C
uối giờ chiều một tay lính gác mới tới đưa Merrick đi. Gã thấy muốn lên tiếng phàn nàn. Có cần phải mất nhiều thời gian như vậy để trả tự do cho một người không? Một hệ thống thiếu hiệu quả đến lố bịch, nhưng gã ngậm miệng và đi theo tay lính gác. Tất cả rồi sẽ sớm ở lại sau lưng gã. Ở cánh cửa có song chắn bằng thép, gã ký nhận lại đồ đạc. Gã đổi sang bộ đồ vét và trả lại bộ đồ xanh của nhà tù. Đúng như gã đoán, bộ đồ vét cần chỉnh lại – rộng ở phần eo, chật ở phần ngực và vai. Điều đó gây khó chịu cho gu ăn mặc cầu kỳ của gã, nhưng đồng thời làm gã hài lòng. Như thể bộ đồ có thể bục ra nếu gã gồng lên. Gã thắt cà-vạt theo kiểu Windsor kiêu kỳ mà gã ưa thích và rứt bỏ một sợi chỉ ở ve áo. Gã đã cảm thấy là chính mình hơn. Có lẽ quần áo thực sự làm nên con người.
Tay gác ngục trả lại ví cho gã, một cây bút máy và một chiếc đồng hồ Rolex nhái rẻ tiền mà gã đã buộc phải đeo ở tòa – chiếc đồng hồ Vacheron Constantin Tour de I’lle của gã từ lâu đã bị tịch thu. Chúa ơi, gã mới nhớ cái đồng hồ đó làm sao, nhưng chiếc đồng hồ nhái này sẽ đủ cho tới khi gã tới được nơi định đến và tìm được thứ gì đó thay thế phù hợp. Gã hỏi giờ, rồi lên dây và chỉnh lại đồng hồ. Đã gần năm giờ chiều – sao lại có thể như thế? Gã mở ví, trống rỗng trừ một bằng lái xe đã hết hạn. Dẫu thế, gã vẫn bỏ chiếc ví vào trong túi áo vét. Xong xuôi hết, gã tới trạm cuối cùng, nơi gã cố ký giấy tờ ra trại bằng cây bút máy của mình, nhưng mực trong đó đã khô từ lâu. Họ đưa cho gã một vé xe buýt tới thành phố New York, hai mươi đô-la tiền mặt và một tấm séc năm mươi bảy đô-la và hai mươi ba xu – những gì còn lại trong tài khoản của gã. Gã ký tên vào tấm séc và đẩy nó trở lại.
“Cứ giữ lấy đi,” Merrick nói. “Các anh cần nó hơn là tôi đấy.”
Cảm giác cho họ tiền boa thật dễ chịu và gã ước có nhiều hơn thế để cho. Người bình thường cho tiền boa để bày tỏ sự cảm ơn; người xuất sắc cho tiền trà nước nhiều để nhắc cả thế giới này về sự tầm thường của nó. Sau tám năm, nếu Merrick có học được điều gì, thì đó là sự tầm thường, phẩm tính đặc trưng của những kẻ gắn bó với nơi này. Truyền đạt bài học đó cho họ, theo một cách nhỏ nhoi, mang lại cảm giác như thể đền đáp cho tất cả những sự tử tế của họ. Mấy tay lính gác lộ vẻ sửng sốt, nên gã thò tay ra và bắt tay từng người, vỗ vai họ – có lẽ hơi trịnh trọng, nhưng người ta vẫn làm thế sau khi kết thúc một vụ giao dịch làm ăn.
“Tạm biệt các quý ông,” gã nói và vẫy tay.
Với cái vẫy tay đó, hơn mười tiếng đồng hồ sau khi hành trình đào thoát của gã bắt đầu, Charles Merrick cuối cùng đã bước qua những cánh cửa của Nhà tù Liên bang Niobe và đi về phía cổng trước, là một người tự do.
Trong giờ cuối cùng, mỗi con đường mới dứt khoát phải là con đường cuối cùng Gibson sẽ lái qua. Hẳn phải là đường này, anh tự nhủ, rồi rẽ xe ở góc đường và bắt đầu một đường khác. Tới lúc này anh đã bắt đầu độc thoại, những lời không đầu không cuối về sự vô nghĩa và cứng đầu. Merrick giờ này có lẽ đã ra tù. Nhưng anh không dừng lại. Anh ngả người về phía trước, tựa cằm vào tay lái. Anh sẽ đi hết con đường này, dừng ở một bãi đậu xe nào đó và ra phía sau ngủ. Sau nốt con đường cuối cùng này thôi.
Trong một khoảnh khắc ẩn dụ hoàn hảo, tín hiệu báo động ở Stingray vang lên khi anh dừng lại ở ngã tư một thị trấn nhỏ với một tiệm McDonald’s và một trạm xăng ở trung tâm. Gibson ngả người ra phía sau ghế và nhìn chằm chằm vào chiếc máy như thể một người đã bay nửa vòng trái đất để rồi đâm sầm vào một gã đã bắt nạt mình suốt từ thời tiểu học.
“Không…,” Gibson nói, “thể nào.”
Rồi anh làm động tác nhảy nhót trên ghế nhìn chẳng khác gì một kẻ bị động kinh và đấm vào vô-lăng vui mừng.
Chiếc xe đằng sau bóp còi inh ỏi giục anh đi tiếp. Gibson rẽ phải, dừng xe ở trạm xăng và nghe tiếng tín hiệu giảm đi rất nhiều. Tốt – bốn chiếc ăng-ten nằm khắp nóc xe tải đã làm xong việc của chúng, đạc tam giác được tín hiệu và định được hướng. Tiếng báo động cho anh biết rằng chỗ này không phải, tức là còn hai khả năng. Anh bò trở lại chiếc máy tính xách tay, sự mệt mỏi tan biến trong một cơn bùng nổ adrenaline và anh lùng sục dữ liệu.
Có một số điện thoại, đang réo gọi.
Chiếc máy Stingray dẫn anh ra khỏi thị trấn, xuống một con đường không có nhà cửa gì cả. Đi được một dặm121 thì tín hiệu bắt đầu yếu dần, anh quay ngược lại và bò dọc theo con đường, căng hết các giác quan, lắng nghe tiếng báo động và tìm kiếm một ngã rẽ mà có thể anh đã bỏ lỡ. Không có gì cả; chỉ thấy rừng rậm ở cả hai phía. Nhưng tín hiệu chắc chắn tới từ phía Đông. Anh nhìn bản đồ và tìm thấy một con đường chạy vuông góc với con đường anh đang lái xe. Anh đi tới ngã tư và rẽ phải.
121 Khoảng 1,6 km.
Giờ tín hiệu đã mạnh hơn và chiếc Stingray reo lên vui vẻ. Những căn nhà ở đây có một dấu hiệu tốt, với những lối lái xe cách nhau hơn chín chục mét. Anh dừng lại ở một căn nhà kiểu nông trại toàn màu trắng. Một bãi cỏ không được cắt tỉa, nhưng còn lại thì không có gì đặc biệt. Anh kiểm tra chiếc máy tính xách tay. Không còn nghi ngờ gì nữa. Chiếc điện thoại di động ở trong căn nhà này.
Gibson nhìn chằm chằm căn nhà, cố gắng quyết định phải làm gì. Anh quá tập trung vào việc tìm căn nhà tới mức đã không cân nhắc mình sẽ làm gì nếu thực sự tìm thấy. Anh suy tính là ra tay trực diện không có gì sai, nên bước tới, gõ cửa. Anh đợi rồi gõ mạnh hơn. Anh nhấn chuông. Cuối cùng, anh đi xuống lối đi bộ và dạo một vòng quanh nhà, kiểm tra các cửa sổ, tất cả đều kéo rèm. Ở phía sau, anh thấy một hàng hiên nâng cao. Ở chân cầu thang, một con chim chết đang nằm bình yên trong bãi cỏ cao. Anh bước qua nó và từ từ tiến lên, dừng lại ở chỗ một lò nướng đã gỉ sét để xem có chuyển động nào đằng sau cánh cửa kéo bằng kính không. Không có gì cả. Thứ đồ đạc duy nhất trên hiên là một chiếc ghế dài bằng nhôm đã cũ với tấm phủ màu xanh lá và trắng. Một cái xô kim loại có lẽ từng là chỗ cắm một ngọn nến tinh dầu sả giờ ngập tàn thuốc lá. Hòa với nước mưa, qua thời gian những mẩu tàn thuốc đã phủ lên hiên nhà một màu vàng ám khói. Những chai bia và rượu rỗng bị bỏ nằm gần đó.
Khum tay để khỏi bóng kính, Gibson nhìn vào căn nhà tối. Căn phòng là kết hợp của cả nhà bếp và phòng khách, với một đảo bếp chia ra ở giữa. Ở một góc phòng có một chiếc bàn và ghế văn phòng với một cái máy tính và những chồng báo bấp bênh. Giữa phòng có một chiếc ghế bành da lớn và trên ghế, một người đàn ông da trắng xanh xao mặc quần soóc đang ngây ra nhìn vào một chiếc ti-vi màn hình phẳng khổng lồ. Chiếc ti-vi đã tắt. Gã đàn ông gầy gò, xương nhô ra như một chiếc lều rạp xiếc bỏ hoang. Gibson gõ tay vào cửa kính để thu hút sự chú ý của người đàn ông, nhưng không thấy có chuyển động gì ngoài một cái chớp mắt chậm rãi, từ tốn.
Gibson thử mở cửa, thấy nó không khóa và trượt nó mở ra. Một mùi ôi thiu, thối hoắc làm cay mắt anh. Anh hỏi xem mình vào được không, nhưng không có tiếng trả lời. Anh cân nhắc những lựa chọn của mình. Tất cả mọi thứ về gã đàn ông đó khiến anh cực kỳ căng thẳng, anh sẽ đỡ lo hơn nhiều nếu đó là một gã to con có mang súng. Anh cảm thấy một dự cảm chẳng lành, như thể đang đi qua một nghĩa địa vậy. Nhưng anh đã nỗ lực rất nhiều để tới được đây và anh ra lệnh cho mình phải làm cho xong việc.
“Tôi sẽ vào nhé,” anh tuyên bố và bước qua bậc cửa. Vẫn không có tiếng trả lời. Nếu gã đàn ông trên ghế có súng, Gibson sẽ là một tên trộm đã chết. Bồi thẩm đoàn sẽ không mất tới một giờ để miễn tội cho kẻ giết anh. Anh để cửa mở cho thông gió và đề phòng cần đường thoát ra.
“Vậy ngày hôm nay của anh thế nào?” Anh hỏi, không thực sự mong đợi một câu trả lời, nhưng anh cần làm gì đó để lấp đầy cái sự im lặng trống rỗng kia.
Anh từ tốn đi vòng quanh căn phòng, giữ một khoảng cách với gã đàn ông trên ghế. Dù có mùi, nhưng nơi này gọn gàng một cách ấn tượng. Không sạch sẽ – một lớp đất và bụi bao phủ mọi bề mặt – nhưng gọn gàng. Còn hơn cả gọn gàng, chỉ có những đồ đạc thiết yếu và không thêm gì nữa. Không có gì treo trên các bức tường. Không cây cỏ, không hình trang trí hay những dấu ấn cá nhân dù ở đâu. Nó nhắc Gibson nhớ đến căn hộ của anh. Một suy nghĩ thật đáng buồn. Trong nhà bếp, anh tìm ra nguồn gốc của mùi hôi thối đó – sáu túi rác, đầy tràn, được xếp thành hàng dựa vào tường. Gã đàn ông đã dọn rác, nhưng không thèm bỏ nó ra ngoài. Một chồng những hộp bánh pizza cho thấy đã một thời gian rồi gã không hề ra khỏi cửa. Gibson kiểm tra chiếc ghế lại lần nữa, nhưng gã đàn ông vẫn ngồi im như tượng.
Những điều ít ỏi mà Gibson biết về các chất kích thích là từ phim ảnh và việc một gã trong đơn vị của anh đã phải ra tòa án binh vì nghiện heroin, nhưng quầy bếp này nhìn như thành phố Amsterdam vào mùa Giáng sinh. Ở chính giữa có một chiếc cóng đập đá bằng thủy tinh màu xanh lá được trang trí đẹp đẽ. Xung quanh nó, giống như quà cho những kẻ nghiện ngập ngoan ngoãn, là những túi thuốc viên, bột và tinh thể rắn màu trắng. Một chiếc ống thủy tinh với phần bóng đã đen sì vì dùng quá nhiều nằm cạnh đó. Những chiếc dao cạo, mấy que diêm và một chiếc thìa bẻ cong – gã này đã không chừa món gì.
Ở bàn, Gibson gõ vào phím cách và màn hình chớp chớp bật lên. Thật đáng ngạc nhiên, không hề có mật khẩu và nó đưa anh tới một cổng thông tin dẫn vào một tài khoản môi giới ở Bursa Malaysia – thị trường chứng khoán Malaysia. Lea đã đúng. Những kẻ man rợ đang ở cửa nhà ngươi rồi, Charles. Gibson nhẹ nhàng bấm phím cách lần nữa trong khi anh nhìn vào con trỏ đang nhấp nháy đòi anh nhập tên người dùng và mật khẩu của tài khoản môi giới. Nó sẽ không lưu trong máy ở đây, nên anh không thể thay đổi nó như cách anh đã đổi mật khẩu ở bãi xe của bang Virginia. Không có đủ thời gian để tấn công một tài khoản môi giới ở Malaysia, nên nếu anh không thể tìm ra mật khẩu viết ở đâu đó, thì chỉ còn một lựa chọn duy nhất: moi nó từ gã đàn ông ngồi trên ghế. Nhưng làm sao anh làm được điều đó? Anh chưa bao giờ thử thao túng tâm lý một xác sống. Thay vì thế, anh bắt đầu tìm nhanh trên bàn – dưới bàn phím và trong các ngăn kéo – hy vọng nó được dính ở đâu đó. Việc tấn công kiểu này cũng giống như kéo tấm che nắng trên xe hơi xuống và chiếc chìa khóa rơi vào tay bạn. Là mơ tưởng, nhưng tất nhiên sẽ không dễ thế. Anh tìm kiếm kỹ một lần nữa cả cái bàn.
Trên mặt bàn đầy những đồ bỏ đi và giấy tờ vô nghĩa, không có vẻ theo một trật tự nào cả. Đằng sau màn hình, Gibson tìm thấy hai khung hình úp mặt xuống bàn. Dựa trên số bụi bám trên khung, chúng đã ở đó được khá lâu rồi. Gibson lật từng khung tranh lên. Cái đầu tiên là một tấm hình Charles Merrick thời còn trẻ ngồi trên ghế bành, một cậu bé ngồi trên đùi gã. Cậu bé có vẻ quyết tâm thoát ra, nhưng vẫn bị Merrick túm chặt lấy. Chỉ có miệng Merrick là nở nụ cười; phần còn lại của gã như đang chuẩn bị trốn chạy. Tấm hình thứ hai là năm chàng trai da trắng mặc đồ vét, nở nụ cười tự tin đang đứng trước logo của Merrick Capital. Một người họ giơ tấm bảng với dòng chữ, “Nhóm thực tập mùa hè.”
Đó là những đồ vật cá nhân duy nhất nhìn thấy được, nên Gibson lật chúng trở lại và gỡ các bức ảnh khỏi khung để kiểm tra phía sau. Bức ảnh thực tập sinh không có gì, nhưng ở sau lưng bức ảnh kia, có chữ viết của phụ nữ, “Marty và Charles – sinh nhật 2 tuổi.” Anh đã hy vọng tìm thấy mật khẩu, nhưng điều này gợi sự chú ý nơi anh. Gibson nhìn về phía gã đàn ông ngồi trên ghế. Đầu gã vẫn hướng về phía trước, nhưng mắt giờ đã nhìn Gibson. Con ngươi giãn ra tới mức nhìn như chỉ có lòng đen và đã tràn ra tới mống mắt; phần lòng trắng còn lại trong mắt gã nhuộm đỏ. Gibson nghĩ đó có thể là gã. Tay thực tập sinh thứ hai từ bên phải trong bức hình kia. Khó mà nói chắc được.
“Đây là anh phải không?” Gibson hỏi, giơ những bức hình lên.
Đầu gã đàn ông nghiêng về phía Gibson. Như thể có một phản ứng trì hoãn và chỉ bây giờ mắt gã mới nhận được mệnh lệnh từ não. Đầu gã lắc lư nhẹ trên cổ khi gã nhìn vào những bức hình và bắt đầu cười khúc khích nhẹ nhàng.