cả hai đều cá tính mạnh đấy. Không coi thường được đâu, lão khọm ạ!
- Dạ vâng! Em hiểu. Toàn những con ngựa bất kham đấy. Nhưng em sẽ cố gắng. Cơ mà, anh cũng phải giúp một tay đấy...
- Tớ ở trên cao, chỉ đạo tầm xa, giúp được gì!
- Anh thừa sức mà! Anh không thấy... ánh mắt Lệ Thu... nhìn anh sao?
- Bậy nào! Tớ vợ con đề huề. Lại già khú đế. Chỗ cậu còn ối thanh niên trai tráng...
Ông Thủy phẩy tay, vùng vằng bỏ đi. Trong khi lão Thông bạc cười tủm tỉm. Nheo nheo đôi mắt sâu dưới đôi mày rậm màu muối tiêu. Và bàn tay xoa xoa cái cằm đầy chân râu cũng màu muối tiêu.
3. Rời công trường cầu Long Sơn, ông Thủy cùng đoàn tùy tùng bước theo con đường Mười Lăm. Con đường mới được thiết kế rộng gấp ba lần con đường cũ. Đang được khẩn trương rải cấp phối. Mấy đợt nắng, bụi mù mỗi khi có xe đi qua. Dù xe tưới nước được phun từ sáng, nhưng dưới cái nắng gay gắt đầu thu, vẫn nhanh chóng bốc hết hơi nước. Tuần vừa rồi mưa to liên tiếp, mặt đường lại sủi bùn mỗi khi xe qua. Xe trọng tải lớn chở vật liệu, siết vào lòng đường, thành vồng thành rãnh.
Con đường Mười Lăm giờ được nâng cao đáng kể. Nhất là đoạn hai đầu cầu Long Sơn. Vì cầu bê tông thiết kế cũng có độ cao như cầu hỏa xa, để các phương tiện tàu thuyền qua lại thông thương bốn mùa. Vả chăng, cũng đề phòng khi gặp bão to lũ lớn, nước nguồn dâng cao, cuốn về xuôi cả những cây đại thụ bật gốc, dễ ngáng thân cầu. Người Pháp xưa thiết kế cầu hỏa xa, hẳn họ đã thông hiểu địa hình nơi này.
Không còn nhận ra dấu vết con đường Mười Lăm cũ, thuở ông còn ở đây. Nó đã bị con đường mới trùm lên. Xưa, nó là con đường rải đá. Thi công theo công nghệ cũ. Lòng đường được đào sâu, lu kỹ. Dưới cùng, đặt khít một lớp đá hộc, to như táng nhà. Tiếp đến, lớp thứ hai rải dày loại đá củ đậu. Lớp thứ ba, rải loại đá nhỏ hơn. Đường kính độ bốn, năm phân. Bằng trứng gà trứng vịt. Sau khi lu kỹ, người ta trải lớp đất sỏi dày. Và lại lu phẳng. Cuối cùng là lớp cát sông. Lăn lu kỹ càng. Con đường vồng căng. Bảo đảm không lún. Nước mưa rút nhanh. Xe đi không dính bánh. Nhưng khi chiến tranh, lưu lượng xe đi dày đặc. Bom đạn đầy trời. Lực lượng duy tu bảo dưỡng không đáp ứng kịp. Con đường bị bào mòn, trơ đá. Nhiều nơi bị khoét sâu từng quãng, chỉ còn lớp đá hộc gập ghềnh. Xe đi qua tròng trành, ngúc nga ngúc ngắc như kẻ say rượu. Đó là chưa kể những đoạn bị bom khoét sâu, nước ngập, không san lấp kịp. Xe phải vòng tránh trong đêm.
Ông Thủy đưa mắt nhìn xuống những vùng đồi rộng lớn, ở hai phía con đường. Giờ đã bạt ngàn cao su tiểu điền, cây đang kỳ khép tán. Xưa, là những đồi sắn, nương khoai của dân địa phương. Chiến tranh ngày càng khốc liệt, phà Long Sơn trở thành túi bom. Đoạn đường Mười Lăm qua đây, ngày nào cũng có xe cháy, người trọng thương. Dân không dám đi đến đây. Những nương sắn chạy dọc bờ sông phía bắc này, đành bỏ mặc. Cánh thanh niên trung đội ông, thường đợi khoảng thời gian ít ỏi, giữa ngày chưa tàn, và đêm chưa đến, để đi lấy sắn. Đấy là khoảng thời gian máy bay địch không hoạt động. Bọn phi công đánh ngày, thì đã vội vã đạp bom xuống đâu đó, trước khi hạ cánh xuống tàu sân bay Hạm đội Bảy ngoài khơi. Bọn đánh đêm thì chưa đến giờ. Sắn được đưa về luộc, hoặc nướng, giữa kíp làm đêm.
Lúc đó, ông rất áy náy. Không ai thu hoạch. Bỏ mặc mưa nắng quá mùa. Nhưng sắn ấy không phải vô chủ. Việc đồng đội ông đi đào sắn như thế, cũng không thật đàng hoàng. Ông lơ đi cho anh em. Coi như không biết. Hoặc coi như họ đi mót được. Nhưng mình thì không. Nhỡ đến tai cấp trên, rằng, ông tham gia “trộm sắn” của dân, thì sự thể sẽ ra sao? Đã khối người, quyết định phong anh hùng về đến đơn vị. Vậy mà, vì lý do gì đấy, nó vĩnh viễn không được công bố...
Thật may mắn cho ông. Một chiều đứng trên cửa hang Hàm Rồng nhìn ra xa. Chợt thấy một bóng người. Lưng đeo gùi, vai vác cuốc. Đang đi nhanh về đồi sắn. Hẳn là người địa phương đi đào sắn. Ông lao xuống đường. Vượt qua con đường tàu lổn nhổn đá và cây dại. Đi như chạy về phía đó. Nương sắn bỏ hoang đã lâu. Mặt đất giăng dày thứ cỏ chỉ. Những cây sắn rụng hết lá trong mùa đông, đang nứt những mầm mới. Người đàn ông đang cúi mình, nhanh tay xợt lớp cỏ trên mặt đất, quanh gốc sắn. Đó là một ông già. Tuổi chừng bảy mươi. Nhưng còn quắc thước. Cơ bắp khá đầy. Da sạm nắng. Đầu tóc để dài, bạc quá nửa, được chải lật ra sau. Phô vầng trán cao đến đỉnh đầu.
- Con xin chào cụ! - Thủy cất tiếng khi đứng trước ông già - Cụ dỡ sắn đấy à?
Có lẽ ông già lúc đó mới biết có Thủy bên cạnh. Ông dừng tay, thẳng người, nhìn Thủy khá thân thiện, nói:
- Phải! Chú đây là...
- Dạ, con là Thủy, thanh niên xung phong ở bến phà Long Sơn này...
- Rứa à? Mấy tháng ni chúng đánh rát, hỉ?
- Dạ, chúng đánh ngày đánh đêm ấy ạ. Thôi thì, tối mắt tối mũi...
- Dân cũng hãi, dạt về phía bên kia đồi. Lánh xa cái trọng điểm ni. Đói, nhưng sắn si đành bỏ hoang đây...
- Cụ không sợ sao?
- Răng không sợ, chú? Ai chẳng sợ chết? Nhưng mà, đói, đầu gối phải bò! Với lại, đạn bom có mắt! Nó lánh mình. Mình biết mô mà lánh nó, hỉ?
- Phải, phải! Cụ tranh thủ làm đi, con giúp một tay, kẻo trời tối...
Thủy người thành phố, không biết mô tê gì khoai sắn. Anh đứng xem ông già làm một lúc. Thao tác nhẹ nhàng và chính xác. Đầu tiên, giữ lưỡi cuốc thăng bằng, xợt lớp cỏ trên mặt đất, quanh gốc sắn. Sao cho lưỡi cuốc không đi quá sâu, chạm vào củ. Xong, hai tay nắm vào cây sắn, phía sát gốc. Vừa khẽ kéo, vừa rung giật nhè nhẹ thân cây. Nếu giật mạnh, tức thì, củ sắn sẽ đứt gãy, nằm lại dưới đất sâu. Mất công bới tìm. Ngược lại, nếu giật quá nhẹ, không đủ lực, cây sắn cứ nằm ỳ ra đó. Sau vài gốc, Thủy đã nắm được cách thức dỡ sắn bỏ hoang lâu ngày. Trong khi ông già nhổ gốc này, anh dùng cuốc xợt gốc kia. Khi anh thao tác nhổ cây, ông già chuyển sang xợt cỏ gốc nọ. Cứ thế, hai người phối hợp nhanh chóng. Có những gốc sắn to, củ nhiều, sức một người không kéo nổi. Lúc đó, cả hai cùng xúm lại. Miệng nhẩm một, hai, tay giật kéo nhịp nhàng, gốc sắn mới chịu bật lên. May mà, sau mấy trận mưa, đất mềm, việc đào dỡ cũng đỡ tốn công sức. Hai người mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Ngoảnh lại, sắn nhổ lên đã nghênh ngang sau lưng. Ông già tay đấm lưng, miệng phì phò thở, nói:
- Được rồi, chú! Cái gùi ni, chất nhiều lắm, cũng chỉ vài mươi cân thôi...
Hai người dừng nhổ, chuyển qua cắt củ, cạo vỏ đất. Cốt để xếp vào gùi được nhiều, và nhẹ. Công việc giờ nhẹ nhàng hơn. Hoàng hôn trong veo. Gió ngàn mát rượi. Mồ hôi ráo nhanh. Thủy thấy ông già không có nét gì là người nông dân thuần túy. Bởi đôi tay khéo léo. Bởi phong thái thong dong. Bởi dáng người khá thanh thoát. Có lẽ là một cán bộ đi hưu. Anh buột miệng:
- Thưa cụ, trước cụ làm công việc gì ạ?
- À à... Tôi... giáo viên dạy văn trường làng. Về sau có làm hiệu trưởng ít năm...
- À ra thế. Thảo nào...
Như chợt nhớ ra, Thủy ngập ngừng ướm hỏi:
- Thế... Thưa thầy! Người ta nói, trên hang Mắt Rồng, có thờ Trái tim quỷ. Có đúng không ạ?
- Ừ! Từ thời còn con nít chăn bò, tôi cũng đã nghe kể như rứa. Nhưng hãi, không ai dám leo lên, xem hắn vuông tròn ra mần răng...
- Đường lên khó, hay khó chuyện chi, mà thanh niên trai tráng mấy đời, không ai dám lên, thầy nhỉ?
- Đường lên khó, nhưng không phải là không lên được. Vì trên đó, đã có người lên dựng am thờ. Nhưng khó là khó chuyện khác. Thực hư chưa ai biết. Nhưng lời đồn đại, truyền đời đã mấy trăm năm. Chừ, giả dụ chú, leo lên mà bị các tia lửa xanh chói lóa chạm phải, hay như hít phải khí độc tích tụ ngàn đời phát ra. Chú về lăn ra chết thiệt, thì răng?
- Ừ à... - Thủy ngẫm nghĩ gật đầu - À... Thưa thầy, chuyện đầu đuôi thế nào, mà sinh ra trái tim quỷ?
Ông giáo già ngừng một giây. Hẳn là đắn đo chọn cách kể. Vì trời sắp tối.
- Chuyện dài lắm. Nghe nói, sau khai thiên lập địa xong, sông Long Sơn và núi Long Sơn tạo thành cảnh vùng sắc đẹp nhất trần gian. Có mấy cô tiên trên thượng giới bay xuống đây chơi nhởi. Dòng sông như dải lụa, ngời xanh màu ngọc. Tiếng nước qua thác giội lên những bản đàn ngọt ngào, réo rắt. Núi non điệp trùng muôn dáng vẻ. Cây xanh rợp trời bóng mát. Chim trời lảnh lót hát ca. Hoa trái bốn mùa ngọt lành thơm tho. Hang động nguy nga thạch nhũ. Dân tình hạ giới an vui. Ngày lao động chăm chỉ. Đêm về đốt lửa uống rượu, nhảy múa hát ca. Tốp con gái thắt đáy lưng ong. Múa điệu quay tơ dệt vải. Đám trai tráng mình trần đóng khố. Tay chân săn chắc như gỗ lim. Ngực như đá tảng. Nhảy điệu ném lao săn bắt thú rừng...
Các nàng tiên say mê. Mải vui chơi, quên cả ngày về. Ngọc Hoàng sai người xuống gọi, đám tiên nữ nhà trời mới chịu bay về. Nhưng có một nàng không chịu quay về. Nàng đẹp nhất. Ngang tàng nhất. Bướng bỉnh nhất. Phóng khoáng nhất. Nàng không rời mắt khỏi các chàng trai hạ giới. Nàng nói với người nhà trời, thượng giới có gì buồn vui? Có những người đàn ông đáng mặt kia không? Ta thích sống với họ. Ta thích cuộc sống ở đây. Hãy nói lại với phụ vương của ta, rằng ta xin người thứ lỗi. Ta nhất quyết không về!
Nàng tiên nói, và cởi váy xống mớ bảy mớ ba của tiên nhà trời ném đi. Mặc những y phục như con gái miền hạ giới. Nhưng, vẻ đẹp trời phú cho họ nhà tiên, thì không sao rũ bỏ được. Người cứ lồ lộ một dáng hình thon thả. Mái tóc cứ như mây như nước. Làn da cứ như tuyết như bông. Đôi mắt cứ như đáy, sông đáy giếng. Thăm thẳm và ngờm ngợp. Liếc phải người đàn ông nào, lập tức hồn vía anh ta bay đâu mất. Đám đàn ông con trai hạ giới cứ vây lấy nàng. Tận tụy phục vụ những gì nàng mong muốn. Đám đàn bà, con gái hạ giới, vừa yêu mến nàng, vừa căm ghét nàng.
Đám trai tráng bỏ bê công việc săn bắn, cày cuốc. Ngày đêm lẽo đẽo theo gót chân nàng. Nàng không thôi ban phát nụ cười và ánh mắt. Ai nấy sướng rơn. Ai cũng cảm thấy như mình đã chiếm được lòng nàng. Nhiều người ly vợ bỏ con để theo nàng.
Nhưng người đẹp chỉ có một. Mà đám đàn ông trai tráng các làng thì đông. Thoạt đầu, mọi việc diễn ra theo đúng tinh thần thượng võ. Người ta tổ chức các cuộc thi thố tài năng. Trên lưng ngựa, đôi một đao thương tranh chấp. Đủ ngón nghề kiếm cung. Ngầm hiểu rằng, người thắng cuộc cuối cùng sẽ có được nàng. Nhưng người đời vốn mưu sâu kế hiểm. Kẻ thắng trận trên võ đài sàn đấu, có thể chết nơi đèo cao hố thẳm. Hoặc nơi nẻo đêm mịt mùng. Không để cho người đẹp về tay trai làng Đông. Trai làng Tây tổ chức mai phục. Và ngược lại. Vô tình, cuộc chiến tranh vì người đẹp, diễn ra giữa các làng. Máu đổ. Nhà cháy. Oan gia ngút trời...
Ngọc Hoàng hay tin, đùng đùng nổi giận. Người gầm lên:
- Nó không còn là tiên, con gái nhà ta nữa. Nó đích thị là một con quỷ!
Cơn giận của Ngọc Hoàng ngút trời. Sấm vang chớp giật. Mưa gió tơi bời. Thiên Lôi được lệnh, vác lưỡi tầm sét sáng lóa, bay vút xuống hạ giới. Lượn một vòng, tìm núi Đầu Rồng. Một luồng lửa bảy màu lóe sáng. Chói ngời cả vùng sông núi Long Sơn. Lao vút như mũi tên vào cửa hang Mắt Rồng. Một tiếng nổ kinh thiên hãi địa. Vang động cả một vùng. Đất trời núi non chao đảo. Một đụn khói trắng khủng khiếp, trào ra từ cửa hang, đùn lên như ngọn núi cao. Trùm lấy cả núi đá Đầu Rồng.
Phải hàng giờ sau, khói tan, mưa tạnh, gió dừng. Nàng tiên - con quỷ đa tình, không còn nữa. Thân xác đã tan biến. Chỉ còn trên mô đá hình chiếc bàn con, ngay giữa lòng hang Mắt Rồng, một trái tim bằng vàng, lóe sáng lung linh. Về sau nguội dần, nó chuyển màu đồng đen. Và rất lâu sau nữa, nghe nói, nó có màu đá lèn...
Dân tình xứ này, vừa thương xót vừa khiếp hãi, lập cái am thờ trước cửa hang. Nhưng nghe nói, đã hàng ngàn năm nay, không ai dám lên. Càng không ai dám vào hang. Giả dụ, nếu thoáng thấy có bóng người, trái tim như hòn đá ấy, lập tức phát sáng. Những tia lóe xanh rợn người. Ai vương phải, không chết cũng thân tàn ma dại...
- Dân các làng được yên ổn từ đó, phải không, thưa thầy?
Ông giáo già trầm ngâm, khẽ lắc đầu.
- Không hẳn. Người ta bảo, linh hồn trái tim ấy thoát ra. Như mây như gió. Lang thang đây đó. Rồi nhập vào cô gái đẹp nhất. Cô gái ấy là hiện thân của trái tim quỷ. Khi mang linh hồn trái tim quỷ, nhan sắc cô gái đẹp khác thường. Quyến rũ một cách hoang dại. Kín đáo một cách buông tuồng. Dịu dàng một cách ma mị. Mê hoặc một cách lú lẫn hết thảy cánh đàn ông trai tráng.
- Thưa thầy, trong sách vở, hay trong dân gian, vùng này còn lưu dấu tên tuổi của các người đẹp mang trái tim quỷ như vậy không ạ?
- Có chứ! Nhiều! Nhiều lắm! - Ông giáo già xác nhận - Thời phong kiến, vùng này có ông tri huyện rất đẹp trai. Văn hay chữ tốt. Đỗ tiến sĩ đời Nhà Mạc. Con nhà gia thế mấy đời. Ruộng đất cò bay thẳng cánh. Trâu bò không đếm xuể. Nhà cửa nguy nga. Người ăn kẻ ở đông đúc. Thóc lúa, tiền của chảy về như nước. Quan tri huyện như ngồi trên núi thóc, núi tiền. Rứa mà, một chiều, ngài gặp phải cô thôn nữ trái tim quỷ. Ngài say như điếu đổ. Say không biết lối về. Ngày đêm bám riết người đẹp. Giặt khăn lau mặt cho người đẹp. Múc nước rửa chân cho người đẹp. Người đẹp có ý gì, quan ngài đích thân làm ngay tắp lự. Một hôm người đẹp nở nụ cười. Lần đầu tiên, quan tri huyện nhận được nụ cười của nàng ban phát. Nụ cười mê hồn. Rồi người đẹp ỏn ẻn, nói như rót mật vào tai: “Em muốn... quan ngài thế này... thế này...”. Tinh mơ hôm sau, loa truyền đi các làng. Dân kìn kìn gồng gánh kéo về. Quan tri huyện chia thóc chia lúa, chia tiền chia bạc, chia ruộng chia trâu, cho hết thảy người nghèo trong làng. Người người hớn hở. Người đẹp nháy mắt với tri huyện: “Mai, em đón quan ngài tại nhà. Chỗ nọ, chỗ nọ...”. Hôm sau, quan tri huyện tìm đến nhà người đẹp. Nhưng ra đón ngài, là một anh chàng lực điền, cơ bắp cuồn cuộn. Anh ta hất hàm hỏi, ông đến đây có việc gì? Ta là quan tri huyện... Ta đến tìm... đến tìm... Quan ngài lúng búng. Ông mà là tri huyện? Gã lực điền cười khẩy, quan tri huyện mỗi bước tiền hô hậu ủng, võng lọng nghênh ngang. Ông coi lại mình đi! Quan ngài nhìn xuống, chân trần bết đất, quần vo áo vận, ống thấp ống cao. Có ý thẹn, ngài quay ra. Quan đi hết làng này qua làng khác. Ngày này qua ngày khác. Cố tìm người đẹp. Lang thang như một kẻ ăn mày...
Ông giáo già dừng lại, khẽ cười, nói thêm:
- Cậu biết không? Vì chuyện này, mà về sau, mấy làng quanh đây, cấm có tìm ra địa chủ!
- Phải rồi! - Thủy hiểu ra - Nhiều ruộng đất trâu bò, là quan tri huyện. Nhưng lão đã bị trái tim quỷ mê hoặc, xui khiến, đem chia cho dân làng cả rồi! Nhưng chuyện đang hấp dẫn, xin thầy kể tiếp?
- Thời Pháp chiếm, đóng đồn dưới Quán Hàu. Vùng này lại xuất hiện trái tim quỷ nổi tiếng. Tên là mẹt Loan. Vùng này, sinh con trai thì đệm là cu. Sinh con gái, thì đệm là mẹt. Con bé nghèo đói, nhưng nhìn nó, ai cũng giật mình. Trong cái mớ áo toe quần tã, một cơ thể tuyệt đẹp đang lớn dần. Từ dáng vóc, làn da, đến mái tóc. Đặc biệt là đôi mắt. Mười hai tuổi, đám thanh niên choai choai đã mê mệt. Vừa thích thú, vừa sợ hãi. Vừa muốn đến gần, lại vừa cố lánh xa. Mặt mày cứ lấm la lấm lét. Nhưng con bé, hình như không biết điều đó. Chỗ nào có con trai, thì hồn nhiên tìm đến. Khiến cho các gia đình có con trai tuổi choai choai, đuổi nó như đuổi tà. Nó gần như lạc loài giữa dân làng. Một hôm, Pháp ở đồn Quán Hàu đi càn. Dân làng chạy hết. Mẹt Loan biết, chạy theo dân làng cũng bị hắt hủi. Vả chăng, nó cũng muốn coi bọn Pháp mặt ngang mũi dọc ra sao. Liền lấy nhọ nồi bết lên mặt. Và chui vào núp dưới gốc cây rơm. Lính Pháp đi một vòng hết làng, tìm không ra Việt Minh. Chúng tụm năm tụm ba trước sân một ngôi nhà lớn. Một tên ra tè lên cây rơm. Không chịu được cái mùi nước tiểu khai rình ướt hết cả đầu, mẹt Loan chui ra. Tên Pháp bất ngờ, giật mình bỏ chạy. Nhưng định thần lại, chúng thấy đó là một con điên. Mặt mày lem luốc. Người ngợm rơm rác bẩn thỉu. Cả bọn bỏ đi.
Dân làng trở về, ngạc nhiên khi thấy mẹt Loan không sao. Lại được nghe nó kể về những lính Tây mắt xanh mũi lõ. Họ lắc đầu, lè lưỡi. Đám trai trẻ phục nó một phép.
Càng lớn, mẹt Loan càng đẹp. Mười sáu tuổi, nó đẹp mê hồn. Nó hay la cà, muốn theo đám thanh niên du kích. Cánh du kích rất thèm có nó. Nhưng du kích chỉ toàn nam. Con gái chân yếu tay mềm, ai dám kết nạp vào, chỉ tội vướng chân. Hắt hủi nó. Hằng ngày ra chợ, mẹt Loan bán trái bù, trái bí, mớ rau. Ăn vận nâu sồng phai bạc. Nhưng tên đồn trưởng Pháp trông thấy phát điên. Hắn nhất định quả quyết, đây là một vẻ đẹp lai Pháp. Và hắn nể nang tôn thờ Loan. Hắn lịch sự làm quen. Đon đả chào hỏi. Dần dà, mời được cô nàng vào đồn chơi. Đãi đằng quà cáp. Bắt gã thông ngôn phải dịch cho được những lời có cánh, hắn dành cho nàng. Hắn xun xoe nịnh bợ nàng. Khóm nóm chiều chuộng các sở thích của nàng. Hắn như tên đầy tớ tận tụy, cố làm vui lòng nàng. Dẫn nàng đi khoe ngách này ngõ kia trong đồn. Mắt người đẹp ngời lên, khi thấy những khẩu súng bóng xanh ánh thép. Hắn như nở từng khúc ruột. Để mặc cho nàng thoải mái xem súng.
Một lần, đứng giữa sân đồn, nàng chỉ tay về dãy xóm làng xanh um bên kia đồi. Làng em đấy. Xin đại quan chớ cho lính đi bố ráp. Được, được! Sẽ như thế, như thế! Tên đồn trưởng mừng rơn, vì có dịp làm vừa lòng người đẹp.
Nhưng dân các làng trong vùng ghét mẹt Loan như ghét tà ma. “Đồ đĩ rạc! Đồ me Tây!”. Mặc, mẹt Loan vẫn đi lại với đám du kích trai tráng. Các chàng trai này, có mẹt Loan đến, thì nói cười rổn rảng. Ngượng nghịu bẻ đốt ngón tay. Xăn văn lân la trò chuyện. Trái tim quỷ được dịp, ban phát ánh mắt và nụ cười mê hồn cho mỗi người. Nhưng cuối cùng, tay đội trưởng du kích chiến thắng. Anh chàng kéo tuột cô nàng, đi mất tăm đâu đó.
Một đêm tối trời. Bỗng súng trong đồn nổ lên đì đẹt. Hóa ra, du kích mò vô trộm súng. Họ chỉ toàn giáo mác đại đao. Nhìn những khẩu súng xanh ngời nước thép, thèm không chịu được. Khi mỗi người ôm hai khẩu lao ra, tên lính gác phát hiện. Còi báo động thét lên. Súng bắn đuổi theo mấy loạt. Một bóng người ngã xuống. Tốp lính xông ra chộp lấy, kéo vào. Máu trào ra đẫm cả ngực áo. Tên đồn tưởng lao đến, lật ngửa xác người trúng đạn. Hắn rú lên thảm thiết, ngồi rũ bệt xuống đất. Hắn lăn lộn gào lên thất thanh. Trời ơi đất hỡi! Đôi mắt hắn thất thần. Đó là người đẹp của hắn. Một vẻ đẹp lai Pháp, trái tim quỷ!
- Hay quá! Hấp dẫn nữa - Thủy gật gù.
- Phải! Còn nhiều chuyện hay nữa. Nhưng muộn rồi...
Hai người quay lại công việc. Chiếc gùi mây sắn đã chất đầy. Ông giáo già chui vào bờ cây cạnh đấy, lôi ra mấy sợi dây leo. Bàn tay gân guốc của ông khéo léo buộc một bó sắn to, giao cho Thủy. Bảo, chú đem về luộc cho anh em ăn. Rồi ông bổ cuốc, đào một hốc sâu. Vùi lấp số sắn củ còn lại. Và cắm lên một cây sắn làm dấu. Đoạn, dặn thêm, vài hôm nữa, chú nhớ ra lấy về cho anh em nấu ăn, hỉ!
Hai người hối hả đứng dậy. Khi ánh đèn pháo sáng của máy bay Mỹ treo trên nền trời xa xa rọi đến. Báo hiệu giờ ăn đêm của những con quạ sắt bắt đầu. Thủy nâng chiếc gùi nặng, cho ông giáo già khoác lên vai. Đoạn vác bó sắn đặt lên vai mình. Anh thực sự cảm động chia tay ông giáo già gặp tình cờ. Lòng bâng khuâng mãi, về những câu chuyện hấp dẫn về trái tim quỷ ông đã kể...
Sau hai mươi tám năm, không biết giờ ông giáo già còn sống, hay đã mất. Nhiều làng sơ tán, đã thành nương thành vườn. Sau chiến tranh, họ không về chốn cũ nữa. Không biết gia đình ông giáo già đã về, hay ở lại bên kia những ngọn đồi xa?
4. Trở về văn phòng được một chốc, ông Thủy chợt nghe chuông điện thoại reo. Ông giật mình thảng thốt. Ù tai. Đầu dây bên kia là Trạc, Giám đốc Công ty Thịnh Đạt. Đang thi công một đoạn đường thuộc nhánh tây. Trọng điểm là cái cầu cong như đáy chữ U. Trên nhánh tây có hai cầu lớn, khó thi công. Một cái hình chữ U và cái kia hình chữ Z. Cái chữ U nằm trên con đường cũ. Ngày xưa nó là một ngầm đá. Nối con đường chạy qua hai sườn núi song song hai phía một con khe. Cái ngầm cũng chính là khúc cua con đường. Giờ đây, chiếc cầu thiết kế như một chữ U. Có độ cao bằng mặt đường hai sườn núi. Khúc cua con đường, chính là đáy chữ U đối xứng của chiếc cầu. Nó như một hình bán nguyệt. Còn chiếc cầu chữ Z nằm trên con đường mới mở. Ngày xưa, quãng đường này chạy bên đất Lào. Giờ ta nắn về trong đất Việt. Chiếc cầu nối hai nhánh đường đi qua hai sườn núi vênh nhau. Buộc nó phải lượn hình chữ Z trên con khe sâu và hiểm. Xưa chiến tranh, ta chưa có điều kiện thực hiện nó. Nên phải xin phép đi vòng sang đất bạn. Giờ hết chiến tranh, ta có điều kiện để thực thi.
Tiếng giám đốc Trạc hoảng hốt như sắp khóc. Những người dọn chỗ cho mũi khoan đầu tiên ở phần cầu dẫn tiếp giáp phần bê tông, đã gặp phải xương người. Ông Thủy hiểu được tâm trạng của Trạc lúc này. Và ngay cả chính ông, cũng không khỏi giật mình thảng thốt. Hai thái dương ông chợt buốt nhức, và cái lạnh chạy dọc sống lưng. Đây mới chỉ là một mũi khoan. Sẽ có bao nhiêu mũi khoan nữa nơi đây chạm xương người? Và có tất cả bao nhiêu bộ xương người nữa còn nằm dưới đó? Rõ ràng, họ đã chết đến lần thứ hai, lần thứ ba. Sau khi chết rồi, họ còn hy sinh hai lần nữa! Về mặt tâm linh, sẽ ứng xử với họ thế nào đây? Ông thấm thía cái đêm mất ngủ vừa rồi, những đồng đội nằm lại ở các cung đường, đã về nhắc nhủ ông?
Vả chăng, giữa ông và Trạc đều có chung một tâm trạng nữa. Tâm trạng của những người đứng mũi chịu sào, chịu trách nhiệm về đời sống của mấy trăm, mấy ngàn người trong công ty, tổng công ty. Chưa kể nghĩa vụ thuế má sòng phẳng với Nhà nước. Vì Tổng công ty Ánh Dương đã cổ phần hóa. Và các công ty con trực thuộc nó, cũng đã cổ phần hóa mấy năm nay. Không còn dựa dẫm, bấm béo vào Nhà nước như thời bao cấp nữa. Nên phải chặt chẽ trong các khâu tổ chức thực hiện. Phải chắt bóp trong mỗi chi tiêu. Và nhất là, cầu mong không có phát sinh trong quá trình thi công. Việc khoan phải xương người ngay mũi khoan đầu tiên, đã là một phát sinh to lớn. Và rất đặc biệt. Ngoài mong đợi. Ngoài lường ước...
Ông Thủy run tay, quay máy gọi Doanh vào phòng mình, ngay tắp lự.
- Cậu lục nhanh, xem có bài báo nào, tài liệu lịch sử nào, nói về các trận ném bom tại ngầm Tà Khơn. Trên đường Hai Mươi, thuộc nhánh tây. Cách núi U Bò khoảng hai mươi cây số. Nơi Công ty Thịnh Đạt đang thi công cầu chữ U…
- Có chuyện gì gấp, hả anh?
- Có. Đã khoan trúng xương người!
Thốt nghe, Doanh đã dựng tóc gáy. Anh kéo cửa, lao vào phòng mình. Lục tìm cặp tư liệu lịch sử. Mồ hôi túa ra đầm đìa lưng áo. Vã ra cả khuôn mặt. Chảy xuống cay xè hai mắt. Những ngón tay run run cũng ướt rĩn mồ hôi. Chưa có cuốn lịch sử nào của Tiểu đoàn thanh niên xung phong đường Hai Mươi. Cuốn lịch sử ngành giao thông vận tải tỉnh này không thấy đề cập chi tiết. Anh lục qua chồng báo mang theo ám bụi. Đọc lướt nhanh các đầu đề. Phải mất nửa tiếng sau, mắt anh chợt sáng rực lên. Tay như chạm phải luồng điện. Cột sống lạnh băng. Cái đầu đề một bài báo hút mất hồn anh. “Xương máu dưới ngầm Tà Khơn” Anh cầm tờ báo, lao vào phòng ông Thủy. Tay run run chìa cho ông bài báo. Bài báo mới đăng sau này. Cách đây năm năm. Phóng viên viết theo lời kể trước khi mất của một cựu thanh niên xung phong tại cung đường này.
Ông Thủy chộp ngay tờ báo từ tay Doanh. Căng mắt theo từng dòng chữ đã ngả màu hoen ố. Ông ngẩn người. Ngồi rũ xuống. Trận ném bom về khuya. Các đoàn xe nối đuôi. Một đoàn vừa qua ngầm, đang bám mặt đường theo sườn núi phía nam. Một đoàn chờ xuống ngầm, đang bám mặt đường sườn núi phía bắc. Bom rơi một loạt xuống ngầm. Hai chiếc xe trúng bom. Một chiếc bị hắt xuống lòng khe sâu. Một chiếc chết máy, nằm lỳ giữa ngầm. Bom xới tung đoạn đường sát hai đầu ngầm. Tiểu đội thanh niên xung phong lao ra. Một bộ phận móc dây cáp. Nhờ chiếc xe trên dốc lùi lại, tời chiếc xe chết máy ra khỏi ngầm. Bộ phận khác nhanh chóng san lấp mặt đường. Nhưng muộn rồi. Pháo sáng địch đã kịp treo trên đỉnh đầu. Bom và rốc két lập tức giội xuống. Chiếc xe chết máy nổ tung. Như một khối lửa, lăn lông lốc xuống lòng khe. Tiếng người rên la. Máu xương trộn đất. Nhóm người sống sót lại lao ra. Súng AK nổ, gọi người tăng viện. Tất cả lao xuống mặt ngầm. Không biết gì bom đạn. Dìu những người bị thương. Bới tìm những người bị bom vùi. Còn năm người nữa. Ba nam, hai nữ. Tiếp tục đào bới. Những bàn tay tứa máu. Đoàn xe phía nam đã chuyển bánh, hướng mặt trận lầm lũi đi trong ánh đèn gầm. Nhưng đoàn xe phía bắc, giờ một nối dài. Đêm đã chuyển về sáng...
Lệnh hỏa tốc, dừng đào bới tìm kiếm. Chuyển sang san lấp mặt đường. Kịp giải phóng đoàn xe. Tình cảm nhường lý trí. Những đồng đội đã chết, tiếp tục hy sinh. Xương máu họ độn vào đất, tôn cao mặt đường. Nâng bánh xe vượt ngầm Tà Khơn. Hàng trăm chuyến xe vượt qua đêm đó. Hàng vạn chuyến xe những ngày tiếp sau. Hàng triệu chuyến xe mấy năm sau đó. Súng đạn, quân lương. Xe tăng, xe bọc thép. Thậm chí, cả thân máy bay tháo rời. Đều cõng trên lưng những chiếc Zil ba cầu. Đi qua ngầm Tà Khơn. Mặt trận nóng bỏng. Và thần tốc. Cho đến ngày toàn thắng...
Sau Ba mươi tháng Tư, người còn sống trở về, mải mốt với cuộc mưu sinh thời bình. Mải mốt với những mưu mô làm giàu riêng tư muôn nẻo. Mải mốt với những tranh đoạt vị trí, chỗ ngồi ở chốn quan trường. Những người hy sinh cũng có chủ trương tìm hài cốt đưa về. Nhiều người may mắn tìm được xác. Đưa về nằm san sát ở hàng vạn nghĩa trang, rải dọc đất nước. Nhưng những người nằm chốn nẻo khuất, hoặc bom tung xương thịt tứ tung, khó tìm lại được. Còn những người nằm lại dưới ngầm Tà Khơn này, phải chết lần thứ ba. Hy sinh lần thứ ba. Vì con đường bê tông vĩnh cửu của Tổ quốc. Khi mũi khoan của Tổng công ty Ánh Dương của ông, khoan trúng xương cốt họ...
Ông Thủy chìm trong nỗi thương cảm, lo âu. Lại có chút gì hoang mang. Có chút gì hổ thẹn. Họ là các bậc anh hùng. Anh hùng thật. Nhưng họ tan biến tất cả. Cả thể xác và linh hồn. Giữa rừng xanh núi thẳm. Vô tăm tích! Còn ông, một anh hùng giả. Nhơn nhơn tự đắc. Địa vị, giàu sang. Vẫn đang tiếp tục sắm vai anh hùng!
Ông Thủy chợt bật dậy, nói như ra lệnh:
- Ăn cơm. Lên đường ngay!
- Dạ! - Doanh đáp khẩn trương.