Bọn giặc Pháp xảo quyệt dùng thủ đoạn dụ hàng các văn thân, võ tướng; mua chuộc những kẻ tham tiền bạc, ham sống sợ chết, tham vọng địa vị; lợi dụng những người có hoàn cảnh nghèo khó, éo le, nhỡ nhàng, kể cả những tên trộm cắp, phạm pháp để sai bảo, biến họ thành những tên tay sai nguy hiểm tiến công vào những người theo nghĩa quân, theo Cần Vương, gây ra những vụ lộn xộn, rối loạn trong vùng hậu phương của nghĩa quân. Chúng treo giá rất cao, thường thì mỗi đầu nghĩa quân 50 lạng bạc đến 100 lạng bạc, đầu những viên đội, đốc binh, lãnh binh, thủ lĩnh giá lên tới 200, đến 500 lạng bạc. Ngoài ra còn có giá riêng giết và bắt những nhân vật chỉ huy, thủ lĩnh quan trọng, phong chức tước, phẩm hàm nếu thấy xứng đáng.
Ở thành Hà Nôi, thống đốc Pôn Be nói với các sỹ quan Pháp:
- Chúng ta không nên động binh lớn nữa, chiến lược “tằm ăn lá dâu” vẫn là thượng sách. Người Việt Nam có câu “mưa dầm thấm lâu”, cứ từ từ màn màn ra quân bình định thì mọi việc sẽ đâu vào đấy. Chiến tranh giành thuộc địa rất cần sức mạnh quân sự nhưng rất cần đến chính trị. Sự mua chuộc, dụ dỗ đôi khi “không đánh mà thắng”. Tiền bạc, chức tước làm mờ ám, tha hóa, biến chất con người là thứ vũ khí công hiệu của chủ nghĩa thực dân. Thủ tiêu ý thức và làm tê liệt ý chí đấu tranh đến cùng của những người trực tiếp chiến đấu chống người Pháp là mục tiêu không đổi. Chúng ta đang thắng về quân sự thì đấu tranh chính trị cũng sẽ dễ dàng thắng lợi.
Bộ máy cai trị của thực dân Pháp dựa vào nhà nước phong kiến cũ đã được hình thành từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi. Chúng lợi dụng sự thiếu hiểu biết, óc thủ cựu, tăm tối và sự ngu dốt của từng người để thực hiện hành động dụ dỗ, mua chuộc, lừa phỉnh.
Ở làng Sơn Nga, bọn giặc Tây nắm được danh sách những người mộ nghĩa, người đứng đầu là Chảnh tổng Nguyễn Văn Vị, hiện đang làm Tán tương quân vụ cho nghĩa quân Tiên Động.
Thằng Cỏn người cùng làng, theo làm công vụ cho ông Nguyễn Văn Vị đang về phép nghỉ ở xóm Đình. Biết được đích xác lý trưởng làng Sơn Nga là Hoàng Lầm theo lệnh Tây đem lính đến vây bắt. Cỏn không kịp chạy, chúng bắt được Cỏn tại nhà đưa ra đồn bắt tra khảo. Tên đội Tề cho lính trói gô cổ Cỏn lại, đánh cho một trận nhừ đòn và gạn hỏi:
- Mày ở với ai trong Tiên Động?
- Con ở với Tán tương quân vụ Nguyễn Văn Vị, nơi làm việc trong khu Đại Bản doanh.
Tên đội Tề hỏi tiếp:
- Mày có thể dụ dỗ Tán Vị ra hàng được không?
- Không ạ. Vì ông ấy là người rất trung thành với quan Hiệp thống Nguyễn Quang Bích.
- Không thể dụ hàng nó, chúng tao giao việc giết chết Tán Vị, mày có làm được không?
- Con không thể làm được!
- Sao lại không ?
Bọn tay chân treo Cỏn lên cây sấu trước đồn dùng gậy đánh túi bụi. Đội Tề hăm dọa:
- Chúng tao sẽ bắt vợ con mày giết chết hết, vì tội mày đi theo bọn phản loạn chống lại đức vua Đồng Khánh, tội đáng chu di tam tộc!
Nghe bọn giặc hăm dọa, Cỏn sợ quá van xin:
- Thế thì các ngài tha tội chết cho con và tha cho vợ con! Con xin về nhà, các ngài sai bảo gì con sẽ làm!
- Phải thế chứ!
Tên quan hai Phia-ke-nơ ( Fiekene) đồn trưởng bảo đội Tề:
- Thả cho hắn về nhà, cử người của ta cùng lý trưởng Hoàng Lầm bày cho thằng Cỏn cách lấy đầu Tán Vị, ta hứa sẽ thưởng hậu.
Bọn giặc tha cho Cỏn về nhà và cho tay chân bí mật đến nhà Cỏn bày cho hắn cách lấy đầu Tán Vị. Ngày hôm sau Cỏn trở vào Tiên Động, đang lúc Tán Vị mải mê ngồi viết sách, thấy mặt mày Cỏn có chỗ vết xưng tấy, Tán Vị hỏi:
- Mặt mũi mày sao thế?
- Con bị ngã ạ.
Tán Vị không nghi ngờ gì hỏi Cỏn:
- Ở quê nhà có gì thay đổi?
- Không còn như trước, làng Sơn Nga giặc Tây đã đóng đồn và kiểm soát.
Tán Vị đã biết, không hỏi nữa và ngồi cặm cụi viết văn sách, không để ý đến Cỏn nữa. Nửa đêm, Tán Vị mỏi mệt ngủ say đã bị thằng Cỏn dùng dao đâm chết. Cỏn cắt lấy đầu Tán Vị và cuốn lấy sách để trong cái bị khoác lên vai, đi theo con đường rừng ra ngòi Rành vượt các vọng gác đi sang làng Phương Xá, Phùng Xá về Sơn Nga. Hắn mang đầu Tán Vị và sách bút vào đồn dâng cho giặc. Bọn Tây gọi lý trưởng Hoàng Lầm ra đồn nhận mặt, đúng là đầu Tán Vị. Bọn địch mang đầu Tán Vị cùng tang vật, đưa tên Cỏn về thành Hưng Hóa nhận thưởng và yết thị biểu dương công lao của Cỏn, hứa sẽ thưởng hậu hơn những người nào lập công trạng như thế.
Sáng hôm sau, quân lính trong khu Đại bản doanh mới phát hiện xác của Tán Vị bị mất đầu nằm trên giường. Quan lính vô cùng sợ hãi chạy đến báo cho Phó Chỉ huy Nguyễn Quang Hoan biết. Đề Hoan đến xem hiện trường, biết ngay người giết Tán Vị là tên Cỏn người cùng làng Sơn Nga. Tên này vừa được Tán Vị cho về nhà, bị địch mua chuộc dụ dỗ đã giết Tán Vị để lấy tiền thưởng. Đề Hoan báo cáo lại sự việc đau đớn này cho các Chỉ huy căn cứ Tiên Động và cho Hiệp thống Nguyễn Quang Bích biết. Nghe tin Tán Vị bị tay chân giết, ông nhắc nhở:
- Giặc Pháp đã đánh Tiên Động từ bên trong trước khi đánh từ ngoài vào. Các chỉ huy các đạo và các đội không cho binh sỹ tự ý ra ngoài, tự tiện về nhà, đề phòng bị mua chuộc, dụ dỗ làm điều phản nghịch. Việc để tên Cỏn giết chết Tán Vị lấy thủ cấp là trường hợp hy hữu đáng tiếc xảy ra, ta bí mật tổ chức làm ma và đưa xác Tán Vị đi an táng. Mọi việc bây giờ phải cảnh giác cao độ, phải theo dõi sự thay đổi về tư tưởng và hành động của quan quân. Bi kịch về sự phản bội sẽ xảy ra nhiều hơn khi ta gặp khó khăn, thất bại.
Quan Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp nghe tin buồn rầu nói:
- Tán Vị hứa tự mình viết “ Bình Tây sách”, Đề Hoan xem còn thấy trang viết nào để lại không?
- Tôi đã khám kỹ hiện trường, không còn cái gì để lại, chắc là Cỏn cắt lấy thủ cấp đã cuốn lấy cuốn sách của Tán Vị.
Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp nhìn quan quân nói:
- Chúng ta mất Tán Vị, mất một mưu sỹ có tài. Ông ta vừa làm việc quân vừa cố gắng hoàn thành “Bình Tây sách” chỉ ra đường lối sách lược, chiến lược cho quan quân kháng chiến chống Pháp xâm lược. Ông ta có nói, sách viết trên cơ sở của “Bình Ngô sách” và “Quân trung từ mệnh tập” của Đại Hành khiển Nguyễn Trãi và lấy kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống quân Minh làm gương, trong hoàn cảnh hai cuộc kháng chiến phải tiến hành khi chính thể nhà nước và các thành trì đã bị quân xâm lược đánh bại cùng phải làm lại từ đầu. Bây giờ người mất, sách mất thật tiếc lắm thay!
- Đã mất rồi thì tiếc cũng chẳng làm gì!- Đề Kiều nói- Bây giờ cho quân làm ma, mai táng. Cho người tìm thằng Cỏn giết đi làm gương cho những kẻ giã tâm phản phúc. Sách mất rồi, thì ba ông thợ da hợp lại thành ông Gia Cát Lượng, cứ ý kiến của nhiều người cho là hay, là đúng ta làm thì không lo gì nữa.
Quan Hiệp thống nghe mọi người không nói gì thêm lòng buồn rượi. Một việc đến buồn hơn khi nghe báo tin Đốc Biêu chỉ huy đạo Hậu quân đưa quân tập kích đồn Bùng không thành công, 22 quân sỹ bị địch giết, Đốc Biêu bị chết trong trận ấy.
Đề Kiều đến báo lại sự việc:
- Đốc Biêu cho quân điều tra, thấy đồn Bùng của giặc Pháp có 5 khẩu đại bác và có cơ số đạn gần 1000 viên. Định tập kích tiêu diệt địch chiếm số súng đạn đại bác mang về trang bị cho căn cứ Tiên Động. Khi chiếm được trận địa pháo địch rồi, một tiểu đoàn bộ binh địch bảo vệ trận địa pháo phản kích chiếm lại. Đốc Biêu chi huy quân chống trả nhưng vì quân ít, nên số quân chiếm giữ trận địa pháo lần lượt hy sinh, Đốc Biêu đã chết nằm trong số quân sỹ tử trận. Quân địch chiếm trận địa xong, thu lượm xác chết lôi ra sông Thao vất tất cả xác xuống dòng nước lũ cuộn cuộn đang trôi xuôi.
Nghe tin Đốc Biêu chết, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích nói với các chỉ huy:
- Đốc Biêu là người chỉ huy có tài, dũng cảm, thao lược luôn có ý thức tiến công quân địch không sợ hy sinh. Đã đem lại nhiều thắng lợi lớn bất ngờ có lợi cho toàn cục, một người rất đáng quý, đang trân trọng. Đốc Biêu chết là một tổn thất lớn cho quân ta. Các chỉ huy các đạo quân, đội quân cần phải phát động phong trào tích cực đánh địch nối chí đốc Biêu.
Tin Đốc Biêu chết, Đề Kiều là người buồn thương nhất. Vì Đốc Biêu là người anh em, con trai bà cô ruột. Người gắn bó với ông từ nhỏ, từ ngày đầu tiên lập đội nghĩa dũng của làng Cát Trù theo quan Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, anh em đã sống chết với nhau đánh giặc lập công. Đốc Biêu là người thông minh, dũng cảm, gan góc không ai sánh bằng. Người này còn sống, sẽ là người giúp cho ông rất nhiều. Giờ chết đi, mẹ, vợ trẻ và đàn con bơ vơ, trong loạn lạc biết sống ra sao. Nhớ thương Đốc Biêu, Đề Kiều khôn cầm được nước mắt.
Nhưng Đốc Biêu không chết, quân Pháp ném xác ông xuống sông Thao, nước sông đang trong cơn lũ, mát lạnh làm cho người bị thương tỉnh lại. Người biết bơi giỏi, trong nước chảy thân xác nổi bềnh lên, chân tay quều quào quắp vào thân cây chuối trôi trên sông. Cây chuối nổi giữ người không chìm và cùng trôi lập lờ trên mặt nước. Đến làng Hiền Đa, gặp bãi Trung Hà dòng sông nước chảy chậm lại, vì soi đất nổi dài giữa sông. Ông Đỗ Tình là người dân đi vớt củi đêm, thấy người trôi trên sông còn sống liền vớt lên thuyền cho vào bờ cứu chữa. Mọi người kéo tới xem nhận ra người trôi trên sông Thao tên là Cao Cần con cháu con bà cô họ Đỗ. Liền kêu gọi mọi người khiêng về nhà, cho thay quần áo, băng bó lại vết thương. Đến chiều Đốc Biêu tỉnh lại, nhưng chưa nói được, mọi người mừng, cử người đi đón thầy lang Hiền dưới chợ Trò cho thuốc chữa. Thầy lang Hiền nhận ra đốc Biêu là con bà Hoàng Thị Tèo có vợ là cô Tạ Thị Bông mấy năm trước buôn bán ở chợ Trò. Đốc Biêu là nghĩa binh trong đội nghĩa dũng Cát Trù đã tham gia chiến đấu anh dũng giết nhiều tên giặc Pháp. Chúng đã trả thù ông cho quân đến đốt nhà, giết chết người nhà. May mà bà Tèo và các cháu chạy thoát còn cô Bông bị giặc bắt. bọn giặc kéo cô ra chợ Trò và bọn lính Âu Phi đè ra hiếp chết tại chợ, xác cô Bông chúng kéo ra vườn chuối để đó thối inh ruồi nhặng đậu đen, giòi bọ nhung nhúc. Hơn một tháng sau, giặc pháp rút về đóng đồn ở Phong Vực xác của cô Bông mới được người làng tìm thấy đem chôn. Sau này, ông Đề Kiều và Đốc Biêu kéo quân về giết chết bọn giặc Tây ấy, trả thù cho cô Bông và những người thuộc tổng Điêu Lương bị giết hại. Ông lang Hiền rất thương mến Đốc biêu đã tìm mọi cách cứu chữa. Vết thương khỏi dần, nhưng chân trái của Đốc Biêu bị thương teo cơ, phải đi tập tễnh.
Ông Chánh Triều làng Văn Khúc là bác họ Đốc Biêu, nghe tin Đốc Biêu bị thương, trôi trên sông Thao được ông Đỗ Tình người Hiền Đa vớt lên cứu và được dân làng cưu mang, đón thầy lang Hiền về chữa chạy đã đỡ nhưng bị què đi tập tễnh. Lúc này Đốc Biêu đã tỉnh táo mừng là có người của họ mạc ra đón về nhà. Gặp lại ông bác họ, đốc Biêu kể lại đầu đuôi câu chuyện đi đánh đồn Bùng định cướp pháo của địch trang bị cho nghĩa quân. Việc không thành, bị địch bắn trọng thương nằm trên trận địa. Địch tưởng chết rồi cho quân mang xác ném xuống sông Thao. Khi người chưa chết nổi lên, lúc đó có cây chuối trôi qua, tay chân quắp lấy cùng dòng nước trôi về tận làng Hiền Đa. May mà ông Đỗ Tình đi vớt củi đêm trông thấy mang về cứu giúp. Nay còn sống nhưng thành người tàn tật, không thể theo nghĩa quân làm việc nghĩa. Ông Chánh Triều nghe kể lại cảm động nói:
- Đốc Biêu là người họ Cao chúng tôi đi làm việc nghĩa cứu dân, cứu nước chẳng may gặp nạn. Được vợ chồng ông bà Đỗ Tình và bà con dân làng Hiền Đa đã tận tình cưu mang, chữa chạy được sống lại. Ơn nghĩa lớn bằng trời! Chúng tôi thay mặt gia đình, họ hàng xin cảm ơn và xin thanh toán số tiền thuốc chữa chạy.
Ông Đỗ Tình đáp:
- Chúng tôi thấy Đốc Biêu đã vì nghĩa lớn mà chiến đấu, hy sinh, nêu một tấm gương lớn cho mọi người đánh giặc. Người thường gặp nạn chúng tôi còn giúp đỡ, huống chi là một anh hùng cứu nước, lại là con cháu bà Đỗ Thị Đảm người họ Đỗ và là người dân làng Hiền Đa chúng tôi. Bây giờ tạm khỏi, ông Chánh Triều ra đón, chúng tôi cho ông đón về lo thuốc thang tiếp, may mà lành khỏi lại tham gia việc cứu nước cứu dân. Còn tiền nong, ông Chánh Triều và Đốc binh khỏi phải lo! Người làm việc nghĩa sống thì cưu mang, chết thì làm đền miếu cúng giỗ, ơn sâu nghĩa trọng thì tiền của chẳng bao giờ mất cả!
Mọi người nghe ông Đỗ Tình nói, đều cho là phải, họ nhìn chăm chắm vào đốc Biêu như muốn tôn vinh người có công đánh giặc. Đốc Biêu mặt vẫn còn xanh lét vì mất máu, nhiều vết thương còn chưa lành, chân bước liêu xiêu cảm động nói:
-Tôi xin chân thành cảm ơn ông bà Đỗ Tình, bà con dân làng Hiền Đa, ông lang Hiền đã cứu sống tôi! Ơn nghĩa này to như trời bể, tôi luôn ghi nhớ và mang ơn. Đất nước còn giặc thù, nhân dân ta còn phải chiến đấu chống giặc. Mong rằng bà con ta một lòng một dạ theo Chiếu Cần Vương cứu nước. Tôi về làng Văn Khúc với bác tôi và gia đình tôi ở Xuân Lôi tiếp tục chữa chạy vết thương, lành khỏi tôi lại tiếp tục lên Tiên Động theo Hiệp thống đại thần Nguyễn Quang Bích chiến đấu chống giặc Pháp đến cùng. Bây giờ, tôi có một đề nghị, việc tôi bị trọng thương, được những ai cứu chữa, bà con bí mật không cho ai biết, tránh sự tra khảo, truy lùng thì mọi người được bảo toàn.
Nói xong, Đốc Biêu cúi chào mọi người, ông Đỗ Tình và mấy người dân Hiền Đa rắn giỏi khỏe mạnh dìu Đốc Biêu ra phía ngoài bờ đê, đặt trên thuyền để ông Chánh Triều và mấy người đi đón bơi về Văn Khúc. Đốc Biêu từ lúc sống lại nhìn cái gì cũng thấy thân yêu, đây là cánh đồng Hiền Đa, tiếp đến là cánh đồng làng Tăng Châu, Chương Xá, Văn Khúc và đồng Trò làng Cát Trù đầu mùa lũ mênh mông nước. Kia là Rừng Già, là núi Đọi Đèn màu xanh ngăn ngắt. Quân Cần Vương đang đóng ở đó, đằng sau núi Đội Đèn là làng Xuân Lôi, mẹ già, vợ con mình đang sống chờ mong mình thắng giặc trở về.
Về xóm Lộc, làng Văn Khúc bà con họ hàng, láng giềng đến thăm rất đông. Ông Đội Thủ sang chơi thăm Đốc Biêu thông báo rằng, Vua Đồng Khánh ra chỉ dụ không tổ chức thi hội và các trường thi hương tạm nghỉ chờ các năm sau ổn định sẽ mở các khoa thi tiếp. Ông nói lại chuyện quan Tổng đốc Nguyễn Đình Gia đặt mộ bố mẹ vợ là ông Cao Văn Quản và bà Hoàng thị Miêu ở gần miếu Móng để cháu con dòng họ Cao sau này đỗ đạt, có người làm lương tướng, văn nhân nổi tiếng đất nước. Nhưng tiếc thay người con của ông là Cao Văn Hân có trí nhớ tuyệt vời, chữ tốt văn hay đã bị bọn côn đồ theo giặc đưa vào chân đồi giết chết đổ vạ cho nghĩa quân Cần Vương giết hại. Ông mong mỏi cháu Cao văn Biêu học giỏi, có chí, sẽ trở thành người có tài, thi đỗ có học vị cao. Ông đã cất công dậy dỗ, bồi dưỡng thêm để cho cháu đi thi cử nhân tại trường thi Hà Nội vào năm Bính Thân này. Nhưng bị quân thù bắt đưa đi đâu mất tích, cụ Chánh Triều có chạy đến các quan tỉnh nhưng chưa ai nhìn thấy, biết sống chết thế nào. Ông đau lòng nói:
- Nước mất thì nhà tan, chẳng ai còn yên và hạnh phúc nào nữa đâu! Triều đình chẳng còn thi cử gì. Cháu Đốc Biêu theo quan Hiệp thống Đại thần tưởng sẽ thành lương tướng ai ngờ bị thương nặng thế này, thì còn đi đánh giặc thế nào nữa. Thất tiếc, thật tiếc!
Ông ngồi mặt mày đượm buồn một lúc lâu mới nói tin:
- Các tỉnh, phủ, huyện, châu, làng tổng, nay Pháp và bọn tay sai đã lập bộ máy chính quyền như cũ. Ở huyện Cẩm Khê quan tri huyện Nguyễn Bá Tri đã trở về huyện đường trị nhậm. Các chánh tổng, lý trưởng các làng lên nắm quyền quản lý số đinh điền và lo thu thuế, tuyển lính, tuyển phu đúng kỳ. Thống đốc Pôn Be đã có lệnh cho phép mở chợ, mở đồn điền, khai thông tiền tệ. Nhưng đó là âm mưu thâm độc của giặc Pháp nhằm bao vây cô lập, làm yếu sức mạnh của nghĩa quân, tiến tới dốc toàn lực lượng đánh tiêu diệt.
Đốc Biêu nghe người chú họ nói lòng càng buồn. Việc thằng Biêu và thằng Kiều bị giặc bắt đưa đi mất tích, ông Chánh Triều chưa nói cho Đốc Biêu hay. Ở nhà thằng Biêu và thằng Kiều ra đình Văn Khúc học chữ Hán, cụ đồ Thư dạy, về qua đường Cập Kễnh bị bọn giặc phục kích bắt tra hỏi. Hai đứa khôn ngoan khai là con cháu Tiến sỹ Nguyễn Đình Gia cựu Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, bọn chúng đưa về thành Hưng Hóa lưu giữ. Quan đốc học có quen biết ông Chánh Triều đã cho về Hà Thành học tiếng Pháp. Hai đứa lại được một vị tiến sỹ quan triều người Sơn Tây nhận làm con nuôi, nên được cử sang Pháp học về phục vụ cho nhà nước Pháp.
Đốc Biêu nhìn ông Chánh Triều nói:
- Sao mà bác không nói cho cháu biết tin ngay?
- Chuyện ấy phải giữ bí mật, hơn nữa cháu đang bị thương nặng, biết rồi suy nghĩ ảnh hưởng đến sức khỏe. Việc đó bác đã lo, nghe tin hai đưa bị bắt đưa về thành Hưng Hóa, bác phải theo về ngay. Đích thân gặp quan bố chánh Bùi Quang Thích và quan đốc học Nguyễn Trung Kiểm từ chỗ quen biết với bác từ xưa. Hai ông nhận giúp đỡ sẽ gửi vào trường Pháp-Việt cho hai cháu học hành. Con người có học, hiểu biết tri thức văn hóa sẽ thương yêu giống nòi, rồi giác ngộ nhận ra giá trị độc lập dân tộc sẽ góp công sức cùng đồng bào mình đấu tranh tự giải phóng.
- Bác có lo rằng, bọn địch biết hai đứa là con cháu của nghĩa binh Cần Vương, chúng sẽ giết hại không?
- Hai đứa nhà mình khôn ngoan, lại được các quan người Việt chú ý đỡ đầu thì giặc Pháp không biết đâu. Bác đã gửi một số tiền chi phí thêm cho các quan đốc học rồi.
- Bác lo cho con cháu quá!
- Sống khỏe lúc nào thì lo cho con cháu lúc ấy. Mai sau chui vào áo quan thì đất trả vua, chùa trả bụt, con cháu nó tự lo lấy. Cháu cũng thế thôi, khỏe thì làm việc nghĩa, tàn tật thì về nhà lo cho gia đình, làng xóm. Đừng suy nghĩ nhiều mà sinh ra chán nản!
- Cháu cũng nghĩ thế!
- Nghĩ thế thì làm thế, bác sẽ tìm cách báo cho ông Đề Kiều biết, quan quân nắm được tin cháu còn sống thì mừng lắm đó.
Lúc đó bà Tèo mẹ của Đốc Biêu từ Xuân Lôi ra thăm. Nhìn thấy Đốc Biêu bà rất mừng nói với cả nhà:
- Thật là Trời Phật giúp thân già này rồi! Chính hôm nó bị trọng thương, tôi nằm mơ nhìn thấy nó máu me đầy mình, ba bốn thằng Tây tóm lấy chân tay nó kéo ra bờ sông Thao ném xuống dòng nước chảy xiết. Tôi đã hú lên thất thanh lao ra ngoài rừng, vợ con nó bừng tỉnh, dậy chu chéo khóc thảm thiết. Tôi chạy mãi chui vào rừng cây, trời tối om, vợ con nó phải chạy theo kéo về. Bây giờ nhìn thấy con còn sống trờ về mới thật hoàn hồn, các bác, các chú ạ.
Ông Chánh Triều nhìn bà Tèo vui mừng:
- Thế là phúc đức cho cả họ rồi! Bà ra chơi rồi cứ để cháu nó ở đây tôi nuôi, khi nào thật khỏe thì bà ra đón cháu về.
Bà Tèo tiếp lời:
- Ông bà lo con cháu thế là đủ rồi, cháu nó còn yếu nhưng đã nhúc nhắc đi lại được. Ông bà cho cháu về nhìn mặt thằng con mới sinh và gặp mấy đứa con nhỏ. Vợ con nó mong còn hơn ông với tôi mong cháu nó về đây.
Ông Chánh Triều thấy lời đề nghị phải lẽ, đành phải chiều lòng bà Tèo. Liền cắt cử người nhà đưa mẹ con Đốc Biêu về làng Xuân Lôi.
Mặc dù được người nhà chữa chạy đủ các loại thuốc men, Đốc Biêu không khỏi hẳn, chân vẫn đi khập khiễng, không cười ngựa mang súng cầm gươm được nữa, đành phải viết thư xin Hiệp thống Nguyễn Quang Bích cho xuất ngũ trở về nhà làm ruộng. Quan Hiệp thống nhận được thư biết được Đốc Biêu còn sống rất mừng, nhưng rất tiếc trong quân thiếu một vị chỉ huy có tài, trung thành, dũng cảm. Ông viết thư động viên, cho phép Đốc Biêu về nghỉ tại nhà cùng mọi người tham gia sản xuất làm ra lúa gạo ủng hộ nghĩa quân. Đề Kiều và Đốc Sơn thỉnh thoảng qua lại nhà thăm nom, sai quân giúp đỡ làm ruộng, đào ao thả cá, nuôi ong, nuôi dê, trâu bò. Lúc việc quân rỗi rãi, mấy người lại cùng nhau chuyện trò, tán gẫu, gần gũi như người còn trong quân ngũ, thân thiết như anh em ruột thịt.
*
Trên các mặt trận ven sông Thao, nghĩa quân Cần Vương hoạt động mạnh. Trên vùng Hạ Hòa, làng Xuân Áng, Lãnh binh Bùi Hữu Khanh đánh một trận phục kích địch càn quét trên đường vào Động Lâm, diệt 23 tên địch, thu được 18 khẩu súng. Tại đồn Ngòi Lao, quân ta tập kích đánh địch liên tục, diệt nhiều binh sỹ Pháp. Ở Chí Chủ, đội quân của Đốc Hậu đã tập kích quân Pháp hành quân qua Tiên Châu lên xóm Bến diệt 11 tên địch, thu 5 khẩu súng. Địch hành quân qua làng Hạ Mao, quân của Lãnh Cắng phục kích bắn chết tên quan hai và diệt hơn chục lính Âu Phi. Bên căn cứ Đầm Đen, cánh quân của Tán Dật làm chủ khắp vùng Tả ngạn sông Thao, bao gồm vùng đất đồi núi Hạ Hòa, Đoan Hùng, Trấn Yên. Vùng Sơn Vi, Lâm Thao, nghĩa binh của các làng Sơn Dương, Tứ Xã, Kinh Kệ vẫn hiệp lực cùng nhau chiến đấu. Đốc Kình, Đội Bốn tiếp tục giữ vững lực lượng, bám trụ, tiến quân địch ở nhiều vị trí xung yếu. Vùng nam huyện Cẩm Khê và vùng nam châu Yên Lập, nghĩa quân Cần Vương hoạt động mạnh, đánh phục kích nhiều trận làm cho quân Pháp đêm ngày ăn ngủ không yên. Vùng đất Ba Vì, Thanh Thủy, Thanh Sơn, và các châu, làng ven sông Đà thuộc đất Sơn La nghĩa quân của Đốc Ngữ vẫn làm chủ. Trên các châu, huyện miền núi phía bắc Hưng Hóa quân ta chủ động tiến công địch. Quân Pháp đến đóng đồn một vài nơi nhưng không kiểm soát được đất đai và dân cư.
Khi nhận được thư của thống tướng Pháp, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích từ chối ra đầu hàng. Pôn Be đã đi đến quyết định đánh Tiên Động và trấn áp các cuộc nổi dậy khác nghe theo Chiếu Cần Vương của Vua Hàm Nghi. Pôn Be nói với tướng Gia-me rằng:
- Để ổn định tình hình Việt Nam, bắt buộc quân Pháp phải ra quân tiêu diệt căn cứ Tiên Động. Phải coi đây là vị trí quan trọng nhất, vì ở đó có một vị Đại thần, một Chủ tướng nhiều uy thế, có vai trò chỉ huy, lãnh đạo, mang sức mạnh thu hút lực lượng kháng chiến nhất. Tiêu diệt được Tiên Động coi như sự nghiệp bình định của chúng ta ở Việt Nam được hoàn thành. Việc ra quân đánh Tiên Động không phải chỉ đánh chiếm vị trí chiến lược ấy mà phải tiêu diệt bằng được lực lượng của địch tại đây. Cần phải rút kinh nghiệm ở Thạch Sơn và Thanh Mai lần trước, lần này ra quân phải chắc thắng, không cho lũ giặc chạy thoát!
Tướng Gia-me quyết định đánh căn cứ Tiên Động với số quân 5000 tên, có đủ các binh chủng: thủy binh, pháo binh, bộ binh. Chia làm bốn cánh quân: cánh thứ nhất do Đại tá Sê-mi-nen (Cheminel) chỉ huy gồm 2000 quân hành quân từ Vũ Yển vượt sang sông Thao cho quân đổ bộ vào thôn Thổ Khối, cùng với 10 tàu chiến đánh chiếm các vị trí ven sông Thao, từ Phương Xá lên cửa ngòi Rành. Cánh quân thứ hai do Đại tá Pen-đu (Pendufc) chỉ huy quân từ đồn Bùng đánh chiếm làng Phùng Xá, cầu Lưu Phương, cho quân xây cầu mới, đưa pháo binh vượt qua cầu, bắn mạnh vào căn cứ Tiên Động. Lần ra quân này, pháo binh của Pháp phải tiêu diệt toàn bộ số pháo và súng thần công của cứ điểm Mỹ Lương, giúp cho lực lượng bộ binh của các cánh quân tiến công chiếm giữ Tiên Động. Cánh quân thứ ba do Trung tá Di-ni (Dinis) cho quân từ ngòi Lao đánh xuống, chiếm giữ các vị trí xung yếu ven sông Thao, cho quân chiếm lại các vị trí của nghĩa quân chiếm giữ từ gò Dọc, vào đến đồi Cỏ Rác. Điều quân phản kích chiếm bằng được những điểm cao, khống chế nghĩa quân, không cho người, thuyền vượt qua đầm Đào và chi viện cho các cánh quân khác. Gia-me cũng tính đến chuyện đánh vào hậu phương của Tiên Động là các làng Xuân An, Sơn Lương, Mỹ Lung. Y thành lập một các cánh quân thứ tư đánh chiếm các làng: Hưng Long, Xuân Thủy và Xuân Viên.
Ngày 10 tháng 6 năm 1886, khắp các vị trí quan trọng trên đất Áo Lộc, Hoàng Lương, Tiên Động, Tăng Xá, Minh Côi, Phương Xá tiếng súng trận rền vang. Tàu chiến của giặc Pháp bắn áp đảo các đồn tiền tiêu. Chúng cho quân bộ từ Vũ Yển vượt sông Thao đổ bộ lên thôn Thổ Khối thuộc làng Phương Xá. Cánh quân từ Phùng Xá kéo lên nhanh chóng chiếm cầu Lưu Phương, chúng cho lính công binh xây cầu kéo những khẩu pháo 90 ly sang bờ bắc chiếm lĩnh trận địa Phương Xá bắn sang Tiên Động.
Đội dân binh của Phó Tổng Đích không chống cự nổi đội quân bộ binh của Pháp đông đến hàng nghìn tên. Đội dân binh Phương Xá phải rút nhanh về ngòi Sa Cát. Quân địch đuổi đánh phải rút về bờ tây ngòi Vực Muối, lập phòng tuyến chặn địch. Các đội nghĩa binh của các làng Văn Bán, Tam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lãnh Hinh, Đốc Xù đã cùng dân binh Phương Xá đánh chặn địch, làm cho quân Pháp tiến quân vào đến bờ ngòi Vực Muối thì phải dừng lại.
Tại Đại bản doanh Tiên Động, quan Hiệp thống đại thần cử Tán Áo và con trai là Lãnh Hòa trở về làng tổng của mình trực tiếp chỉ huy. Lãnh Hòa cho người lên Tuyên Quang xin thêm 4 khẩu thần công của nghĩa binh giữ thành Tuyên Quang năm xưa mang ra rừng mang về lập trận địa giữ làng.
Khi chiến sự nổ ra, hàng ngàn quân địch từ các cánh quân 1 và 2 chúng tiến vào làng Áo Lộc đốt nhà, dồn đánh dân binh. Trước sức mạnh của quân Pháp, dân binh làng Áo Lộc phải rút sang thôn Thủy Trầm cùng với đạo Hữu quân chống giữ không cho chúng tiến vào Thủy Trầm, Hoàng Lương. Dựa vào địa hình gò đồi đầm nước, các đội nghĩa binh, dân binh đã chặn được các đợt xung phong của giặc Tây.
Cánh quân thứ ba do Gia-me trực tiếp chỉ huy, chúng đã đánh chiếm gò Dọc. Pháo địch từ đồn Ngòi Lao câu về làm sập ngôi chùa cổ kính do người Minh Côi xây cất, thờ phụng. Hơn 70 tay súng của đạo Tả quân chốt giữ ở đây đã hy sinh anh dũng. Khi giặc Pháp từ hai hướng bắc và nam cùng tiến công. Khoảng 2 giờ chiều ngày 12 tháng 6, năm 1886 giặc Tây chiếm được gò Dọc, chúng cho quân cắm cờ Pháp lên đỉnh đồi. Đặt pháo bắn áp chế các trận địa trung tâm khu Tiên Động, đồn Cỏ Rác và cho tầu chiến theo ngòi Rành tiến đánh thôn Mỹ Lương.
Tại thôn Mỹ Lương, đơn vị pháo binh của Lê Văn Tấn bắn pháo và súng thần công chặn địch. Từ tiểu đồn Áo lộc, súng thần công của Đốc Nhì và Lãnh Hòa cũng bắt đầu khai hỏa. Nhiều quả đạn pháo, đạn thần công đã bắn trúng quân địch ở gò Dọc, ở thôn Thổ Khối tiêu diệt được nhiều tên. Thấy ta có pháo và súng thần công, chúng phải cho tàu chiến rút ra sông Thao và cho thu quân về củng cố trận địa. Chúng thấy cần phải tiêu diệt trận địa pháo, súng thần công của ta, chúng gọi pháo từ trận địa Phương Xá, Ngòi Lao, đồi gò Dọc bắn tới tập vào trận địa pháo, trận địa súng thần công và các vị trí đóng quân của ta bên bờ ngòi Rành và trong làng Áo Lộc.
Gia-me ra lệnh cho các đơn vị pháo binh bắn liên hồi vào thôn Mỹ Lương, vào làng Áo Lộc nhằm khống chế pháo và súng thần công của nghĩa quân, đánh vào chỉ huy đạo Tiền quân rồi cho đám quân bộ binh tiến thẳng vào bờ đông nam ngòi Rành. Pháo địch nổ dồn dập như đánh trống, hàng trăm quả đạn bắn vào thôn Mỹ Lương nổ ầm ấm, khói đen bốc lên mù mịt. Quân bộ binh địch theo đường bờ ngòi Rành tiến vào Mỹ Lương và làng Hoàng Lương. Chúng phải dầm mình vận động trong những đám ruộng lầy ngập nước mà vẫn không sao tiến vào được. Nghĩa quân đã có hầm hào tránh đạn, dùng súng nhằm bắn tỉa tiêu diệt những tên địch liều lĩnh lội vào. Hàng chục tên địch bị bắn chết trên đồng, xác nổi lên trôi bấp bềnh trên mặt nước.
Trong khi ấy, nghĩa quân bị giặc đánh bật khỏi các vị trí tiền tiêu bên bờ sông Thao. Biết không thể giữ được, Hiệp thống đại thần ra lệnh cho quân sỹ rút vào phía trong phòng tuyến ngòi Rành. Quân sỹ dùng các thuyền nhỏ, ban đêm bơi qua đầm nước rút nhanh vào tuyến trong. Bọn địch đã chiếm được làng Tăng Xá thuộc tổng Áo Lộc, chiếm được các vị trí đóng quân suốt dọc sông Thao. Nhưng chúng không thấy một khẩu súng, một người lính bị thương, thậm chí một xác binh sỹ nào. Họ đã bí mật mai táng, đem theo tất cả những thứ cần thiết, không để lại một dấu vết gì. Tên quan hai Mô-ri-a ( Moreau) chỉ huy một đơn vị bộ binh Pháp đã nói với binh sỹ của họ:
- Nghĩa quân Tiên Động là đội quân tinh nhuệ có tính kỷ luật cao. Chúng ta không thể tiêu diệt được ý chí sắt đá của họ cho rằng chúng ta đông và mạnh hơn họ rất nhiều lần. Tướng sỹ của họ bền bỉ, ngoan cường, thông minh, chúng ta có thể thắng họ trận này nhưng không thể thắng trận sau.
Tướng Gia-me ra lệnh cho quân Pháp đóng đồn chiếm cứ những vị trí vừa mới chiếm được. Dọc theo bờ đê sông Thao chúng chốt lại nhiều vị trí tại các làng Phương Xá, Thổ Khối, Tăng Xá, Minh Côi. Chúng tháo dỡ các nhà dân, đình đền, chùa chiền làm đồn trại. Quân Pháp có ý định chiếm đóng lâu dài, chúng xây nhà thờ đạo Thiên Chúa tại Dư Bơ, làng Ngô Xá thuộc tổng Áo Lộc để binh lính và dân theo đạo có nơi thờ Chúa và cầu nguyện. Chúng còn bắt những người dân theo Phật giáo theo Công giáo, nhiều người dân lúc đầu còn sợ sệt, sau được yên thân, có gạo mà ăn nên theo càng nhiều. Tín ngưỡng là một nhu cầu tâm linh của con người, người ta dễ làm quen với sinh hoạt tôn giáo và dần dần xuất hiện đức tin và thành người Công giáo thực thụ.
Quân Pháp hàng ngày tiếp tục mở các cuộc tiến công điên cuồng vào Tiên Động nhưng gặp phải địa hình đồi núi, xen lẫn đồng nước ngập ngụa. Chúng gặp phải sự chống cự quyết liệt của một đội quân thiện chiến. Với vũ khí chiếm được cộng với vũ khí tự tạo được huấn luyện chiến thuật điêu luyện, nên bắn rất trúng, dùng dao, dùng gươm rất tài tình. Chỉ cần một viên đạn có thể nhắm bắn xuyên táo hai ba binh lính Pháp. Đánh giáp lá cà họ nhanh hơn mãnh thú, một người có thể giết chết ba bốn tên lính Âu Phi mà họ không bị bắn chết hoặc bị thương. Họ đi rất nhanh trong rừng cây, lội rất nhanh qua sông, qua ngòi, qua đồng nước.
Tên Đại tá Se-mi-lơ chỉ huy cánh quân đánh vào làng Áo Lộc đã phải thốt lên:
- Trời ơi, khó khăn quá! Chúng ta không thể chiếm đất này. Chỉ có một cách là rút quân thôi! Tiến công một đối tượng mà họ hoàn toàn có thể dựa vào địa hình hiểm trở đánh trả. Chúng ta chỉ có chết và bị thương mà họ thì không mảy may suy xuyển gì.
Hắn cũng nói với Gia-me như vậy. Gia -me thấy sức tiến công của quân Pháp đã cạn kiệt. Cả ba cánh quân trực tiệp đánh vào căn cứ Tiên Động đã bị suy giám lực lượng rất nhiều. Hơn hai tháng hành quân tác chiến, có tuần quân Pháp đã tổ chức tiến công 3 hoặc 4 đợt, trung bình cả tháng đến 13 lượt nhằm tiến vào trung tâm bắt sống, tiêu diệt chỉ huy đầu não của nghĩa quân, nhưng đều không thực hiện được. Cánh quân xuất phát từ Sơn Tây lên Thục Luyện, vào châu Yên Lập cũng phải dừng ở Ngọc Lập, không thể tiến vào Hưng Long vì bị chặn đánh liên tục, gây ra thương vong rất nhiều cho binh sỹ Pháp.
Kế hoạch tiến công tiêu diệt Tiên Động lần thứ nhất phải dừng lại. Thống đốc Pôn Be từ Huế ra Hà Nội, nghe tướng Gia-mông chỉ huy quân Pháp tại Bắc Kỳ báo cáo cuộc hành binh đã thất bại thảm hại, phải cho ngừng cuộc tiến công vào Tiên Động, quay về tập trung trấn áp các lực lượng nổi dậy ở Bãi Sậy, Hưng Yên; Ba Đình, Thanh Hóa và Yên Thế, Bắc Giang. Lực lượng chủ lực Pháp phải phân tán đi trấn áp nhiều nơi. Pôn Be ra lệnh cho Gia-me cho lui quân về thành Hưng Hóa và Sơn Tây, cho một bộ phận quân ở lại đồn trú tại các làng Phùng Xá, Phương Xá, Tăng Xá, Ngô Xá, Minh Côi làm nhiệm vụ bao vây chặn đường tiếp lương vào Tiên Động.
Gia-me cử thiếu tá Béc-căng (Bercand), phó chỉ huy cánh quân thứ 3 ở lại chỉ huy các cụm quân. Để lại một tiểu đoàn pháo binh với 15 khẩu pháo, một liên đội thủy quân gồm 10 chiếc tàu chiến kiểm soát giao thông, sự đi lại của người dân trên sông Thao, ngăn cấm vận chuyển lương thực tiếp tế cho nghĩa quân. Sẵn sàng chờ lệnh tiến công vào Tiên Động, làm tiếp nhiệm vụ đánh phá căn cứ, tiêu diệt lực lượng chủ lực của nghĩa quân, bắt sống các chỉ huy căn cứ, xóa đi một vết loang đen trên bản đồ quân sự Pháp.
Rút kinh nghiệm các cuộc tiến công lần trước, Béc-căng nhận thấy không thể ồ ạt tiến công quân địch. Đối phương chỉ toàn những đội quân nhỏ khoảng một tiểu đội đủ 12 đến 15 người, hay một trung đội 25 đến 30 người. Nay quân Pháp cũng phải phiên chế thành những đội quân nhỏ tương đương, trang bị súng trường đối chọi với từng lực lượng nhỏ của Tiên Đông được phiên chế thành đội quân. Hắn cho thành lập những đội biệt kích đánh thọc sâu, vu hồi. Đường xá không biết cần phải có người địa phương chỉ đường, dẫn đường. Chúng lợi dụng những người dân theo Công giáo hiền lành, ngoan đạo trong vùng, nhưng nghĩa quân bỏ ngũ, đảo ngũ làm hậu thuẫn cho quân Pháp bắt bớ những người dân nghi ngờ có sự tiếp tế, đi lại, quan hệ làm nội ứng, tìm đường và dụ dỗ bọn phản phúc chỉ cho cách đánh vào Tiên Động.
Béc-căng thận trọng trong từng cách đánh, chủ yếu cho quân cụm lại, chốt bám suốt từ Phùng Xá lên Minh Côi. Hắn cho quân điều nghiên, tìm người chỉ dẫn nắm chắc địa hình. Tên Lê Đình Nhạn trong đạo Tả quân bị bắt không chịu được tra tấn, tham sống sợ chết nhận làm tay sai cho Pháp. Chúng đưa Nhạn về đồn Ngòi Lao nuôi dưỡng và hàng ngày chỉ cho chúng cách đánh vào Tiên Động. Nhạn trở thành tên tay sai đắc lực cho giặc, được quân Pháp cấp lương cao bổng hậu nên Nhạn càng điên cuồng tìm cách đánh phá Tiên Động.
*
Sau hai ngày quân Pháp ngừng tiến công vào Tiên Động, Hiệp thống đại thần cho họp chỉ huy từ cấp đội trở lên. Tại Hội trường Đại Bản doanh, Phó Chỉ huy căn cứ Khê Ông báo cáo về những thắng lợi và tổn thất của nghĩa quân:
- Trong hơn 2 tháng giặc Pháp tiến công Tiên Động với lực lượng trên 5000 quân bộ binh, pháo binh và thủy binh. Trung bình mỗi tháng chúng tổ chức 13 cuộc tiến công, tướng sỹ ta vẫn giữ vững căn cứ, tiêu diệt hơn 300 tên địch, làm bị thương hàng trăm tên khác. Đó là thắng lợi to lớn mà quan quân vừa lập nên. Nhưng chúng ta đã phải trả giá vì tổn thất, về chỉ huy các đạo có 4 người bị thương vong. Trước ngày quân Pháp tiến công vào Tiên Động, Đốc Biêu bị thương nặng khi tập kích đồn Bùng, phải cho xuất ngũ. Đốc Học hy sinh cùng 120 quân sỹ cảm tử quyết giữ gò Dọc. Đốc Nhì bị pháo địch bắn trúng và hy sinh tại Ngô Xá. Đốc Tiến hy sinh tại thôn Mỹ Lương cũng vì trúng trọng pháo, 23 binh sỹ bảo vệ phòng tuyến phía đông bắc hy sinh tại làng Tăng Xá, 85 binh sỹ binh sỹ bảo vệ phòng tuyến phía đông nam hy sinh trên đất Áo Lộc và Phương Xá. Cộng với 22 binh sỹ đạo Hậu quân tập kích đồn Bùng bị hy sinh. Như vậy, phía ta có tới 256 binh sỹ bị hy sinh và 110 người bị thương, một phần ba lực lượng của ta bị loại khỏi vòng chiến đấu. Hiện nay, quân ta đã mất các trận địa chốt giữ ven bờ sông Thao. Phía bắc căn cứ, quân địch đã chiếm được một nửa phòng tuyến, khống chế con đường của quân ta sang đầm Đào. Tại trận địa phía đông nam, địch xây cầu Lưu Phương đưa pháo sang phía bắc, chiếm làng Phương Xá, thôn Dư Bơ, làng Ngô Xá đẩy dân binh Áo Lộc và đạo hữu quân về phía ngòi Muối, thôn Thủy Trầm và về phòng tuyến ngòi Rành. Trận địa súng thần công ở tiểu đồn Áo Lộc đã bắn hết đạn, bỏ súng theo đạo hữu quân rút về phía ngòi Rành.
Khi Khê Ông ngừng lời, Đề Hoan đứng lên xúc động nói:
- Qua hơn hai tháng chiến đấu tinh thần và ý chí của quân ta được củng cố. Các đạo quân: Tiền quân, Tả quân, Hữu quân đã được thử sức qua chiến đấu trực tiếp với quân Pháp ác liệt hơn nhiều. Chúng ta chiến đấu trong hoàn cảnh mới, tình thế mới không phải trong thành trì bờ cao, hào sâu như thành Hưng Hóa, Sơn Tây mà trong chiến tuyến tự tạo. Thế trận của ta trụ vững trước sức mạnh tiến công của hàng nghìn quân Pháp ròng rã hàng tháng trời thực sự là một kỳ công mới của quân ta. Quân Pháp dùng một lực lượng quân lớn, bao vây tiến công ta trong nhiều ngày mà phải chịu thất bại, chết và bị thương hàng trăm binh sỹ, không chịu được nữa phải rút quân về. Nhưng trong chiến đấu ác liệt chúng ta chịu nhiều tổn thất, đã có kẻ dao động ra đầu thú, đầu hàng nhận làm tay sai cho giặc như trường hợp Nguyễn Văn Cỏn và Lê Đình Nhạn. Bọn chúng gây ra những vụ thảm sát rất dã man gây mất mát đau thương cho quân dân ta. Cho nên toàn quân dân phải nâng cao cảnh giác, đề phòng sự đầu hàng, phản bội ngay trong hàng ngũ.
Đề Kiều, Chỉ huy phó tiếp lời Đề Hoan:
- Việc đánh giặc đã diễn ra hơn hai tháng qua, chúng ta giành được thắng lợi là do chuẩn bị tốt về hậu cần. Quân dân ta đã không bị cái đói, cái rét làm nản lòng. Vùng hậu phương của ta vẫn cung cấp đầy đủ lúa gạo, vũ khí. Đội quân hậu cần của ta đã được mở rộng có đủ các phương tiện tiếp tế. Khi chiến sự xảy ra đã đảm bảo được bữa ăn hàng ngày, có quần áo đề thay, có chỗ để nghỉ ngơi. Để giữ vững căn cứ Tiên Động, chúng ta cần phải mở rộng vùng hậu phương sang các châu, huyện miền núi Tây Bắc nước ta. Bọn giặc Pháp chưa chịu thua đâu, chúng còn đánh tiếp, ta cần chuẩn bị tốt về mặt quân lương, vũ khí để có thể kháng chiến được lâu dài và đánh thắng địch trong mọi tình thế.
Tuy vậy, nhiều ý kiến phê phán các cấp chỉ huy chưa có quyết định chính xác, chắc chắn nên để binh sỹ hy sinh nhiều. Đội phó Nguyễn Đức Liên có ý kiến:
- Khi biết lực lượng địch phản công đánh chiếm gò Dọc, trong tương quan lực lượng ta không thể giữ nổi, thì Chỉ huy đạo Tả quân phải cho binh sỹ rút đề bảo toàn sinh mạng. Để hơn một trăm hai mươi binh sỹ phải chiến đấu đến cùng không có đường rút lui, hy sinh hết là không nên. Mặc dù anh em binh sỹ của ta chiến đấu anh dũng đến hơi thở cuối cùng và đã hy sinh oanh liệt.
Chỉ huy đạo Hậu quân, Đốc binh Hoàng Nhân đứng lên phê phán:
- Chúng ta phải rút kinh nghiệm trận đánh đồn Bùng. Đốc Biêu có quyết định táo bạo đánh chiếm trận địa thu pháo địch, nhưng vì lực lượng của ta quá ít đã không giữ được. Cho nên phải chuẩn bị đủ lực lượng, phải điều nghiên kỹ để tránh các yếu tố bất ngờ. Ví dụ địch phản kích phải có đủ quân để giữ, không để cho quân địch chiếm lại, giết hại anh em.
Phó Đốc binh Lê Thám có ý kiến:
- Kiểu thế trận phòng thủ là không phát huy sức mạnh của cuộc chiến tranh chống Pháp xâm lược. Nước ta ba phần tư là đồi núi, chúng ta nên tản quân ra, vận động nhân dân cùng chiếm giữ. Quan quân cũng phải tản ra, phân cấp mà chỉ huy đánh giữ chỗ nào chắc chỗ ấy. Chọn ba bốn nơi làm hành dinh, địch đánh chỗ này mạnh ta chuyển chỗ khác. Cốt giữ được đất, được dân, được quân. Khắp núi rừng là trận địa, khắp làng thôn, xóm bản là thành lũy thì địch không thắng nổi. Khi nào có thời cơ, quân dân các vùng hợp sức nhau lại quét sạch lũ giặc hôi tanh đi. Chứ hiện nay chúng ta thu quân lại lập căn cứ phòng thủ như kiểu Thanh Mai, Tiên Động cho địch biết chủ động kéo quân tìm đến đánh thì khó giữ lắm.
Những ý kiến bàn bạc, rút kinh nghiêm của tướng sỹ về trận đánh vừa qua, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích nghe hiểu hết, ông có lời kết luận:
- Trận chiến lần đấu của quân Pháp đánh vào Tiên Động kết thúc, quân ta đã thắng và quân Pháp đã thua. Chúng ta đã giữ được căn cứ, nhưng tổn thất cũng nhiều, mất mát rất lớn. Lòng tôi rất đau đớn, xót xa, thương cảm vô cùng! Anh em đã bàn rút kinh nghiệm, có nhiều ý kiến rất hay. Tôi xin tiếp thu ý kiến của anh em, chờ dịp thực hiện. Hiện nay quan quân Tiên Động là lực lượng chủ yếu chống Pháp ở nước ta cần phải được bảo vệ. Phong trào Cần Vương đang lấy chúng ta làm nòng cốt để phát triển lên.Tôi mong mỏi tướng sỹ hãy bền gan vững chí chiến đấu đến cùng, tin tưởng sự nghiệp chống Pháp của chúng ta là chính nghĩa nhất định đi đến thắng lợi. Nhưng hiện nay, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tướng sỹ phải luôn cảnh giác đề phòng âm mưu thâm độc của kẻ địch đánh phá từ bên trong, phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống. Chúng ta phải luôn noi gương anh em mình, những anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì nước vì dân!
Hiệp thống Nguyễn Quang Bích dừng lời, thì thấy quan Thông sứ Phan Đức Huy từ Quảng Bình ra vừa đến. Ông mừng rỡ chạy lại ôm chặt lấy viên thông sứ như người anh em ở xa về. Viên thông sứ tươi cười giơ tay chào tất cả các tướng sỹ và và đi xuống bắt tay từng người. Hiệp thống cũng giơ tay ra hiệu tạm biệt hội nghị trở về nơi làm việc để tiếp quan thông sứ.
Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp thay Hiệp thống đại thần tiếp tục duy trì hội nghị bàn tiếp về những vấn đề mới, ý kiến mới. Cuối cùng, tướng sỹ nghe Chỉ huy phó Khê Ông phân công lại người chỉ huy các đạo, các đội thay thế những người hy sinh, người bị thương trong thời gian vừa qua.
Bữa trưa, tướng sỹ dự họp cùng ăn bữa cơm tại Đại bản doanh. Viên Thông sứ Phan Đức Huy cùng dự, thông báo về Vua Hàm Nghi và Đại tướng, Nguyên nhung Tôn Thất Thuyết nhận được sắc phong, văn bản ngoại giao, ngợi khen về thành công của chuyến đi sứ nhà Thanh của quan Hiệp thống đại thần Nguyễn Quang Bích. Đức vua và Đại tướng, Nguyên nhung có gửi lời thăm hỏi sức khỏe và chúc tướng sỹ Tiên Động thực hiện thật tốt Chiếu Cần Vương và mong mọi người lập nhiều chiến công dâng lên Thiên tử!
Đêm đến, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích và quan Thông sứ ngồi thì thầm nói chuyện rất lâu. Thỉnh thoảng có những loạt đại bác từ đồn Thổ Khối, Phương Xá, từ đồn Gò Dọc, Minh Côi bắn vào căn cứ nổ ùng oàng. Mấy người lính vệ binh yêu cầu mọi người xuống hầm, nhưng Hiệp thống đại thần bảo không cần. Ngài bình thản nói với người vệ binh đứng gần:
- Cứ đế chúng nó bắn! Ta ở thế cao, đại bác chúng nó bắn gần không trúng được đâu. Cho chúng nó bắn suốt đêm đấy! Chỉ có mà phí đạn, phí đạn!
Mấy người lính nghe Hiệp thống nói tự nhiên cười vang, viên Thông sứ cũng bật cười. Họ nhìn thấy ánh mắt của Hiệp thống rất vui liếc nhìn ra phía xa có những đường đạn sáng chói, nhì nhằng vạch ngang trời Tiên Động.