Tại Đại bản doanh Tiên Động, Chủ soái Nguyễn Quang Bích họp các chỉ huy báo cho cho mọi người biết tình hình mới:
- Quân Pháp đã được tăng viện từ Pháp sang, đưa tổng số quân Pháp ở Bắc Kỳ lên 16000 quân. Quân Pháp và quân Thanh đã đánh nhau trên mặt trận Lạng Bằng, quân Pháp đã bị thiệt hại nặng. Quân khởi nghĩa của các tỉnh đồng bằng, vùng trung du Bắc Kỳ tiếp tục hoạt động mạnh. Quân dân sông Thao, Hưng Hóa tại các châu, huyện, phủ: Lâm Thao, Thanh Sơn, Yên Lập, Tam Nông, Ba Vì, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Thanh Ba, Văn Chấn đã được tổ chức lại, bám địch, đánh địch thu được kết quả tốt. Căn cứ Tiên Động đã được củng cố, các đạo quân, các đội quân tại căn cứ và các đơn vị độc lập hoạt động tác chiến ngày càng tốt hơn. Về quân lương đã được chuẩn bị, việc sản xuất vũ khí, trang bị đang được thực hiện. Nhân dân các vùng tin tưởng vào nghĩa quân, thanh thế nghĩa quân ngày càng cao. Quân địch tiếp tục cho quân hoạt động do thám, tổ chức các cuộc hành quân càn quét, ngăn cản các hoạt động của nghĩa quân, bắt nhân dân đi lính đi phu đóng thuế cho chúng. Bây giờ, chúng ta bàn bạc xem cần phải làm gì để giữ vững, mở rộng các vùng căn cứ, phát triển thêm lực lượng, đánh tiêu hao tiêu diệt địch.
Phó soái Khê Ông trình bày thêm về tình hình và sự chuẩn bị đánh địch:
- Sau ngày Tiên Động khởi nghĩa, lực lượng của chúng ta được giữ vững và hoạt động đã mở rộng. Các căn cứ xung quanh như Thanh Mai-Thạch Sơn, Thanh Sơn, Ba Vì, Rừng Già-Đọi Đèn trong tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây đã được củng cố. Các làng xã như Chí Chủ, Phú Thọ, Vực Trường, Tứ Mỹ, Xuân Áng, Ấm Thượng, Tình Cương, Văn Bán, Phương xá, Áo Lộc và các làng trong các tỉnh đã có các đội nghĩa dũng hoạt động tác chiến độc lập. Các ông chỉ huy Bố Giáp, Tán Dật, Đốc Ngữ, Đốc Sơn, Đề Thành, Lãnh Khanh, Hà Công Cẩn, Hà Khắc Hậu, Ma Văn Vân và các ông ở các làng xã khác ở các châu huyện miền núi đã có những cố gắng lớn trong việc phòng bị và chuẩn bị đánh địch. Tôi đã cho người kiểm tra và được thấy lực lượng ta có thể đứng vững”.
Phó soái Kiều kiêm Đốc binh đạo Hậu quân báo cáo về quân lương:
- Hiện nay quân lương đã được chuẩn bị tốt, có đủ lương thực thực phẩm cung cấp cho nghĩa quân trong vòng một năm. Các căn cứ khác như Thanh Mai- Thạch Sơn, Thanh Sơn, Rừng Già-Đọi Đèn và các làng đã tranh thủ thu thuế vụ chiêm và vụ mười để có đủ quân lương. Các làng xã trong tỉnh ta vẫn kiểm soát, việc địch đánh lấn ra ta vẫn chủ động cản phá. Nếu tình hình mà được như thế này về quân lương ta khỏi phải lo. Nhưng về vũ khí ta thiếu sắt gang, đồng thiếc, các chất đen, diêm sinh để tạo thuốc nổ. Việc này do chúng ta đã không có chủ trương chuẩn bị trước, để địch bắn cháy, tịch thu hàng chục tấn thuốc nổ ở thành Sơn Tây, thành Hưng Hóa và một số nơi khác như ở thành Tuyên Quang, Thái Nguyên là điều đáng tiếc. Chúng ta cũng đang thiếu thợ, thiếu người làm việc chế tạo vũ khí mới. Không có vũ khí chúng ta không thể chủ động đánh thắng giặc được. Bây giờ chúng ta phải huy động tiềm lực của toàn dân để có tiền mua thêm súng đạn, giáo mác và vũ khí từ biên giới Trung Quốc và Ai Lao.
Mọi người khen ngợi phó soái Kiều chuẩn bị tích cực, lại có ý kiến hay. Chủ soái ngồi lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu tán thành, hình như cũng nhận thấy những khó khăn có phần liên đới trách nhiệm của mình. Ông không nghĩ tới từ trước để chuẩn bị kháng chiến một cách tốt hơn, không để khó khăn như hiện nay. Ông nhắc các tán tương quân vụ phụ trách các mặt thông tin liên lạc, tình báo, đối nội, đối ngoại, xem có vấn đề gì khó khăn cần bàn bạc.
Đốc binh Vũ Bách phụ trách thông tin liên lạc đứng lên báo cáo:
- Hiện nay thông tin liên lạc của chúng ta với các căn cứ, các tỉnh, các vùng miền vẫn được đảm bảo thông suốt. Về phía quân Pháp còn gặp khó khăn trước mắt là phải tập trung chống chọi với quân Tàu, quân Cờ Đen và với nghĩa quân, nên thông tin liên lạc của ta còn đang hoạt động bình thường. Sợ khi quân Pháp được tăng viện, mộ thêm lính cơ, lính tập, kiện toàn chính quyền các cấp, bổ vây, phong tỏa thì thông tin liên lạc của chúng ta sẽ gặp khó khăn khôn lường. Tôi yêu cầu Ban Chỉ huy căn cứ Tiên Động cần chú trọng bổ sung quân cho đội quân thông tin liên lạc. Tôi cho rằng đội quân này sắp tới có nhiều nhiệm vụ quan trong, có làm tốt thì sức mạnh của quân ta mới tăng lên. Đường dây thông tin liên lạc như mạch máu trong cơ thể người, nếu ngừng chảy chỗ nào thì chỗ ấy dẫn tới tê liệt”.
Các quan lại cười ồ, khen đốc binh Vũ Bách phụ trách thông tin liên lạc nói hay, hấp dẫn người nghe. Chủ soái nghe cũng khen là phải, có lời khen ngợi đội quân này đã đưa các vị văn thân, các chỉ huy quân khởi nghĩa các tỉnh, các vùng miền, đi lại chót lọt an toàn. Ông yêu cầu mở rộng sự liên lạc vào trong kinh đô, các tỉnh phía Nam của đất nước. Chủ soái có nói liên lạc có tốt mới nắm được tin tức, hợp lực được sức mạnh của toàn dân. Các tỉnh, các vùng miền phải có các trạm, các đầu mối liên lạc, không để đứt đoạn. Người Pháp đã có điện tín, điện thoại để liên lạc với chính phủ Pháp, với quân đội đóng ở các nơi trên khắp thế giới. Ta phải dần học hỏi họ để mở mang phát triển. Cái gì của họ văn minh hơn ta thì ta phải học làm theo, không được bảo thủ, chê bai, bài xích người ta.
Thấy mọi người đón nhận vui vẻ, Chủ soái yêu cầu Tán tương quân vụ Trịnh Bá Đanh ( trong quân thường gọi là Tán Khảm) báo cáo về hoạt động tình báo:
- Được Chủ soái giao trách nhiệm tổ chức nắm tình hình quân địch. Tôi cũng đã bắt đầu tổ chức các lực lượng hương gián, nội gián, phản gián. Lực lượng này cũng cần rất nhiều người, mới tổ chức được mạng lưới liên lạc, thông tin. Phải hoạt động bí mật trong nhân dân, trong hàng ngũ quan lại, trong hàng ngũ quân Pháp. Cho nên cần phải được huấn luyện, phải cử người cho đi học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng các nước gần ta, tiếng nói các dân tộc ít người. Hiện nay chúng ta đã tổ chức những lực lượng ấy nhưng còn ít, còn yếu lắm. Trong quá trình xây dựng chúng ta sẽ khắc phục dần dần các mặt hạn chế, yếu kém. Báo cho mọi người được biết, chúng ta đã nắm được các tin tức rất quan trọng trong nội bộ, tin tức từ phía địch, đã giành thế chủ động đánh địch, ngăn ngừa được những tổn thất. Tôi cũng mong các chỉ huy nghĩa quân các đạo, các đội chú ý cao độ, ủng hộ các hoạt động tình báo. Trong giai đoạn chống giặc Pháp vừa qua chúng ta đã không nắm được tin tức gì về nước Pháp, quân Pháp đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh địch chắc thắng một trăm phần trăm.
Chủ soái cắt ngang lời Tán Khảm, nhấn mạnh thêm vai trò quan trọng của hoạt động tình báo, quân báo:
- Binh pháp đã dạy rằng, biết địch biết ta trăm trận trăm thắng. Tôi và Tán Khảm vừa rồi đã tổ chức ra lực lượng này.
Các quan chỉ huy cần giữ bí mật và ủng hộ các hoạt động của đội quân này. Ngày xưa ông cha ta đánh thắng quân Tống, quân Nguyên, quân Minh, đã tổ chức tốt lực lượng tình báo, nên đã chủ động đánh thắng địch. Bây giờ chúng ta phải tổ chức, tuyên truyền, huấn luyện các mạng lưới hương gián, nội gián, phản gián. Các đơn vị và Đại bản doanh phải lo lấy tin tức, phân tích đúng sai để đưa ra kế hoạch dự phòng, kế hoạch chính để chống địch. Hoạt động chủ yếu của đội quân này là phải nắm được tin tức chính xác về quân địch.
Về phía ta, sau hiệp ước Giáp Thân ( Pa-tơ-nốt), triều đình đã đưa vua Hàm Nghi lên ngôi, đang chuẩn bị tích cực để khởi nghĩa. Các quan Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, còn nắm trong tay vài vạn quân. Các ông ấy đã tổ chức quân Phấn nghĩa đoàn, cử Đề đốc Trần Xuân Soạn chỉ huy. Nhưng khởi nghĩa vào thời gian nào thì thì chưa rõ, nhưng theo tôi thì rất gấp rồi. Chúng ta đã được các ông ấy mật thư là phải chuấn bị tích cực để phối hợp tác chiến. Tình thế có thể thay đổi hắn đấy, khi nào nổ ra khởi nghĩa tại Huế, chúng ta sẽ bàn bạc kỹ hơn để ra quân tiếp ứng.
Về phía quân Pháp, sau khi được tăng cường quân lực, chúng đang tập trung đánh quân nhà Thanh tràn sang các tỉnh phía đông bắc, chiếm thành Lạng Sơn bị thương vong hơn 1000 tên. Quân Pháp lo sợ, chúng chỉ lo phòng thủ không dám tiến công. Đó cùng là thuận lợi cho chúng ta, đánh mở rộng các căn cứ, tranh thủ sự ảnh hưởng của nghĩa quân. Trên địa bàn của tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây quân Pháp chỉ chiếm được các vị trí thành trì, huyện lỵ, còn chúng ta vẫn làm chủ tuyệt đối vùng này. Tới đây địch sẽ tăng cường lực lượng đánh phá chúng ta, Vậy, các ông bàn xem có cách nào đánh địch tốt nhất, phá được những âm mưu của chúng.
Tán Khảm đứng dậy trình bày thêm về hoạt động tình báo:
- Mạng lưới tình báo của chúng ta còn mỏng, các nhân viên còn chưa được huấn luyện. Tin tức chưa nắm được kịp thời, chưa biết trước được tình hình để mà chuẩn bị. Các hoạt động của nghĩa quân còn bị động, chưa thực sự có hiệu quả. Có những hoạt động của địch ta còn chưa nắm được âm mưu, kế hoạch của chúng. Nên các hoạt động tác chiến của ta đã không đi đến đâu. Các hoạt động của các đạo quân, các đội quân kém hiệu quả. Quân ta chỉ lo phòng thủ mà quên nhiệm vụ tiến công. Cái đó đã bộc lộ những hạn chế của ta, bỏ qua những việc lớn mà chỉ chú ý đến việc nhỏ, hay nói một các khác là bỏ lỡ thời cơ. Mà có những thời cơ rất quý giá có thể cứu vãn tình thế khó khăn của quân ta.
Chủ soái Nguyễn Quang Bích rất tán đồng với những ý kiến của Tán Khảm vừa phát biểu. Ông và các tướng chỉ huy đã chú ý đến các hoạt động tình báo. Tuy chưa nhiều, chưa hiệu quả nhưng đã có những kết quả nhất định như chủ động điều quân tác chiến, dụ và nhử địch để chúng vào thế trận bị tiêu diệt như trận diệt địch ở đầm Meo, đồng Cát Trắng, đồi Tình Cương, cầu Phương Xá, bờ ngòi Lao, chợ Ấm Thượng, đồn Ngọc Lập, Ngọc Tháp. Quân ta hiện giờ còn ít, còn yếu vẫn phải phòng thủ là chính, chưa có thực lực để đánh lớn, diệt gọn.
Trong cuộc họp này, các chỉ huy còn bàn thêm về công việc đối nội, ngoai giao. Về đối nội Khê Ông có nói về tình hình trong nội bộ nghĩa quân:
- Lực lượng nghĩa quân của chúng ta hiện nay có hơn nghìn quân chính quy tại ngũ và khoảng mấy nghìn quân hương dũng, nghĩa dũng. Chúng ta cũng phải nắm, phải xem xét lại lai lịch của các vị chỉ huy, các binh sỹ của ta. Nắm chắc để mà cất nhắc, đề bạt, coi lòng trung thành của họ mà tin tưởng, giao những nhiệm vụ khó khăn đặc biệt cho họ. Cuộc chiến đấu của chúng ta sẽ còn rất gian nan, chúng ta phải giáo dục lòng trung với nước hiếu với dân. Đó là nhiệm vụ gốc của các chỉ huy, giáo dục binh sỹ đề cao lòng tự trọng, tự giác, đức hy sinh, đức xả thân vì nhiệm vụ, khó khăn nguy hiểm không nản chí, tận tụy với công việc chung, đoàn kết với dân, bảo vệ dân, thương yêu các chỉ huy, binh sỹ.
Trong công tác đối nội, quan trọng nhất là quan hệ với dân. Chúng ta phải tuyên truyền giáo dục dân cho dân ta hiểu về công cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân. Cuộc kháng chiến này là rất gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Trước mắt có thể thất bại, nhưng sẽ thắng lợi hoàn toàn nếu cả dân tộc ta biết đoàn kết, vượt lên khó khăn, gian khổ hy sinh. Hiện nay, bọn thực dân đang thực hiện âm mưu “chia để trị”, chia cắt đất nước ta thành các miền, tạo ra những cản trở về sự đoàn kết, thống nhất dân tộc. Chúng đang có âm mưu chia rẽ Lương- Giáo, chia rẽ sắc tộc, chia rẽ vùng miền, chia rẽ dân cư các làng xã làm mất trật tự, đảo lộn thuần phong, mỹ tục tốt đẹp của nhân dân ta. Chúng sẽ phá hoại tận gốc rễ cả một nền văn hóa, văn minh dân tộc.
Chúng ta đóng quân ở nơi nào, quan quân phải sống hòa đồng với dân, giúp đỡ, bảo vệ dân. Không được tự ý làm trái pháp luật, quấy nhiễu nhân dân, khinh rẻ đồng bào, phải tôn trọng dân, thương dân, kính già, thương trẻ, không được trộm cắp, ăn cướp của dân. Trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, chúng sẽ dùng các thủ đoạn xấu xa để chia rẽ quân dân, cô lập quan quân để dễ bề tiêu diệt. Chúng ta phải coi dân như nước, quân như cá, cá sống nhờ nước, nên phải đoàn kết, gắn bó với dân. Ở đâu, quan quân cũng phải làm tốt công tác dân vận, cùng dân chiến đấu để quân dân cùng chiến thắng.
Trong thời gian vừa qua, quan quân sông Thao, Hưng Hóa đã đoàn kết chiến đấu. Quân ta đã anh dũng đánh địch, không chịu hạ vũ khí làm tấm gương cho phong trào kháng chiến của Bắc kỳ. Nhân dân vùng sông Thao,Hưng Hóa đã tận tình giúp đỡ nghĩa quân, trong chiến đấu đã giúp đỡ nhiều lương thực, thực phẩm, tham gia cứu chữa thương bệnh binh, bảo vệ quân ta dù phải hy sinh tính mạng và của cải. Đồng bào các dân tộc gồm Kinh, Mường, Dao, Tày, Thái, Miêu..., không phân chia tôn giáo, vùng miền đều cùng sát cánh với quân ta chiến đấu, tham gia tòng quân, ủng hộ nghĩa quân. Nhiều người, trong đó có người già, có người trẻ đã là những tấm gương cứu nước đáng được ghi công và biểu dương. Các đạo quân, đội quân hoạt động độc lập đã làm tốt công tác dân vận, cho nên quân ta đã được nhân dân yêu quý và ngày càng được nhân dân yêu quý.
Trước những thủ đoạn xấu xa của bọn giặc Pháp, bọn quan lại tay sai, Chủsoái Nguyễn Quang Bích cảnh báo về những âm mưu thâm độc của kẻ địch:
- Quân ta lúc này gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn trong hoàn cảnh ngày càng ác liệt. Quân giặc sẽ tìm cách chia rẽ quân dân, tạo ra các vụ giết người, cướp của để đổ tội ác ấy cho nghĩa quân. Chúng sẽ mua chuộc quan quân những kẻ tham sinh úy tử, tham tiền bạc rồi phản bội sự nghiệp kháng chiến chống giặc Tây cứu nước. Chúng ta phải luôn cảnh giác trước những âm mưu đen tối của giặc Pháp và bè lũ tay sai. Sau khi cướp được nước ta, giặc Pháp sẽ quay sang thời kỳ bình định, đàn áp khốc liệt. Chúng sẽ lập ra nhiều nhà tù, bắt bớ gắt gao những người yêu nước, thương nòi. Vậy, quan quân phải có dũng khí bảo vệ khí tiết, phẩm chất. Các chỉ huy các cấp phải giáo dục quân sỹ ý thức, khí phách dân tộc trong chiến đấu không chịu đầu hàng, không chịu khuất phục trước những âm mưu mua chuộc, dụ dỗ, sự tra tấn dã man hoặc tù đầy.
Các chỉ huy ngồi họp đều thấm thía bởi những lời bàn, lời nhận xét của Phó soái Khê Ông và lời căn dặn của Chủ soái Nguyễn Quang Bích trước những âm mưu và thủ đoàn xấu xa của địch, tự mình nuôi dưỡng tinh thần, khí tiết, xác định tư tưởng, niềm tin vào cuộc chiến đấu một sống một chết với kẻ thù dân tộc là bọn giặc Tây cướp nước và bè lũ tay sai bán nước.
Cuối cuộc họp, Ban chỉ huy Tiên Động còn bàn về công tác ngoại giao, Phó soái Khê Ông trình bày:
- Trước đây chúng ta đã làm công tác ngoại giao. Đó là làm tốt công tác quan hệ với quân Cờ Đen do Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy. Họ là người Trung Quốc tỵ nạn sang nước ta. Sau được Chủ soái Nguyễn Quang Bích, lúc đó là Tri phủ Lâm Thao chủ động tiếp cận, thu phục được. Họ đã theo ta, giúp ta đánh giặc Pháp, giết được chỉ huy giặc, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, tạo được uy lực, thanh thế. Với chúng ta, những người Trung Quốc lương thiện là bạn, nhưng đối với bọn bành trướng là thù. Trong đội ngũ của chúng ta, những người như Lý Phúc đã hy sinh dũng cảm khi bảo vệ thành Hưng Hóa được coi là Liệt sỹ anh hùng của Việt Nam. Những người bạn trong quân như Chu Thiết Nhai, Đàm Thống Lĩnh đang sát cánh cùng chúng ta là những người bạn thân thiết, dân tộc ta mãi ghi nhớ công lao. Những người chiến sỹ, người dân Trung Quốc cùng chung hoạn nạn với nhân dân Việt Nam sẽ sát cánh cùng nhân dân ta chiến đấu là những người bạn mới gắn bó với Việt Nam.
Nói về vấn đề ngoại giao, chủ soái Nguyễn Quang Bích nhấn mạnh:
-Ta cần đoàn kết với nhân dân Trung Quốc, nước láng giềng nhưng phải cảnh giác với âm mưu bành trướng, xâm lược của các phần tử phản động trong chính quyền và quân đội nhà Thanh. Năm 1882, triều đình Huế đã yêu cầu quân Thanh sang chi viện, ra lệnh quân dân ta đón tiếp họ. Tôi đã ngăn vua Tự Đức không cần họ kéo quân sang, nhà vua không nghe. Họ kéo sang ta nhưng họ đã không đánh một trận nào, còn xúi giục quân Cờ Đen chống lại ta. Nhưng Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc, người được chúng ta dung nạp, ban cho đất, chức vụ, mang ơn ta đã không làm bậy. Bây giờ chúng ta ở trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, giặc Pháp đã thôn tính cả nước Nam; triều đình Huế đã ký hiệp ước với họ, nhưng thực chất là những văn bản ký kết đầu hàng. Chúng ta, quan quân sông Thao-Hưng Hóa đã không chịu hạ vũ khí, chiến đấu đến cùng chống lại đế quốc Pháp xâm lược. Nhà Thanh họ đã ký với chính phủ Pháp những hòa ước thương mại, công nhận quyền lợi của nhau, thực chất họ đã phản bội chúng ta. Đối với họ bây giờ, chúng ta phải có đường lối ngoại giao khôn khéo tranh thủ sự ủng hộ, tránh va chạm, có thể nhờ họ về trang bị, vũ khí, chỗ đứng chân, nhưng phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng. Đối với nước Tàu, dân Tàu là vậy, còn đối với dân Ai Lao và dân Cao Miên chúng ta với họ cùng chung kẻ thù là đế quốc Pháp thì phải sát cánh, đứng chung một chiến hào chiến đấu. Ở vị trí địa lý, quan hệ ngoại giao đầu tiên, quan trọng là đối với nước Tàu, các quan lại và dân Tàu có nhiều cảm tình và hành động ủng hộ cuộc chiến đấu của chúng ta”.
Các quan chỉ huy đều cho là phải. Việc quan hệ ngoại giao trước hết là với người Tàu đang làm ăn sinh sống ở Việt Nam. Quan quân phải quan hệ tốt với họ, nhờ cậy vào họ, cấm tuyệt đối binh sỹ không được có những hành động chống đối, cướp bóc, giết hại những người dân vô tội. Chủ soái còn có ý định cho một số người còn trẻ đi học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung để lo việc ngoại giao sau này. Với nhưng người Tây phục vụ bộ máy chính quyền, quân đội mà tiến bộ thì phải tranh thủ để họ giúp đỡ nhân dân ta kháng chiến và sau này cải thiện mối quan hệ với nước Pháp và các nước phương Tây.
Cuộc họp kết thúc, các quan chỉ huy phấn khởi ra về để làm việc khác. Tại Đại bản doanh còn lại Chủ soái và các Phó soái. Lúc đó, Tán lý Nguyễn Tác Chi từ Huế ra báo cáo cho các Chỉ huy Tiên Động về tình hình khởi nghĩa ở Huế. Các quan Chỉ huy lắng nghe Tán Chi trình bày sự việc diễn ra:
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, tức ngày 22 rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu vừa qua, Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết cho quân Nghĩa phấn đoàn tấn công tòa nhà Khâm sứ, đồn Mang Cá ở phía bắc và các đồn binh Pháp ở phía nam Kinh thành Huế. Việc lớn như vậy, nhưng quan Phụ chính không bàn với đệ nhất Phụ chính Nguyễn Văn Tường, không xin ý kiến của Vua Hàm Nghi và bà Thái hậu Từ Dũ. Quân Pháp đã phát hiện được kế hoạch, phòng bị rất kỹ càng. Quân triều đình chiến đấu dũng cảm, nhưng trong thế bị động, trang bị vũ khí kém đã thất bại. Ngài Tôn Thất Thuyết vội đưa Vua Hàm Nghi và tam cung ra Quảng Trị. Sau đó, ngài Đệ nhất Phụ chính Tường vâng lệnh bà Từ Dũ quay lại điều đình với quân Pháp. Phụ chính Tường coi như đã là tù binh của giặc Pháp.
Cảnh kinh thành Huế bị bọn giặc Pháp tàn phá hoang tàn. Kho tàng, dinh thự của quan lại của triều đình bị giặc cướp bóc hết. Nhà cửa của dân, lăng tẩm bị giặc đốt phá một cách tàn bạo. Bọn giặc Pháp thắng trận thả sức bắt bớ, giết chóc, hãm hiếp phụ nữ, trẻ không tha, già không buông. Nghe nói hàng vạn người vô tội bị giết chết, thây người nằm khắp phố phường, khắp chợ, khắp đường. Chưa bao giờ dân lành nước Nam chịu cảnh tang thương, khổ nhục như vậy.
Chúng buộc đệ nhất Phụ chính Nguyễn Văn Tường viết thư kêu gọi Vua Hàm Nghi và tam cung trở lại thành Huế. Tam cung đã nghe bà Từ Dũ quay trở về cung, còn Vua Hàm Nghi kiên quyết ở lại cùng quân dân chiến đấu. Phụ chính Tôn Thất Thuyết đã đưa Vua Hàm Nghi ra Tân Sở, Quảng Trị. Tại đây, nhà vua đã ra Chiếu dụ thiên hạ Cần Vương. Khi tôi ra đây đã chép lấy bản Chiếu dụ cầm ra cho quan quân”.
Tán Chi mang từ cái túi vải ra một văn bản chép Hàm Nghi đế chiếu . Chủ soái Nguyễn Quang Bích nhẹ nhàng cầm văn bản Chiếu dụ trải trên bàn đọc bằng âm Hán-Việt cho mọi người nghe:
HÀM NGHI ĐẾ CHIẾU
Dụ:
Từ cổ ngự nhung chi sách bất xuất, chiến, thủ hòa tam giã nhi dĩ. Chiến chi tắc vị hữu kỳ cơ, thủ chi tắc nan kỳ đắc lực, hòa chi tắc sở cầu vô yểm. Đương thử sự thế thiên nan vạn nan, bất đắc dĩ nhi dụng quyền. Thái Vương thiên Kỳ (1), Huyền Tông hạnh Thục (2), cổ chi nhân diệc hữu hành chi giả.
Ngã quốc nhĩ lai ngẫu nhân đa cổ. Trẫm dĩ xung linh tự vị (3), kỷ ư tự cường tự trị bất hạ vi mưu.
Tây phái hoành bức nhật thậm nhất nhật (4). Tạc giả, Tây binh thuyền tăng lai trách dĩ sở nan chiếc thường mói tiếp, nhất bất chi thụ. Đô nhân chấn cụ, nguy tại đán tịch. Mưu quốc đại thần thâm duy an xã trọng triều chi kế dữ kỳ phù thủ thính mệnh, tọa thất thiên cơ, hạt nhược tứ ký dục đồng nhĩ tiên ứng chi. Túng nhiên sự xuất vô nại do đãi hữu thử kim nhật chi cử dữ đồ thiện hậu chi nghi, diệc hệ thời thế khởi kiến. Phàm dự hữu phân ưu tưởng diệc dự chi. Tri nhi dự vi chi, thiết xỉ xung quan, tiêm cừu địch khái, thùy vô thi tâm tai? Chẫm qua, kinh tiếp, đoát sóc, vận bích diệc khởi vô kỳ nhân tai? Thà nhân thần lập triều tuân nghĩa nhi kỷ, nghĩa chi sở tại sinh dĩ chi. Tấn chi Hồ Yển, Triệu Thôi (5), Đường chi Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật (6) cổ hà nhân dã?
Trẫm lương đức, tao thử biễn cố, bất năng kiệt lực oán toàn, Đô thành luân hãm, từ giá bá thiên (7), tội tại trẫm cung tàn quý vô địa. Duy luân thường sở hệ bách tính lương sỹ vô đại vô tiểu, tất bất trẫm khí, trí giả hiến mưu, dũng giả hiến lực, phú giả xuất ty dĩ trợ quân nhu, đồng bào đồng trạch bất từ gian hiểm, đương như hà? Nhi khả phù nguy, vi trì điên hanh truân tế, kiến giả bất cận tâm lực, thử phát thiên tâm, trở thuận chuyển loạn, vị trị chuyển nguy vi an, đắc vũ quy cương thử nhật cơ hội, tôn xã chi phúc tức thần dân chi phúc, dữ đồng thích giả dữ đồng hữu khởi bất vĩ dư? Nhược phù ái tử chỉ tâm trọng ưu ái quân, mưu gia chi niệm thiết ư mưu quốc quan tắc thác cổ viễn ty, binh tắc ly ngũ tiềm đào, dân tắc bất tri hiểu nghĩa cấp công, sỹ tắc cam ư khí minh đầu ám, túng năng thâu sinh thế y quan nhi hậu độc, hồ nhẫn vi chi? Nùng thưởng phạt trọng, triều đình tự hữu điển hình vô dĩ hậu hối! Kỳ lẫm tuân chỉ!
Khâm thử.
Hàm Nghi nguyên niên lục nguyệt sơ nhị nhật.(1885)”
Chú thích:
(1). Chu Thái Vương đóng ở đất Mân bị các bộ tộc Nhung, Địch và Đổng Dục đến đánh, Thái Vương phải dời vào đất Kỳ Sơn.
(2). Đường Huyền Tông bị An Lộc Sơn lấy mất Trường An phải chạy vào Đất Thục ( Tứ Xuyên)
(3). Vua Hàm Nghi năm viết Lệnh dụ mới 13 tuổi
(4) . Phái viên của Pháp tức thống tướng Đờ Cuốc xy ( De Courcy)
(5). Hồ Yển, Triệu Thôi người phò tá Tấn Vương Công dựng nghiệp bá.
(6). Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật những công thần giúp nhà Đường dẹp loạn An Sử.
(7). Xa giá các bà Thái Hậu phải dời Kinh đô Huế chạy ra Khiêm Lăng.
Chủ soái dịch từng chữ, từng câu ra tiếng Việt:
“CHIẾU CẦN VƯƠNG CỦA VUA HÀM NGHI
Dụ rằng:
Từ xưa chế ngự giặc không ngoài đánh, giữ, hòa, ba điều ấy mà thôi. Đánh thì chưa chắc có cơ hội, giữ thì khó đủ đạt sức lực, hòa thì đòi hỏi không chán. Đang lúc thế sự muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dụng quyền. Thái Vương dời sang đất Kỳ, Huyền Tông thăm nơi nẻo Thục, người đời xưa cũng đều có làm cả.
Nước ta gần đây bỗng gặp nhiều việc, Trẫm tuổi trẻ lên ngôi, không lúc nào không nghĩ đế tự cường, tự trị.
Phải viên Tây ngang bức, càng ngày càng quá. Trước đây chúng tăng thêm binh thuyền, buộc theo những điều không thể được, ta chiếu lệ tiếp đón, không chịu nhận một thứ gì. Kinh đô náo sợ, nguy biến chỉ trong sớm chiều. Đại thần lo việc quốc gia chỉ nghĩ kế nước được yên, triều đình được trọng; cứ cúi đầu nghe mệnh lệnh, ngồi để mất cơ hội, sao bằng thấy âm mưu biến động của giặc mà đối phó trước? Ví như việc đến không tránh được thì cũng còn có ngày để lo cho tốt cái lợi sau này, ấy là thời thế xui nên vậy. Phàm đã dự chia nỗi lo này, tưởng cũng dự biết. Biết phải dự vào, nghiến răng dựng tóc, thề giết hết lũ giặc, nào ai không có lòng như thế? Gối gươm, đánh chèo, cướp giáo, lăn chum, chẳng lẽ không có ai sao? Và thần tử đứng ở triều chỉ có theo chữ nghĩa thôi, nghĩa ở đâu thì sự sống ở đấy. Hồ Yển, Triệu Thôi nước Tấn, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật nhà Đường là người thế nào đời cổ vậy?
Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này, không thể hết sức giữ toàn, đô thành bị hãm. Từ giá phải rời, tội ở mình trẫm, xấu hổ vô cùng. Chỉ duy luân thường quan hệ, trăm quan khanh sỹ không kể lớn nhỏ, tất không bỏ trẫm, kẻ trí hiến mưu, người dũng hiến sức, kẻ giầu bỏ của trợ giúp quân nhu, đồng bào đồng trạch chẳng từ gian hiểm, phải thế chứ? Đến như cứu nguy chống đỡ, mở chỗ nguy khốn, giúp nơi bức bách, không tiếc tâm lực, mong được lòng trời chấp thuận, chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu lại cỡi bờ chỉ có cơ hội này, phúc của tôn xã, tức là phúc của thần dân, cùng lo với nhau thì cùng nghĩ với nhau, há chẳng tốt sao? Nhược bằng lòng sợ chết nặng hơn lòng yêu vua, nghĩ lo cho nhà hơn nghĩ lo cho nước, làm quan thì nượn cớ tránh xa, đi lính thì đảo ngũ trốn tránh, dân không biết hiếu nghĩa cứu gấp việc công, sỹ cam bỏ chỗ sáng đi vào nơi tối, vì không phải sống thừa ở đời trọng áo mũ mà hóa ra ngựa trâu, ai nỡ làm thế? Thưởng cũng hậu mà phạt cũng nặng, triều đình tự có phép tắc, chớ để hối hận sau này! Phải nghiêm sợ tuân hành!
Khâm thử.
Ngày 2 tháng 6, niên hiệu Hàm Nghi thứ nhất”.
Chủ soái đọc xong, nhìn mọi người thân thương rồi nói:
- Đây là văn bản mới vừa được Tán Chi ghi chép, chưa phải văn bản chính thức của Vua Hàm Nghi gửi cho quan quân. Nhưng tinh thần của văn bản Hàm Nghi đế chiếu đã rõ, Nhà Vua trẻ tuổi đã kêu gọi toàn dân đứng lên giúp Vua cứu nước. Bản Chiếu dụ đã nêu rõ cái lý do Nhà Vua phải xuất bôn dời ra rừng núi Quảng Trị để cùng nhân dân dùng quyền binh đánh giặc Pháp. Nhà Vua luôn nghĩ đến việc tự trị, tự cường của dân tộc Việt Nam. Sự cưỡng bức của giặc Tây đã khiến cho Nhà Vua không chịu được nữa phải đứng lên chống lại, tìm con đường sống cho dân tộc. Nhà Vua đã trách các đại thần chỉ lo cầu hòa, không lo đối phó, để lỡ mất cơ hội đánh giặc. Giờ vào tình thế này thì phải đứng lên, lo toan và ra tay đánh giặc. Ai cũng phải tham gia, thề nghiến răng dựng tóc giết hết lũ giặc, ai cũng phải tỏ lòng trung thành lăn xả vào việc đánh giặc noi gương các vị anh hùng cứu nước.
Ông nhấn mạnh nội dung giúp Vua:
- Nhà Vua cũng thấy mặt hạn chế của mình, đức mỏng, gặp biến cố lớn không thể giữ toàn, Kinh đô bi vây hãm, phải bỏ từ giá, cảm thấy xấu hổ vô cùng. Nhà Vua kêu gọi trăm quan khanh sỹ và tất cả mọi người vì Vua mà hiến mưu kế, dùng sức, tiền của mà tham gia đánh giặc, không sợ hiểm nguy. Cùng nhau hiệp lực cứu nguy, mở khốn, tháo nơi bức bách không tiếc công, tiếc sức để chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu lại cõi bờ. Chi bằng sợ chết, thiếu lòng trung vua, chỉ lo cho nhà, không lo cho nước, làm quan thì sợ giặc tránh xa, đi lính thì đảo ngũ, không lo việc công, bỏ chỗ sáng, vào chỗ tối, chịu kiếp sống như ngựa trâu. Triều đình có pháp luật, thưởng hậu, phạt nặng, chớ để hối hận. Phải chấp hành nghiêm lệnh!
Chủ soái còn đọc đi đọc lại, giải thích và phân tích rõ Hàm Nghi đế chiếu , ông cảm động nói:
- Ta vẫn tin vào Phụ chính Tôn Thất Thuyết sẽ có hành động cứu nguy dân tộc. Ngài đã chọn được vua hiền Hàm Nghi và đã ra tay rồi. Các quan có nghe rõ không? Vua mới 13 tuổi mà chí lớn quá! Viết được Chiếu Cần Vương, lời lẽ thống thiết kêu gọi toàn quốc dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Ta đọc Chiếu dụ của vua mà ngẫm mình và quan quân từ trước đến nay đã không làm gì phải ân hận, thực hiện tất cả những điều Đức Vua yêu cầu. Bây giờ, có đường lối của Đức Vua Hàm Nghi chỉ dẫn rồi, chúng ta không còn lúng túng, âu lo.
Các ông Phó soái Hoan, Phó soái Khê Ông, Phó soái Kiều nghe vui mừng khôn xiết. Tất cả những lời kêu gọi, yêu cầu quan quân đều đã được thực hiện nghiêm, không thiếu một điều gì. Phó soái Khê Ông nói với Chủ soái:
- Chúng ta phải phổ biến Chiếu dụ Cần Vương ngay lập tức, để binh sỹ vui mừng thực hiện!
Tán Chi nói:
Bây giờ, chúng ta cho các quan Tán tương quân vụ sao chép Chiếu dụ, chờ khi có văn bản chính thức do Vua hàm Nghi gửi ra thì ta cho phổ biến cho binh sỹ và đồng bào. Không lâu nữa đâu, Chiếu dụ và các văn bản chỉ thị của Vua Hàm Nghi sẽ gửi tới. Tôi đã cho người liên lạc với Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết, chắc chỉ ngày một ngày hai văn bản trên sẽ được gửi tới.
Trưa và chiều hôm đó, quan quân Tiên Động vui mừng khôn xiết. Đêm đến quan quân, thắp đèn, đốt lửa sao chép, bàn luận không ngừng. Tất cả đều hướng theo Cần Vương chuẩn bị tinh thần kháng chiến, giết giặc lập công cứu nước. Mọi người đều thở phào, nhẹ nhõm, bởi những điều bị nghi kỵ, lời vu oan giá họa đều tiêu tan hết. Họ như được sống trong một bầu không khí mới, vua quan, binh sỹ và nhân dân cùng một chí hướng, cùng một mục tiêu đánh giặc Pháp, không sợ gian khổ hy sinh. Quyết đem xương máu, đền nợ nước trả thù nhà, dù phải gánh nhiều khó khăn tưởng như núi Thái Sơn đè lên vai họ.
Trong đêm, Chủ soái Nguyễn Quang Bích cùng Chỉ huy và binh sỹ nhận được bản Hàm Nghi đế chiếu của Vua Hàm Nghi gửi ra. Nghĩ về Đệ nhất Phụ chính Nguyễn Văn Tường mà băn khoăn. Phụ chính Nguyễn Văn Tường, một người cầm đầu phe chủ chiến mà lại nghe bà Thái hậu Từ Dũ quay lại dàn xếp với bọn giặc Pháp. Khác gì tự mình đem thân nộp cho giặc, ngài ấy sẽ bị giặc quản thúc, đầy đọa, làm nhục, cuộc đời và danh dự sẽ bị bôi nhọ, không ai có thể thanh minh được nữa. Chủ soái nói với Khê Ông:
- Người cầm đầu không tỉnh táo mà hành động mù quáng sẽ thất bại, chụi nhục và chết trong tù đày!
Khê Ông nhìn Chủ soái không nói gì. Người ta khen Phụ chính Nguyễn Văn Tường rất khôn ngoan và có tài ngoại giao nhưng việc quay lại với quân Pháp để dàn xếp cho cái bậu xậu của triều đình Huế bạc nhược phỏng có ích gì. Giặc Pháp sẽ dựa vào ông, bắt ông dựng một vua mới thay cho Hàm Nghi và sau đó bắt ông ta đi đày biệt xứ. Quân Pháp gian ác, thâm độc, những người khởi nghĩa đánh Pháp không làm triệt để từ đầu sẽ chuốc lấy sự bại vong.
Nửa đêm, Chủ soái còn kể cho Khê Ông biết về quan Phụ chính Tôn Thất Thuyết. Ông Thuyết, người Huế, thuộc dòng dõi tôn thất, yêu nước có chí lớn. Chủ soái đã có quan hệ với ông Thuyết từ lâu, khi ông ta còn làm phó tướng cho Tinh biên sứ Hoàng Kế Viêm chỉ huy quân đội triều đình ở Bắc Kỳ. Ngày ấy, ông Thuyết đã khuyên Tuần phủ Nguyễn Quang Bích phải giữ vùng Thao Đà làm đất căn bản. Sau khi triều đình ký hiệp ước Giáp Thân ông đã bí mật cử người ra bảo ông giữ thành Hưng Hóa và miền đất Thượng du sông Thao để chờ thời cơ.
Ông lo Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết và ông Trần Xuân Soạn đưa Vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, là vùng đất hẹp, quân lực ít không thể giữ vững được lâu. Phải đưa Vua ra Bắc Kỳ chiếm giữ lấy một một vùng đất hiểm yếu như vùng Thanh Hóa, Nghệ An hay vùng Tây Bắc, Việt Bắc tập hợp đông đảo quân nghĩa để chiến đấu bảo toàn. Bên cạnh nhà Vua phải gồm các người tài về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao mới lo nổi công việc thu phục lại giang sơn. Ông Thuyết có chí nhưng không có tài kinh bang tế thế, đã chỉ đạo binh biến, khởi nghĩa không thành công, gây ra tổn thất không nhỏ về người và của là điều đáng chê trách.
Việc lớn nhất làm được là đưa vua Hàm Nghi ra chiến khu, ban bố Chiếu Cần Vương. Đây mới chỉ là thành công ban đầu, toàn dân phải cố sức nhiều mới có điều kiện để thắng lợi. Chỉ tiếc bỏ lỡ nhiều thời cơ quá, nay quân Pháp đã mạnh lên chủ động tiến công chặn đứng được sự nổi dậy của phe chủ chiến. Hơn một năm trước, khi quan quân Hưng Hóa không chịu hạ vũ khí, quân của triều đình còn đang đông, thế còn mạnh mà đã có một Vua Hàm Nghi như bây giờ thì chắc thắng quá. Ông nằm nghĩ lại tiếc cho thế nước, vận nước và thời cơ quý giá bị bỏ qua.
Cả đêm ông suy nghĩ không lúc nào nhắm mắt được. Trời vừa sáng đã thấy chỉ huy căn cứ, các đạo quân và quân vụ kéo đến Đại bản doanh. Suốt đêm, nhân dân và quan quân vùng Tiên Động náo nức đọc và bàn luận về bản chiếu của Vua Hàm Nghi. Mọi người yêu cầu Chủ soái làm lễ đón nhận, ra lệnh cho quan quân tiến công các đồn giặc để hưởng ứng, phái quan quân đi trị tội bọn phản bội, tay sai bán nước, hại dân để làm nghiêm phép nước. Ông nói với mọi người:
- Vua Hàm Nghi đã ra tay rồi! Quan quân ta tiếp nhận và làm theo Chiếu Cần Vương. Tất cả trở về chuẩn bị chu đáo cho lễ đón và thi hành Chiếu Cần Vương!
Sáng hôm sau, trên đồi Cột Cờ khu đại bản doanh, lá cờ Hoàng triều mang hai chữ Đại Nam phần phất tung bay, bên cạnh là cột cờ treo lá cờ đại màu đỏ thêu bốn chữ vàng Bình-Tây-Báo-Quốc. Trên lễ đài là một bảng bằng gỗ lớn dán bản Hàm Nghi đế chiếu. Dưới lễ đài ba quân đứng nghiêm trang chờ nghe Chiếu dụ. Quan Thông sứ Phan Đức Huy người của Vua Hàm Nghi từ Tân Sở, Quảng Trị được người của Tán Chi đưa ra. Trên lễ đài, trước đông đảo tướng sỹ Tiên Động quan Thông sứ dõng dạc đọc Hàm Nghi đế chiếu.
Mọi người nghe đọc rất cảm kích, lòng dạ lâng lâng. Phó soái Khê Ông bước lên kỳ đài đọc lời tuyên thệ xin làm theo Chiếu dụ của Vua Hàm Nghi. Ông hô lớn:
- Quan quân Tiên Động, Hưng Hóa xin thề tuân theo Chiếu dụ của Đức Vua Hàm Nghi!... Xin thề diệt hết lũ giặc Tây thu phục giang sơn gấm vóc!... Xin thề trung thành với Vua Hàm Nghi, trung với nước Đại Nam!....
Sau tiếng hô xin thề là hàng ngàn tiếng hô hưởng ứng vang lên liên tiếp:
- Xin thề!... Xin thề!... Xin thề!....
Tiếng hô rung chuyển cả núi rừng Hoàng Liên và náo động cả vùng non nước sông Thao. Quan Thông sứ Phan Đức Huy lại bước lên lễ đài đọc sắc phong cho Tiến sỹ Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích giữ chức vị Hiệp biện đại học sỹ, Lễ bộ thượng thư, kiêm chức Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần trung tướng.
Quan Thông sứ Huy nói thêm:
- Với chức vụ này, quan Hiệp thống, Khâm sai đại thần, Thuần trung tướng quân Nguyễn Quang Bích có quyền phong quan văn tới chức tham tán, án sát, quan võ tới chức đề đốc, lãnh binh.
Chủ soái Nguyễn Quang Bích không mặc trang phục Chủ soái như ngày tế cờ, treo cờ khởi nghĩa mà mặc xuân phục quan triều bước lên lễ đài, cúi đầu nhận bản Chiếu dụ Cần Vương và bản sắc phong của Vua Hàm Nghi cho mình.
Quan quân Tiên Động đồng thanh hô theo lời của Phó soái Khê Ông:
- Hoan hô quan Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ, Khâm sai đại thần, Thuần trung tướng Nguyễn Quang Bích!
-Hoan hô!... Hoan hô!... Hoan hô!...
Tiếng hoan hô vang lên náo động cả bầu trời, mặt đất. Mọi người đang trong niềm hân hoan vô tận thì tiếng Hiệp thống đại thần vang lên:
- Thưa đồng bào và tướng sỹ! Lúc này, hơn hơn lúc nào hết, quân dân Tiên Động và quân dân toàn Bắc Kỳ phải quyết tâm chiến đấu theo tinh thần của Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Không sợ gian khổ, hy sinh, tất cả để đánh thắng giặc Tây thu phục cõi bờ. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải chiến đấu trường kỳ, nhưng đã có quyết tâm của tất cả mọi người, trên cao nhất là Vua Hàm Nghi, dưới là quan quân và toàn dân nước Đại Nam. Chúng ta có chính nghĩa, thì sự nghiệp phục quốc nhất định sẽ có ngày giành thắng lợi hoàn toàn.
Tiếng hoan hô lại vang lên. Mọi người trong hàng ngũ chỉnh tề diễu hành qua lễ đài, tay phải giơ cao, nghiêm trang một lần nữa thề quyết tâm thực hiện Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi. Quan Hiệp thống đại thần Nguyễn Quang Bích và viên Thông sứ Phan Đức Huy nhập vào đạo Hậu quân hồ hởi đi qua lễ đài.
Khi nói chuyện với viên quan Thông sứ, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích được biết: Phụ chính đại thần, Đại tướng Nguyên nhung Tôn Thất Thuyết thành người chỉ huy tối cao của Phong trào Cần Vương. Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân được phong thượng tướng quân. Tiến sỹ Nguyễn Đức Đạt được phong Lại bộ thượng thư kiêm Tổng đốc An Tĩnh. Ông Hoàng Kế Viêm được vua Hàm Nghi phong Tiết chế quân vụ đại thần toàn Bắc Kỳ. Tiến sỹ Nguyễn Xuân Ôn được phong Hiệp thống An Tĩnh quân vụ đại thần. Chánh sứ sơn phòng Nguyễn Thiện Thuật được phong Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ đại thần. Tiến sỹ Tống Duy Tân tiếp tục giữ chức Chánh sứ Sơn Phòng Thanh Hóa. Những người tướng nghĩa quân gần gũi của quan Hiệp thống cũng được Vua Hàm Nghi tấn phong: Nguyễn Văn Giáp được phong Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ đại thần, Phấn trung tướng. Các vị chỉ huy nghĩa quân khác đang được xem xét đề bạt cất nhắc theo chức vụ chỉ huy.
Ngay trong đêm, Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ, kiêm Khâm sai đại thần, Thuần trung tướng Nguyễn Quang Bích họp những người chỉ huy căn cứ Tiên Động bàn về việc phong chức chính thức cho những người chỉ huy tại căn cứ Tiên Động. Phó soái Nguyễn Hội được phong Tán tương quân vụ Bắc Kỳ, Phó soái Hoàng Văn Thúy tức Phó soái Kiều được phong chức Đề đốc Hưng Hóa. Ông Nguyễn Quang Hoan được phong Đề đốc tiếp tục giữ chức Chỉ huy Hành dinh. Các ông Hà Công Cấn, Trịnh Bá Đanh, Nguyễn Văn Vị vẫn giữ chức Tán tương quân vụ. Các ông chỉ huy trực tiếp các đạo quân tiếp tục được tấn phong đốc binh, phó đốc binh. Các lãnh tụ khởi nghĩa ở các làng tổng có từ 100 quân trở lên được phong chức lãnh binh, dưới quyền chỉ huy của lãnh binh là các đốc binh, phó đốc binh, hiệp quản, đội trưởng, cai đội. Các chức vụ đã được tấn phong tạm thời, nay được tấn phong chính thức.
Dân vùng Tiên Động và dân các vùng sông Thao, Hưng Hóa, nay gọi Chủ tướng Nguyễn Quang Bích bằng cái tên thân mật “quan Đại”và những người trong quân ngũ gọi ông là “ quan Hiệp thống” thay cho cái tên gọi “quan Tuần’ hay là “Chủ soái ” trước đây. Tại các làng xã được nghe theo Chiếu Cần Vương, từ người chỉ huy đến binh lính nghĩa quân đều phấn khởi ra mặt. Trước đây theo Chủ soái Nguyễn Quang Bích họ còn bị mang cái tiếng xấu là đi “làm giặc”, phải cam lòng chịu đựng. Nay theo Chiếu Cần Vương thì sự nghiệp của họ là chính nghĩa, niềm tin vào tiền đồ được nâng cao. Sự hy sinh của quan quân, của nhân dân là có mục đích rõ ràng, tương lai ngày mai càng được sáng tỏ, rực rỡ.
Mấy ngày hôm sau, tại căn cứ Tiên Động, quan Hiệp thống đại thần liên tiếp nhận được tin. Nhân dân làng Phú Thọ bắt sống tên cai Mạ, một tên chỉ điểm đã khái báo cho Tây biết bắt sống Đốc Long đem về Hưng Hóa xử trảm. Ma Văn Vân là em trai của Đốc Long và dân binh đã phục kích bắt được cai Mạ, đem về thành Mè xử tử. Nhưng việc xử tử làm quá tay là tẩm dầu chẩu vào thiếu cháy thành tro tên giặc cai Mạ. Ông đã có công văn nhắc nhở dân binh các làng ra tay trừng trị những tên phản bội nhưng không được giết người một cách giã man. Ông yêu cầu triệu tập Ma Văn Vân lên căn cứ Tiên Động để nhận sự giáo dục.
Hiệp thống Nguyễn Quang Bích được biết tin, quan quân Thanh Mai hưởng ứng Chiếu Cần Vương đã tiến công đồn giặc Tây ở Hạc Trì, Phúc Thọ, Vĩnh Tường, Tam Dương, Ba Vì, Hưng Hóa làm cho bọn Pháp phải kinh hoàng, bạt vía. Căn cứ Thanh Mai-Thạch Sơn được giữ vững và gây được thanh thế. Ông cho người đến và nhắc quan Hiệp đốc Nguyên Văn Giáp, Lãnh Mai, Tán Dật phải đề phòng cẩn mật, vì nghe tin tình báo cho biết Bộ chỉ huy Pháp tại thành Hà Nội đã có kế hoạch tiến công Thanh Mai với lực lượng đông tới hàng nghìn quân.
Ông đã cho người đưa Thông sứ Phan Đức Huy về dưới Bãi Sậy, Hưng Yên. Được tin Hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật đã nhận sắc phong của vua Hàm Nghi và cho người liên lạc báo tin cho Chỉ huy Tiên Động rằng ngày gấn nhất sẽ lên để bàn cụ thể phương án tác chiến chống giặc Pháp tại Bắc Kỳ. Hiệp đốc Nguyễn Thiện Thuật đang tập trung quân Bãi Sậy bao vây đánh địch ở thành Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh. Nghĩa quân hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn nhưng đang chuẩn bị đánh lớn để mở rộng ảnh hưởng và thanh thế. Ông Thuật còn thông tin cho biết trên vùng đồng bằng Bắc Kỳ có khoảng trên 200 đơn vị nghĩa quân hoạt động đánh Pháp. Nếu ta biết tập họp lực lượng này, thì quân Cần Vương có trong tay một lực lượng khá lớn hàng vạn quân để chống Pháp.
Những ngày này, Hiệp thống đại thần Nguyễn Quang Bích đã nhận được thư của Chánh sứ Sơn phòng Tống Duy Tân báo tin, nhân dân Thanh Hóa đã nổi dậy ở nhiều nơi. Từ vùng biển Nga Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc đến các vùng núi Bá Thước, Quan Hóa, Yên Định nghĩa quân vẫn làm chủ. Nhưng hiện nay giặc Pháp đang sử dụng đội quân tay sai của triều đình Huế đi đàn áp nghĩa quân rất dữ dội. Chánh sứ Sơn phòng cho biết, nhân dân Thanh Hóa nhiệt liệt hưởng ứng Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi. Ông xác định, ta có chính nghĩa nhưng phải xây dựng được phong trào Cần Vương lớn mạnh trong cả nước thì mới có khả năng chiến thắng.
Hiệp thống Nguyễn Xuân Ôn có thư báo rằng, các đội nghĩa quân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh đã chuẩn bị được một lực lượng nghĩa quân khá lớn. Nhưng cái thiếu lớn nhất vẫn là thiếu trang bị, vũ khí, nghĩa quân vùng An Tĩnh đang khắc phục bằng cách chế tạo vũ khí mới. Quân quan đang thiếu trầm trọng những người chỉ huy có tài để xoay chuyển tình thế. Phần lớn lãnh đạo nghĩa quân là văn thân chưa từng chỉ huy các trận đánh, nên việc ra quân đánh giặc thường không hiệu quả. Ở Hà Tĩnh thì Đình nguyên Phan Đình Phùng đã chọn vùng đất Hương Khê làm căn cứ nhưng chưa động binh. Các văn thân tỉnh Nghệ An nổi dậy sẽ chọn vùng miền núi phía tây tỉnh làm căn cứ chống Pháp lâu dài. Hiệp thống Nguyễn Xuân Ôn đã có công văn yêu cầu Phụ chính đại thần, Đại tướng Nguyên nhung Tôn Thất Thuyết phải đưa Đức Vua Hàm Nghi ra Nghệ An, Thanh Hóa, hoặc là Tây bắc, Việt Bắc thì phong trào Cần Vương mới khởi phát lên được.
Quan Tổng đốc Lạng Bằng Lã Xuân Oai đã bỏ quan về quê Thượng Đồng, Sơn Nam dạy học cũng có thư báo phong trào đang được tổ chức sẽ tiến hành khởi nghĩa, nhờ Tiên Động giúp đỡ. Ông có yêu cầu quan Hiệp thống Nguyễn Quang Bích phải đứng ra tổ chức Hội nghị quân sự toàn quốc để cùng thống nhất một mặt trận đánh giặc Tây. Hiện nay, các lực lượng nổi dậy mang tính chất tự phát, manh mún dễ bị tiêu diệt. Bọn giặc Pháp đang dựa vào bè lũ tay sai phản động đàn áp những cuộc nổi dậy rất dã man, phải coi chính lực lượng tay sai này là kẻ thù nguy hiểm và phải có kế hoạch tiêu diệt chúng.
Các thư gửi từ Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Bằng nói rõ về nhận sự, yêu cầu sự chỉ đạo trực tiếp, chi viện thêm lực lượng, vũ khí, trang bị. Hiệp thống Nguyễn Quang Bích đều có thư trả lời, nhắc nhở. Trong hoàn cảnh hiện nay các đơn vị nghĩa quân phải cố gắng duy trì lực lượng, phải tự lực cánh sinh, phải bám địch đánh địch cướp súng của giặc mà đánh giặc. Các lực lượng ở vùng sông Thao, Hưng Hóa đều tự tạo vũ khí, trang bị cho nghĩa quân đánh địch. Phải nhờ vào lực lượng của nhân dân ủng hộ lương thực, thực phẩm, tiền bạc, thậm chí cả vũ khí. Quan Hiệp thống Bích nhắc nhở các chỉ huy, tướng sỹ phải duy trì tốt mối quan hệ quân dân, phòng tránh được những âm mưu đen tối của địch nhằm chia rẽ nghĩa quân với nhân dân.
Hiệp thống Nguyễn Quang Bích đang trong tâm trạng vừa mừng, vừa lo. Mừng vì nhân dân và tướng sỹ khắp mọi miền nhất tâm làm theo Chiếu Cần Vương. Lo vì trách nhiệm lớn lao mà thực lực có hạn, khó khăn chồng chất, chưa biết cách giải quyết ra sao. Vua Hàm Nghi và những người chỉ đạo phong trào còn ở xa đang thiếu người có tài chéo lái. Quân thù thì rất mạnh đã chiếm được nước ta, lại thêm bộ máy thống trị người Nam bao gồm những tên tay sai đắc lực đang thả sức hoành hành. Ông lặng lẽ đứng nhìn về phía đông, buổi sáng mặt trời đang lên, cảnh trời đất Tiên Động thật huy hoàng, tráng lệ. Dòng sông Thao phía trước, từ thuở Hùng Vương dựng nước vẫn cần mẫn chở nặng phù sa bồi đắp nên vùng đồng bằng trù phú nuôi dưỡng con người và ý chí dân tộc. Ông tự nghĩ mình phải như dòng sông Thao dồi dào, bất khuất, kiên trung luôn chảy theo một hướng, ngàn vạn năm không đổi, tưới mát lòng đất mẹ Việt Nam.