Tại Đại bản doanh Tiên Động, Lãnh Mai và Đề Kiều ngồi bàn bạc. Nếu giặc Pháp đánh Tiên Động lần nữa thì làm thế nào khi Hiệp thống và Hiệp đốc đi vắng? Lãnh Mai trình bày ý kiến của mình:
- Bây giờ quân Pháp đang bao vây, kiểm soát rất chặt, không để quân ta liên lạc với các cánh quân khởi nghĩa phía đông. Nên ta phải phá thế bao vây, không đề bị cô lập mãi rất nguy hiểm! Vậy, tôi phải sang Lang Sơn bàn với Tán Dật và các lãnh binh, đốc binh khác trong vùng đem quân đánh các đồn giặc dọc hai bờ sông Thao, làm như thế mới có thể giữ được Tiên Động.
- Đi bằng cách nào, khi mà giặc Pháp đã cho quân vây kín Tiên Động cả ba phía?
- Đề Kiều ạ, tôi sẽ có cách. Đem một đội quân nhỏ đi ra bằng con đường núi Cháy sang núi Am, tới núi Nẻ, Vô Tranh rẽ sang núi Ông, Xuân Áng gặp các ông lãnh binh huyện Hạ Hòa; trước hết là Lãnh Khanh, Lãnh Đa bàn đưa quân đi tập kích các đồn Pháp ở phía bắc Tiên Động. Tìm cách vượt sông Thao để gặp các chỉ huy căn cứ bên bở tả sông Thao cùng động binh. Ở bờ hữu sông Thao ông cho người gặp Đốc Xù, Lãnh Hinh ở Văn Bán, Đốc Sơn ở Rừng Già cùng ra quân đánh mạnh các đồn phía nam Tiên Động, trong huyện Cẩm Khê, Tam Nông. Chỉ trong một thời gian ngắn, buộc địch phải cho rút quân, ta tránh được một cuộc tiến công thứ hai vào Tiên Động.
- Làm được như vậy thì rất tốt. Khi các ông Hiệp thống, Hiệp đốc đi vắng, hai chúng ta toàn quyền chỉ huy căn cứ Tiên Động không những giữ mà còn phá được thế bao vây. Tôi ở lại giữ, còn anh đi phá vây trong một thời gian ngắn mà làm được cả hai việc đó cũng là kỳ tích.
- Đúng là thế. Đề Kiều ở nhà cho quân bám chắc quân địch ở Minh Côi, Tăng Xá, Áo Lộc, Ngô Xá, Phương Xá; các vị trí địch gần kề với Tiên Động. Anh phải đốc quân bảo vệ cho thật tốt phòng tuyến ngòi Rành, ngòi Vực Muối, Mỹ Lương, đầm Đào, đồi Cỏ Rác. Hướng địch từ Tăng Xá, Ngô Xá đánh vào, từ Minh Côi đánh sang là hướng chính phải chặn được. Đồng thời phải ngăn ngừa quân địch đánh chiếm các vùng núi Quế Sơn và Mộ Xuân phía bắc châu Yên Lập nhằm bao vây kín đất Tiên Động thì rất nguy hiểm. Không có đường để quân ta ra, không có đường cho hai vị chỉ huy quân ta trở về đâu.
Lãnh Mai ngồi nghĩ một lúc mới hỏi thêm:
- Vấn đề bảo đảm quân lương, vũ khí thế nào?
- Vẫn được bảo đảm. Nếu giặc Pháp chỉ tiến công ở hướng chính diện từ bờ sông Thao vào, từ Minh Côi xuống, từ Phương Xá lên thì không đáng ngại. Còn địch mà đánh vào hướng sau lưng, từ Ngọc Lập lên Mộ Xuân lên, từ Vô Tranh sang làng Sơn Lương, Quế Sơn thì rất khó cho ta đấy. Hiện nay phần lớn đạo Hậu quân đã được bố trí ra hướng đó bảo vệ. Đàn voi, ngựa, trâu bò chuyên chở quân lương vẫn ngày đêm vận chuyển cung cấp đủ lương thực và vũ khí cho quânTiên Động.
- Các tuyến đường vận chuyển còn hoạt động không?- Lãnh Mai hỏi nhỏ.
- Tất cả các tuyến đường đều hoạt động bình thường. Tuyến 1, do Đốc binh Triệu Thị Vân phụ trách làm rất tốt, chuyển Lương từ Yên Lãng lên Sơn Hùng và từ bên Địch Quả lên Đông Lỗ. Tuyến 2 do Đốc binh Hà Thị Khiêm chuyển lương từ Sơn Hùng và Đông Lỗ lên kho Bến Cổi. Tuyến 3 do Đốc binh Lê Thị Lan chuyển lương từ bờ sông Thao, bí mật chuyển từ các bến Động Lâm, Chuế Lưu, qua đất Xuân Áng, Vô Tranh, Mỹ Lung, Sơn Lương đến Bến Cổi. Còn từ Bến Cổi chuyển lương vào Tiên Động theo ngòi Rành thì Đạo Hậu quân đảm nhiệm.
Lãnh Mai nghe thấy các cô làm chỉ huy những cánh quân chuyển lương toàn là con gái rất ngỡ ngàng và khen:
- Con gái vùng Thượng du ta bây giờ giỏi quá! Tham gia làm việc binh chẳng khác thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Công việc rất gian nan vất vả, nguy hiểm thế, phải chú ý quan tâm giúp đỡ họ!
- Còn nhiều khó khăn lắm, Lãnh Mai ạ. Trong cuộc chiến đấu sắp tới, tôi lo chị em ta ở đó có thể phải hy sinh rất nhiều!- Đề Kiều nói và nhìn ra phía trời xa vẻ lo lắng.
- Những người phụ nữ làm nhiệm vụ chuyển lương cho quân ta, xuất hiện từ bào giờ vậy?- Lãnh Mai hỏi.
- Các cô Lan, cô Khiêm, cô Vân thì tham gia từ đầu cùng với đạo hậu quân làm nhiệm vụ cung cấp quân lương. Khi chiến sự xảy ra ác liệt, nghĩa binh ta hy sinh nhiều, nên phải chuyển số quân làm hậu cần là đàn ông ra chiến tuyến, động viên các cô ở các làng bản ra vận chuyển lương. Lực lượng ngày một đông, có đến hàng trăm cô gái là người Kinh, Tày, Mường, Dao, Miêu tham gia. Để có người trực tiếp chỉ huy đội quân này, Hiệp thống đại thần đã phong cho các cô ấy làm đốc binh, trực tiếp chỉ huy. Tôi cũng không nắm được cụ thể thế nào, nhưng mà việc chuyển lương, chuyển vũ khí về Tiên Động rất kịp thời.
Lãnh Mai ngồi lắng nghe rồi nói:
- Để sau này, tôi sẽ vào Yên Lập, Thanh Sơn tìm hiểu thêm về đội quân phụ nữ này. Chúng ta muốn mạnh phải có nhân dân giúp đỡ, có nhiều phụ nữ tham gia việc quân, việc phục quốc, thì công cuộc kháng chiến của chúng ta sẽ mau chóng thành công.
Lãnh Mai ngồi như đang suy nghĩ về vấn đề gì đó rất sâu xa, rổi hỏi:
- Các xưởng rèn đúc, sửa chữa vũ khí của ta hoạt động thế nào?
- Tất cả các xưởng của ta vẫn hoạt động bình thường, chế tạo được tạc đạn, các loại thủ pháo, súng hỏa mai để đánh chặn, đánh đồn và đánh phục kích. Người con trai của cụ Tán tương quân vụ Hà Công Cấn là Hiệp quản Hà Công Đính đang phụ trách công việc khó khăn này đấy.
Lãnh Mai nghe, định hỏi thêm nhưng lại quay sang vấn đề khác:
- Việc cướp vũ khí địch nên là việc làm thường xuyên, nhưng phải chắc ăn mới đánh. Như Đốc Biêu muốn cướp cả trận đia pháo địch về cho quân ta là tốt, nhưng phải chuẩn bị kỹ hãy làm, phưu lưu như trận đánh đồn Bùng thì hại quân, hại tướng!
Đề Kiều như muốn đề cao cách đánh của Đốc Biêu, nói:
- Phải táo bạo, bất ngờ tiến công địch như kiểu Đốc Biêu đã làm. Nên chú ý các tình huống về thời gian, địa hình, thời tiết, quân lực của ta, của địch. Ngày còn tại ngũ, Đốc Biêu thường nói với tôi, dùng đoản binh thì nên đánh vào ban đêm hoặc đánh gần như phục kích, tập kích là tốt nhất.
- Bây giờ rất cần đến những chỉ huy, binh sỹ quả cảm để mà đánh gần, bám địch mà đánh, ham đánh, đánh liên tục, không cho địch kịp trở tay thì thắng.
Ngừng nói một lát như nhớ ra điều gì đó rất hệ trọng, Lãnh Mai hỏi:
- Đề Kiều có biết những người quê ở Tiên Động, Hoàng Lương trong quân ngũ của ta không?
- Tôi nắm được và biết khá rõ về họ. Phần lớn là hào lý và dân binh theo nghĩa quân, từ khi quân ta ở làng Sơn Bình chuyển về đây. Họ mới được phong chức sắc, hồi quan quân ta theo Chiếu Cần Vương. Tiên Động có Lãnh binh Nguyễn Gia Hè, tức Lãnh Khóa; Lãnh binh Nguyễn Bá Tín tức Lãnh Hường; Lãnh binh Nguyễn Văn Vượng tức Lãnh Ngữ. Các ông đốc có Nguyễn Gia Đông tức Đốc Đông; Nguyễn Văn Ngọ tức Đốc Lục; các ông đội có Trần Danh Vĩ tức Đội Vĩ, Trần Bá Huân tức Đội Huân. Bên Hoàng Lương có Lãnh binh Nguyễn Văn Bồi tức Lãnh Cát; ông Nguyễn Văn Bớt tức Đội Bớt; ông Nguyễn Văn Trừng tức Đội Trừng và hơn một trăm nghĩa binh của hai làng. Họ chiến đấu rất dũng cảm, các trận vừa rồi chưa một người nào bị thương vong.
- Rất tốt. Nhưng mà khi quân ta rút lên Mường Lò, Văn Chấn thì nên để lại số nghĩa binh này hoạt động tại đây. Chỉ đem theo số lãnh binh, đốc binh, đội binh nào cần thiết, vì họ ở lại tiếp tục giữ đất Tiên Động làm địa bàn chiến lược để từ đất Văn Chấn có đường đi về Tiên Động mà ra sông Thao và đi đến các nơi khác.
Lãnh Mai nói xong nhìn ra phía tràn đồi gò Dọc, một vị trí quan trọng ven bờ sông Thao vừa bị giặc Pháp đánh chiếm. Ông nói về điều vừa linh cảm thấy:
- Số anh em ở tràn đồi gò Dọc kia, phần lớn là anh em nghĩa binh của Thanh Mai vừa bị hy sinh trong trận đánh ngày 12 tháng 6 vừa qua. Lý do chính là ta mất cảnh giác, phòng thủ không tốt, địch mới chiếm được. Ở nhà, Đề Kiều nhớ phải chú ý đến đồi Cỏ Rác phía bên trong đầm Đào thuộc Minh Côi và con đường độc đạo từ Minh Côi sang Tiên Động. Tên Lê Đình Nhạn viên đội của đạo Tả quân đã ra đầu thú, nó biết đường đi lối lại, có thể dẫn giặc Tây đánh úp quân ta tại đồi Cỏ Rác, đánh vào đồn Gò Mai và đồn Hàm Rồng và tiến ra đánh quân ta ở cứ điểm Mỹ Lương. Một mũi thủy quân của địch tiến theo cửa ngòi Rành, đến ngòi Mực tiến vào đầm Đào, cô lập quân ta ở Mỹ Lương. Bên xóm Mạn Lạn địch sẽ cho quân đánh chiếm cầu Cây Thông tiến vào làng Hoàng Lương. Lúc ấy, quân ta ở căn cứ Tiên Động sẽ nguy đấy.
Đề Kiều nghe lãnh Mai cho là rất phải, liền cử người ra chiếm giữ các vị trí mà Lãnh Mại vừa nói. Nhắc nhở các vị đốc binh của các đạo Tiền quân, Tả quân, Hữu quân, Trung quân cảnh giác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu để giữ căn cứ Tiên Động.
Hôm sau, Lãnh Mai từ biệt Đề Kiều đi vào trong núi Cháy ra làng Minh Côi sang làng Văn Lang gặp Lãnh Đa và sau đó đến làng Xuân Áng gặp Lãnh Khanh. Các ông bàn đánh địch ở đồn cửa Ngòi Lao, đồn Vô Tranh và đồn địch ở Chuế Lưu, Động Lâm.
Tên Thiếu tá Béc-căng đã cho quân đóng chốt ở những vị trí hiểm yếu. Đồn Ngòi Lao lập ra để ngăn chặn sự tiệp viện cho nghĩa quân từ phía bắc Tiên Động, làm bàn đạp tiến công các vị trí tiền tiêu của căn cứ Tiên Động. Đồn Vô Tranh ngăn ngừa sự tiếp tế cho quân Tiên Động vào tổng Quế Sơn, châu Yên Lập theo ngòi Lao ra, đồng thời chặn đánh các đội quân từ phía Tiên Động và Minh Côi đi vào. Hai đồn địch ở Chuế Lưu và Động Lâm khống chế các làng tổng phía bắc huyện Hạ Hòa, bao vây, chia cắt các đội nghĩa quân huyện Hạ hòa và kiểm soát chặt chẽ đôi bờ Sông Thao, không cho các đội quân của Tán Dật ở Lang Sơn, của Lãnh Hặc, Lãnh Chấp ở vùng Ấm Hạ, Ấm Thượng, Bằng Giã liên hệ và chi viện cho nhau, nhất là không cho các đội nghĩa quân liên hệ được với Tiên Động. Việc tập trung quân lần này, Béc-căng đưa ra kế hoạch tỷ mỷ đánh tiêu diệt căn cứ Tiên Động.
Lãnh Mai đã cho người liên hệ với các đội nghĩa binh ở các làng, ra quân đánh địch để gỡ thế bao vây cho Tiên Động. Nghĩa quân chủ trương tập kích địch về ban đêm vào vị trí đồn Ngòi Lao. Lực lượng dân binh của hai làng Văn Lang và Xuân Áng gồm 120 người do Lãnh binh Bùi Hữu Khanh và Lãnh Đa chỉ huy.
Khoảng hai giờ sáng ngày 20 tháng 9, quân địch đang ngủ say thì bị quân ta tập kích, đánh thẳng vào trung tâm đồn, bắn bị thương viên đại úy Ba-tay (Bataylle) và bắn chết 20 binh sỹ Pháp, cướp lấy 15 khẩu súng và mấy trăm viên đạn. Bọn quân Pháp ở các vị trí khác còn lại trong khu đồn chống trả; nghĩa quân không tiến công nữa cho quân tản ra cánh đồng và lẩn vào rừng. Khi quân địch từ đồn Gò Dọc tiến lên, từ đồn Chuế Lưu tiến xuống ứng cứu thì nghĩa quân đã biến không thấy tăm hơi chỉ thấy hai xác nghĩa binh Xuân Áng.
Địch tập trung quân từ đồn Chuế Lưu và đồn Động Lâm đánh vào làng Xuân Áng. Dưới sự chỉ huy của Lãnh Khanh, nghĩa binh đã phục kích giặc Pháp từ ngoài bờ sông Thao tiến vào làng. Một cuộc kịch chiến đã xảy ra khi quân Pháp tiến đến cầu Lương Xá, chúng bị một đội nghĩa binh nấp trong rừng lau sậy bắn ra làm chết 15 tên. Đến tối, giặc Pháp hoảng hốt cho quân rút về đồn Chuế Lưu. Nghĩa binh Xuân Áng còn thực hiện truy kích địch ra tận bờ sông Thao, giết thêm 7 tên địch nữa, thu 5 khẩu súng. Bọn địch ở Chuế Lưu và Động Lâm vô cùng sợ hại. Bọn lính Pháp tôn Lãnh Khanh là “ mãnh hổ”, không dám làm điều gì càn quấy.
Khi ấy, Lãnh Khanh đã bắt đầu cho xây dựng Nghĩa trủng tại chân núi Ông. Lãnh Khanh cử các nghĩa binh hăng hái của mình bí mật đi tìm hài cốt các nghĩa binh tử trận vì nước, vì sự nghiệp Cần Vương về chôn cất tại một nơi gọi là Nghĩa trủng. Công việc được tiến hành thầm lặng, chỉ một số nghĩa binh và một số người dân tham gia được biết. Hôm đưa được 25 hài cốt nghĩa binh tử trận về thì Lãnh Mai đền, ông rất cảm động nói với Lãnh Khanh và mọi người:
- Đây là nghĩa cử cao thượng của người sống đối với các Liệt sỹ đã tận trung vì nước vì nghĩa lớn mà hy sinh. Tôi thay mặt Hiệp thống đại thần Nguyễn Quang Bích và Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp cảm ơn đồng bào và nghĩa binh Xuân Áng rất nhiều!
Xúc động quá, không kìm nổi cảm xúc từ lòng mình, Lãnh Mai nói thêm:
- Mai ngày ta thắng giặc Pháp, Lãnh Mai này trở về làng Thanh Mai cũng sẽ học tập Xuân Áng đi tìm hài cốt các nghĩa sỹ hy sinh tại thành Sơn Tây, Hưng Hóa, Tứ Mỹ, Thanh Mai, Thạch Sơn, Tiên Động và ở các nơi khác về an táng tại Nghĩa trủng Thanh Mai thì mới yên lòng. Nếu chẳng may mà tử trận, tôi cũng mong Lãnh Khanh và đồng bào Xuân Áng đi tìm xác hay xương cốt của tôi đem về mai táng tại Nghĩa trủng này, để được nằm với các nghĩa binh anh dũng giết giặc hy sinh thời Cần Vương.
Đội phó Nguyễn Hữu Phú người cùng đi với Lãnh Mai nói:
- Đừng nói gở như thế Tướng quân! Đang trong trận mạc kiêng nói tới cái chết, sợ nó vận vào mình thì nguy!
- Các cậu đừng sợ nói tới cái chết nhé! Phải coi cái chết nhẹ tựa lông hồng thì hơn. Ta đang đi vào nơi chết mà tìm đất sống đấy, rõ chưa nào?
Ngày hôm sau, Lãnh Mai và Lãnh Đa cùng đội quân bảo vệ vượt sông Thao sang Lang Sơn. Tán Dật thấy Lãnh Mai đến rất mừng. Mấy lần sang Tiên Động gặp Hiệp thống, Hiệp đốc, nhưng không gặp Lãnh Mai. Nay Lãnh Mai vượt sông Thao sang gặp thì phấn khởi vô cùng. Gặp nhau, Lãnh Mai yêu cầu Tán Dật phải ra quân đánh mạnh để phá thế bao vây Tiên Động của quân Pháp. Lãnh Mai thông báo cho Tán Dật biết:
- Hiện nay, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích vâng lệnh Đức Vua Hàm Nghi đi sứ cầu viện nhà Thanh lần hai. Quan Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp thì lên Nghĩa Lộ nghiên cứu trận địa. Ở nhà chỉ huy căn cứ Tiên Động chỉ có Đề Kiều và tôi. Tôi đi một vòng đến các làng tổng bên tả, hữu sông Thao để khuấy động cao trào tiến công quân Pháp, làm cho quân Pháp phải rút bỏ trận địa bao vây Tiên Động.
Lãnh Mai kể lại những chiến thắng của hai làng Văn Lang, Xuân Áng vừa qua cho Tán Dật nghe. Cũng chính lúc đó, lại có tiếng súng dữ dội rộ lên từ bờ hữu sông Thao vọng sang. Đến tối mới biết tin quân dân Văn Lang đã tiến công địch tại núi đồn Tây và quân dân Xuân Áng tiến công địch ở đồn Động Lâm. Nghĩa quân đã tiêu diệt nhiều tên và buộc quân địch co cụm lại trong đồn không dám đi càn quét.
Tại căn cứ Đầm Đen, cánh quân Thạch Sơn đã rút về xây dựng căn cứ. Tán Dật cho quân liên tục đi đánh các trận phục kích địch từ làng Tiên Châu lên Tuần Quán, đánh phá các đồn địch khác ở Chí Chủ, Vũ Yển, Sơn Cương, Ấm Thượng, Y Sơn, Tuần Quán và Giới Phiên.
Các tướng chỉ huy gặp Lãnh Mai rất mừng, đề nghị Tán Dật cho mổ lợn, mổ bò ăn mừng. Không khí vui vẻ như những ngày đầu kéo quân từ thành Sơn Tây về làng Thạch Sơn. Nhìn thấy những chỉ huy quen thuộc, đều khỏe mạnh, Lãnh Mai rất mừng. Nhớ đến Trần Đương, người đã bày cho Lãnh Mai cách làm thuyền nhỏ cho việc rút quân bằng đường thủy nên quan quân Thanh Mai rút ra mới được an toàn. Ông hỏi Tán Dật:
- Phó đốc binh Trần Đương đi đâu rồi?
- Trần Đương à, ông ta bị giặc Pháp bắt đưa về phủ Lâm Thao rồi.
- Cớ sao lại bị giặc Pháp bắt?
- Ông ta bị thương trong trận tiến công vào đồn Vũ Yển. Không ngờ, đêm đó quân địch tập trung đông, chúng đóng quân ở ngoài bãi để chuẩn bị vượt sông Thao đánh vào Tiên Động. Thấy đồn Vũ Yển bị tiến công chúng quay lại bao vây nghĩa quân. Địch trong đồn đánh ra, địch ngoài bãi đánh vào, Trần Đương bị thương vào tay phải, chúng bắt được và đưa về phủ Lâm Thao. Nay sống chết thế nào, chưa ai nắm được.
Lãnh Mai vẻ buồn dầu:
- Thế là chúng ta mất đi một người tướng có tài. Trên nắm được vận trời, dưới nắm được thế trận, biết kích động tinh thần và lực lượng ba quân!
Tán Dật nói tỉnh bơ:
- Số phận định rồi, Lãnh Mai ạ. Trần Đương bị thương, bị bắt cũng không chết đâu mà lo. Tôi với ông mà bị bắt, bị thương, bị thua đều chết. Mọi người nghe tôi nói đây, rồi xem có đúng hay không nhé?
Ông lại nghe thầyTrần Mạnh xem số Thái ất rồi phải không?
- Ừ, tôi đã nghe Trần Đương nói lại, số nó chẳng ra gì. Nếu không thì đã cố dùi mài kinh sử, làm gì mà không mang về cái bằng cử nhân.
- Sách số có nói nó bị giặc Tây giết không?
- Không! Nó sẽ trở về làng Thạch Sơn sống đến già mới chết. Còn tôi với ông thì...
- Thì chết vì dân vì nước chứ gì. Được chết vì dân, vì nước là phúc lớn ai mà chẳng muốn. Muôn đời con cháu mình sau này sẽ nhắc nhớ đến ta!
Cả hai vị chỉ huy đều nhìn nhau cười vui vẻ. Bữa chiều hôm đó tại căn cứ Đầm Đen, hai người bạn cùng quê hương đất Tổ Vua Hùng lại ngồi chén chú chén anh.
Tán Dật nói:
- Anh em ta gặp nhau thế này là mừng rồi. Đã hơn hai mươi năm anh em ta ở thành Sơn Tây gắn bó với nhau, đã hai lần sống chết với thành. Thành mất, anh em ta trở về cùng dân chúng quê hương chiến đấu chống giặc Pháp đến cùng. Bây giờ ta theo Đức Vua Hàm Nghi kiên quyết kháng chiến chống giặc Pháp chẳng là vẻ vang lắm sao!
- Đúng là như vậy, nhưng việc quân khá gấp, anh em mình ngồi ở nhà uống rượu đàng hoang thế này sao yên?
- Cứ ăn uống tự nhiên mà mừng tin thắng trận báo về. Tôi đã bố trí quân đi đánh rồi, các ông đốc binh bảo tôi ở nhà tiếp Lãnh Mai. Họ thương tôi với ông chiến trận nhiều rồi; các ông ấy đi đánh sẽ đem chiến thắng trở về. Để rồi đêm nay quân quan Đầm Đen của tôi đánh đấm thế nào nhé.
Buổi sáng khi màn sương trên đồi vừa tan, các cánh quân đi đánh đêm đưa thuyền trở về. Một cánh quân do Đốc Thục chỉ huy tập kích đồn Ngòi Lao. Đốc Thục cho rằng quân Pháp vừa bị nghĩa quân Văn Lang và Xuân Áng tập kích, nó sẽ nghĩ đối phương chưa kịp đánh ngay lần nữa. Bọn địch chỉ phòng bị hướng trong đồi rừng ra mà không phòng bị hướng bờ sông Thao vào. Nghĩa quân Đầm Đen liền bơi thuyền sang áp bờ tiến công chớp nhoáng đồn Ngòi Lao. Bị đánh bất ngờ từ hướng bờ sông Thao vào, quân địch không kịp chống trả, những tên địch ở lại giữ đồn bị tiêu diệt. Nghĩa quân Đầm Đen nhanh chóng thu vũ khí và ra bờ sông rút quân về an toàn. Trận này, quân ta giết được 20 tên địch thu được 20 khẩu súng, 10 hòm đạn. Khi bọn địch quay về phản kích thì chao ôi đã muộn, quân Đầm Đen đã biến mất rồi.
Cánh quân của Đốc Nam đi đánh đồn Ấm Thượng cũng đã về. Quan quân báo tin tập kích vào đồn giết được 7 thằng Tây cướp được 6 khẩu súng và 5 hòm đạn. Trận đánh tập kích không đạt kết quả cao vì không diệt được đồn trung tâm, chúng phản kích mạnh, Đốc Nam phải cho quân rút nhanh. Đêm qua, quân của Đốc Nam có ba người bị địch bắn chết, chưa lấy được xác.
Hai cánh quân đi đánh đồn Y Sơn và Tuần Quán chưa về. Đến trưa rồi đến chiều không thấy tin tức gì. Tán Dật mới bắt đầu thấy lo nói với Lãnh Mai:
- Hai cánh quân này đi đánh xa, nay thắng thua chưa kịp về. Cũng có thể họ bị lộ, bọn giặc Pháp bao vây chặt chưa rút ra được? Ta phải điều quân đi ứng cứu, kẻo nguy.
- Các cánh quân này không cử lưu linh về báo hay sao?
- Tôi đã dặn dò cẩn thận, nếu nguy cấp thì phải cho người về báo, còn tổ chức ứng cứu!
- Hẹn cuối cùng báo tin là bao giờ vậy?
- 6 giờ tối nay.
- Như thế là phải chờ hẹn giờ chót, ta sẽ bàn. Nhưng theo tôi đánh đồn Tuần Quán và Y Sơn ở xa vị trí đầm Đen trên 30 dặm, gặp sự biến thì có thể tối nay quân mới về nhà hoặc biết được tin.
Quả nhiên như lời tiên đoán của Lãnh Mai hai cánh quân cử đi đánh Y Sơn, Tuần Quán gặp nhiều sự cố. Lưu linh về báo:
- Cánh quân của Đốc Đô lên đánh đồn Tuần Quán gặp lúc quân Pháp đang tăng cường đánh chiếm các vị trí dọc sông Thao. Chúng chiếm tổng Bách Lẫm, bến Âu Lâu và từ làng Yên Bái thọc một mũi tiến công lên Trái Hút và Bảo Thắng. Đốc binh Thành trấn giữ phòng tuyến “Quan Tuần” đã không chống giữ được phải cho quân rút lui về phía tây và phía bắc huyện Trấn Yên. Số quân của giặc Pháp đóng ở Yên Bái, Tuần Quán, Giới Phiên gồm ba trăm tên, rải quân dày đặc, vòng trong, vòng ngoài. Nên Đốc Đô không cho đánh, khi về bị tàu địch phát hiện, ông ta cho quân kéo chạy lên bờ rồi lẩn vào trong núi.
Tán Dật hỏi viên lưu linh và được trả lời:
- Tất cả vẫn được an toàn, có một chiếc thuyền bị bắn thủng, nước tràn vào thuyền bị chím, binh lính phải nhảy xuống sông Thao, bơi vào bờ, chạy lên đồi trốn thoát.
Cánh quân do Đốc Đen chỉ huy đi đánh đồn Y Sơn về báo cáo:
- Khi cánh quân tiến vào bao vây đồn, bị địch phát hiện, chúng bắn ra suốt đêm không lúc nào ngừng. Trong đồn đèn thắp sáng trưng. Quan quân chỉ biết đứng nhìn mà không dám hành sự. Trời sáng, tôi cho quân lui, chờ dịp khác điều nghiên kỹ sẽ đánh tiêu diệt. Số quân ra đi 60 về đủ 60 người, không bắn mất một viên đạn nào, giữ được bí mật tuyệt đối.
Nghe Đốc Đen nói xong,Tán Dật tuyên bố:
- Như thế, đêm qua ta ra quân đã thu được thắng lợi, diệt được 27 tên đich, thu được 26 khẩu súng, 15 hòm đạn. Chúng ta hy sinh mất 3 người lính. Vậy cũng là một thắng lợi lớn chào mừng ông Lãnh Mai, quan lãnh tỉnh Sơn Tây, hiện là Phó Chỉ huy căn cứ Tiên Động. Chờ đủ quân về, chúng ta sẽ tổ chức lễ mừng chiến thắng.
Lãnh Mai đứng trước quan quân Đầm Đen, nói:
- Xin chúc mừng quan quân Đầm Đen đã ra quân giành thắng lợi lớn! Nhưng tôi muốn quan quân Đầm Đen phải tổ chức đánh mạnh hơn, đánh nhiều hơn, tiêu diệt được nhiều địch, thu nhiều vũ khí hơn nữa! Tôi phải xin phép Tán Dật và quan quân Đầm Đen đi về làng Chí Chủ và làng Phú Thọ gặp các chỉ huy ở đó truyền mệnh lệnh của quan Hiệp thống và Hiệp đốc. Khi nào có dịp, tôi ở Tiên Động lại sang Lang Sơn và cùng đi đánh giặc, chứ không ngồi ở Đại bản doanh Cây Sy uống rượu như lần thăm này.
Sáng hôm sau, Lãnh Mai có mặt tại đồn Gò Đùng, Chí Chủ. Ông Hà Khắc Hậu tức Đốc Hậu, Chánh tổng Tứ tức Lãnh binh Hà Khắc Tứ, Cử nhân võ Nguyễn Văn Cắng tức Lãnh Cắng đón tiếp Lãnh Mai đến thăm và giao nhiệm vụ. Lãnh Mai nói với các vị đốc binh và lãnh binh Chí Chủ:
- Giặc Pháp tập trung nửa vạn quân tiến công Tiên Động lần thứ nhất đã thất bại thảm hại. Chúng đang chuẩn bị rất ráo riết tấn công Tiên Động lần thứ hai. Để phá tan cuộc tiến công này, Hiệp thống Nguyễn Quang Bích và Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp yêu cầu nghĩa binh Chí Chủ, Tiên Châu và các làng xung quanh cùng tiến công quân Pháp, làm cho chúng bị động, lúng túng phải rút quân về. Trước đây, nghĩa binh Chí Chủ, Tiên Châu đã làm những việc như thả bè chứa dầu, đốt cháy mặt sông Thao để ngăn tàu chiến của giặc, không cho chúng tiến lên Tiên Động. Bây giờ ta biết tàu địch chạy bằng ét xăng, chất dễ cháy. Ta dùng chất nổ phá tàu, hoặc dùng đạn bắn vào tàu chỗ chứa dầu xăng. Tàu sẽ bốc cháy, chúng không thể cứu được tàu; thậm chí tàu cháy nổ sẽ thiêu luôn quân địch trên tàu.
Đốc Hậu báo cáo:
- Vừa qua, quân quan đánh địch ở Tiên Châu, ở Đông Thành, ở Đông Lĩnh làm cho địch hoảng sợ, mất ăn mất ngủ. Các đồn lũy của ta đã được xây dựng kiên cố, quân Pháp nhiều lần tiến đánh nhưng chúng phải chịu thất bại. Chúng tôi tiếp tục đánh bọn địch đi tàu trên sông Thao, phục kích địch dọc hai bờ, trên bãi Phú Động. Nghĩa binh ta vẫn làm chủ cả vùng rộng lớn của huyện Thanh Ba và huyện Sơn Vi. Để hạn chế quân Pháp đánh lên Tiên Động, chúng tôi sẽ căng địch ra mà đánh, không cho giặc tự do hành động.
- Như vậy thì rất tốt, chúng tôi về đây chờ chiến công mới của quan quân!
Vừa lúc đó, Đốc Hậu nhận được tin quân Pháp đưa quân từ Chiêu Ứng sang Tiên Châu cướp bóc. Đốc Hậu nhanh chóng đưa quân đi phục ở phía đồi rừng phía đông làng. Khoảng 20 tên Pháp lọt vào trận địa phục kích của quân Chí Chủ. Chờ cho lũ giặc đến gần. Nghĩa quân Chí Chủ nổ súng tiêu diệt toàn bộ lũ giặc đi càn, làm cho lũ giặc đóng ở Thanh Hà hoảng loạn bỏ chạy về làng Phú Thọ.
Ngày hôm sau, chúng kéo hàng trăm quân từ đồn Ngọc Tháp, từ đồn Phú Thọ, từ đồn Vũ Yển xuống đánh báo thù. Nghĩa quân tổ chức lực lượng chặn đánh địch ở xóm Bến diệt được thêm 24 tên giặc Pháp. Bọn giặc tức tối dùng lửa thiêu trụi cả xóm Bến. Lửa cháy bốc lên cao, khói phủ kín cả một vùng sông nước. Căm thù lũ giặc tàn ác, nghĩa quân càng hăng say bám địch. Khi lũ giặc kéo quân về qua xóm Quan, làng Thanh Hà bị quân dân Chí Chủ và Lương Lỗ đánh phục kích giết chết 23 tên giặc Pháp, thu được 25 khẩu súng. Trận này có Lãnh Mai và viên Phó đội Nguyễn Hữu Phú tham gia.
Chiến công của quan quân Chí Chủ làm cho giặc Pháp phải kiêng dè. Chúng không còn dám tự do đi càn quét đánh phá.
Ngay đêm đó, Lãnh Mai gặp Lãnh Vân tức Ma Văn Vân ở làng Phú Thọ bàn về việc đánh địch để phá cuộc tiến công của Pháp đánh vào Tiên Động lần hai. Hai ông Lãnh Mai và Lãnh Vân bàn bạc rất lâu. Lãnh Vân cho rằng:
- Quân Pháp đang từng bước thực hiện kế hoạch bình định. Chúng dùng bọn ngụy quyền, ngụy quân tay sai chiêu dụ binh lính Cần Vương và nghĩa quân ta về với triều đình Đồng Khánh. Chúng chỉ dùng binh khi cần thiết, hạn chế thấp nhất việc dùng binh lính là người Pháp tham chiến. Thực hiện triệt để âm mưu “ dùng người Việt trị người Việt” và biện pháp “chia để trị”, làm rối loạn hậu phương của ta.
Lãnh Vân kể về tình hình làng Phú Thọ, Pháp và bè lũ tay sai địa phương chia rẽ Lương-Giáo làm cho dân các làng xóm chia bè kéo cánh chống đối, đánh đập, kiện cáo lẫn nhau. Thờ Phật, thờ Chúa là tín ngưỡng từ nước khác truyền vào, ai tin thì thờ còn không thì thôi, chống đối nhau là mắc vào âm mưu của giặc. Chúng làm cho xã hội mất ổn định, làm suy yếu tinh thần dân tộc để chúng dễ bề cai trị dân ta. Ở các vùng có dân tộc thiểu số, chúng cũng có bài chia rẽ, làm mất đoàn kết dân tộc. Ở nông thôn, chúng chia rẽ các làng với nhau, các xóm với nhau, chia rẽ các dòng họ, các phường giáp. Làng xã lúc nào cũng náo động cả lên, thề bồi, kiện cáo, đánh đập, ly tán nhau. Chẳng còn ai tin ai để mà kêu gọi đoàn kết, giúp đỡ nhau, hay vùng dậy chống Tây được nữa.
Lãnh Mai ngồi nghe tức giận lũ giặc Pháp và bè lũ tay sai, nói to:
- Vì thế, chúng ta phải động viên binh sỹ quyết tử chống giặc Pháp. Lãnh Vân còn trẻ phái tìm cách đánh nhanh diệt gọn, đuổi cho hết lũ giặc đi. Hiệp thống Nguyễn Quang Bích và Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp đã kêu gọi toàn quân và toàn dân nổi dậy tìm mọi cách đánh địch. Không có cầu hòa, chỉ có chiến đấu chống lại chúng và tìm cách quét sạch lũ giặc Tây khốn kiếp ấy đi!
Lúc Lãnh Mai đến làng Phú Thọ, cũng là lúc Hiệp đốc Giáp từ Nghĩa Lộ về tới căn cứ Tiên Động. Đề Kiều báo cáo cho Hiệp đốc biết:
- Lãnh Mai chủ động đi đến các làng các tổng phía bắc Tiên Động và sang tả sông Thao gặp Tán Dật và các thủ lĩnh nghĩa binh khác kêu gọi đánh địch và phá vỡ thế bao vây. Mấy tuần qua ngày cũng như đêm liên tục có tiếng súng rộ lên và tin chiến thắng báo về ta đã đánh nhiều trận, tiêu diệt nhiều giặc Pháp, thu được nhiều súng đạn.
Hiệp đốc Giáp nghe nói rất đồng tình và nói:
- Chủ động đánh địch như vậy là tốt, rất đáng khen. Nhưng chúng ta cần phải rút quân lên Nghĩa Lộ, lập phòng tuyến phòng thủ mới, vững chắc hơn. Đưa Đức Vua Hàm Nghi ra đó để tăng cường uy thế đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất nước.
Hai ngày sau, Lãnh Mai trở về Tiên Động, gặp Hiệp đốc Giáp và Đề Kiều, ông nói:
- Tình hình giặc Pháp sẽ đánh Tiên Động trong ngày một ngày hai. Quân Pháp đã tập trung rất nhiều tàu chiến trên sông Thao. Trên các đồn giặc dọc bờ sông thấy lính Pháp kéo về rất đông. Những dấu hiệu đó báo trước một cuộc tiến công quy mô mới vào Tiên Động trong những ngày sắp tới.
Hiệp đốc Giáp nói:
- Quân Pháp sẽ đánh Tiên Động là chắc chắn rồi. Như vây, chúng ta vừa phải đánh giặc tại Tiên Động và vừa phải tổ chức rút quân lên Nghĩa Lộ cho được an toàn. Trên Nghĩa Lộ tôi đã cử các ông Lãnh binh Vương Doãn, Đốc binh Đào Chính Lục, Phó đốc binh Đặng Phúc Thành lãnh đạo nhân dân Nghĩa Lộ chuẩn bị thành lũy, trận địa, nơi ăn chốn ở mới cho quân ta rút lên.
Hiệp đốc Giáp nhìn vào hai vị chỉ huy phân công:
- Đề Kiều sẽ trực tiếp chỉ huy đạo Hậu quân, cho chuyển ngay các xưởng rèn đúc, các kho quân lương lên Thượng Bằng La. Huy động người và voi ngựa chuyển lên Nghĩa Lộ tất cả những thứ cần thiết cho nghĩa quân. Gặp các ông Lãnh binh Trương Thẩm ở Thượng Bằng La và các ông Đốc binh Phạm Đình Tế, Lý Hữu Kim ở làng Đại Lịch cùng cộng tác. Cử ông Lãnh Khóa người làng Tiên Động cùng đi. Ông ấy là người nói giỏi tiếng dân tộc, có uy tín với nhân dân vùng tổng Quế Sơn, châu Yên Lập và châu Văn Chấn có thể giúp Đề Kiều nhiều việc. Ngày mai, Đề Kiều báo cho ông ta biết để lên đường thực hiện nhiệm vụ.
Đề Kiều vui lòng nhận công việc được giao. Ông có nói thêm:
- Tuần trước, tôi có về Tam Sơn, Văn Bán gặp Đốc Xù, Lãnh Hinh và thăm xưởng rèn ở Văn Bán. Thấy lực lượng của vùng này rất mạnh có cấn rút bớt quân tăng cường cho quân Tiên Động và chuyển xưởng rèn lên Nghĩa Lộ được không?
- Không cần! Để xưởng lại cho Đốc Xù, Lãnh Hinh ở lại và giữ vùng đất này. Đốc Xù còn trẻ nhưng có gan lớn, chí khí cao, giao cho nhiệm vụ đánh cản giặc và kìm chân giặc Pháp là được. Cử Tán Áo ở lại làm chỉ huy dân binh các làng phía bắc Cẩm Khê.
Hiệp đốc Giáp nói tiếp:
- Tôi cùng với đạo Trung quân, đạo Tiền quân, đạo Hữu quân rút theo con đường Cầu Oai sang châu Yên Lập hành quân lên châu Văn Chấn, Nghĩa Lộ. Lực lượng chủ yếu của đạo Trung quân sẽ đóng quân ở trung tâm Mường Lò. Đạo Hữu quân sẽ bảo vệ phía đông và tây Mường Lò và đạo tiền quân bảo vệ phìa bắc Mường Lò. Các đạo Trung quân, Tiền quân, Hữu quân để lại một phần ba lực lượng tham gia đánh kìm chân địch. Nếu địch đánh ta trong nay mai thì phải chọn những chỉ huy các đạo, các đội dũng cảm để đánh kìm và chặn địch.
Hiệp đốc nhìn chằm chằm vào Lãnh Mai có ý gửi gắm niềm tin quyết chiến:
- Lãnh Mai làm nhiệm vụ quan trọng này, tổ chức các lực lượng đánh kìm và chặn quân địch, một nhiệm vụ đặc biệt nữa là chỉ huy số anh em còn lại của đạo Tả quân tại đồi Cỏ Rác đánh và rút lui về hướng thượng nguồn ngòi Lao hoặc ngòi Vần lên Đại Lịch thuộc Trấn Yên. Hướng này, tên thiếu tá Béc-căng chỉ huy quân Pháp sẽ cho chặn đánh rất dữ nhằm bắt sống và tiêu diệt quân ta. Giặc Pháp có thể thọc một mũi tiến quân vào phía nam châu Văn Chấn tại Đai Lịch và Thượng Bằng La chặn đường quân ta rút lên Nghĩa Lộ.
Nhìn hai vị chỉ huy tin cậy của mình, ông nói:
- Nhiệm vụ chuyển quân và nhiệm vụ ở lại đánh kìm và chặn địch đều rất quan trọng và rất vẻ vang. Tôi mong hai vị chỉ huy và toàn quân dân ra sức làm việc và chiến đấu hết sức mình thì mới mong được bảo toàn và chiến thắng!
Lãnh Mai vui vẻ nhận nhiệm vụ ở lại đánh kìm và chặn địch. Ông báo cáo cho Hiệp đốc Giáp rõ việc tổ chức quân dân các làng Tiên Động và Hoàng Lương trong khu vực căn cứ và các làng tổng xung quanh như Phương Xá, Áo Lộc, Văn Lang, Xuân Áng, Ấm Thượng, Lang Sơn, Vũ Yển, Chí Chủ, Phú Thọ cùng ra quân đánh giặc khi đại quân ta rút lên Văn Chấn, Nghĩa Lộ.
Lãnh Mai nhìn sang phía đồi Cỏ Rác:
- Tôi chỉ lo cho đạo Tả quân đóng tại đồn Cỏ Rác. Qua những trận đánh bảo vệ Tiên Động lần thứ nhất, đạo Tả quân bị thiệt hại rất nặng, chỉ còn 228 binh sỹ. Việc tiếp tế qua đường đầm Đào bị hạn chế, khi địch đã cho thuyền chiến loại nhỏ theo ngòi Mực vào đầm Đào, đánh quân ta chốt ở thôn Mỹ Lương. Giặc đã tiến công đồi Cỏ Rác bằng pháo. Trận địa pháo ở Mỹ Lương đã bắn gằn hết số đạn dự trữ rồi. Tôi đã nghĩ đến phương án, nếu địch tràn vào Mỹ Lương thì cho quân phá pháo và súng thần công. Cũng có thể cho quân tháo gỡ kéo ra hoặc là cho đẩy pháo, quẳng súng thần công xuống đầm Đào hoặc ngòi Rành.
Hiệp đốc Giáp vẻ đắn đo:
- Vũ khí có thể giữ được thì giữ, còn không giữ được thì phá bỏ, nhưng cốt phải giữ lấy người. Đội pháo do đội trưởng Lê Văn Tấn chỉ huy là vốn quý của ta! Mất pháo và súng thì còn có cơ hội tìm lại được nhưng mất người thì thôi, thôi đấy. Lãnh Mai và Đề Kiều nhớ là phải lo giữ lấy người hơn lo giữ pháo, nghe rõ chưa nào? Không chờ Hiệp thống đi sứ trở về Tiên Động, đúng 1 giờ sáng mai các đạo cho quân rút lên Văn Chấn đến các vị trí đã định
Hiệp đốc Giáp nghe rõ tiếng trả lời: “vâng ạ” của hai vị chỉ huy tâm phúc. Lúc đó, pháo địch từ Phùng Xá, Minh Côi, Tăng Xá ầm ầm dội xuống khu Đại bản doanh Tiên Động. Lãnh Mai nhớ nhiệm vụ của mình, chạy xuống dốc núi, lấy ngựa phi về các chỉ huy các đạo quân. Ông truyền mệnh lệnh rút quân, cử những đội binh dũng cảm ở lại đánh chặn địch và kìm chân địch.
Ông lần lượt đến đạo Trung quân, đạo Hữu quân, đạo Tiền quân. Các Chỉ huy các đạo quân thực thi mệnh lệnh một cách nhanh chóng. Lãnh Mai ở lại vị trí thôn Mỹ Lương gặp chỉ huy đội pháo binh Lê Văn Tấn. Ông cho phép bắn hết cơ số đạn phảo còn lại và tìm cách chôn súng thần công để sau này còn tìm về vận chuyển lên Nghĩa Lộ. Riêng khẩu pháo 90 ly của Pháp, ta thu được bắn hết đạn thì cho phép tháo gỡ, phá hủy, rồi kéo ra đẩy xuống ngòi Rành hoặc Đầm Đào cho mất tích, không cho quân Pháp thu lại.
Lãnh Mai cũng đi đến tìm các ông đốc, ông lãnh ở hai làng Tiên Động, Hoàng Lương truyền mệnh lệnh của Hiệp đốc Giáp. Các ông Đốc Đông và Lãnh Cát đã nắm được nhiệm vụ của đội nghĩa binh ở lại làng cùng nhau bảo vệ làng và cùng quan quân đánh kìm và chặn địch không cho chúng truy kích đại quân rút lên Văn Chấn, Nghĩa Lộ.
Lãnh Khóa được lệnh của Lãnh Mai, vui vẻ nhận nhiệm vụ đi lên Nghĩa Lộ, mọi việc giao lại cho Đốc Đông và Lãnh Hường chỉ huy. Việc vội, ông không kịp đến chào người mẹ già đã ngoại 90 tuổi. Ông cưỡi con ngựa hồng phi nhanh đến Đại bản doanh Tiên Động gặp Hiệp đốc Giáp nhận chỉ lệnh. Ông được Hiệp đốc Giáp giữ lại làm Tán tương quân vụ giúp ông việc quan hệ với người dân tộc thiểu số, trước mắt cùng Đề Kiều chuẩn bị tốt về mặt quân lương và trang bị vũ khí.
Bọn giặp Pháp dùng pháo binh bắn phá trước. Trên sông Thao xuất hiện càng nhiều tàu chiến, chúng nã đạn pháo vào các vị trí đóng quân của ta tại Đại Đồn, gò Mai, đồi Cỏ Rác, Hàm Rồng và các vị trí tiền tiêu suốt dọc ngòi Rành. Phía bắc ngòi Mực, thôn Mỹ Lương, các xóm An Đồng, Mai Vở, Chằm Vần, đạn pháo nổ liên hồi, khói bốc lên bay mù mịt. Khẩu pháo 90 ly chiến lợi phẩm duy nhất của nghĩa quân, được đội trưởng Lê Văn Tấn chỉ huy đang nhằm bắn vào các mục tiêu của địch bên tràn đồi Gò Dọc, vào các trận địa pháo địch ở Minh Côi và Phương Xá.
Ngày mồng 1 tháng 11 đáng nhớ, đội pháo binh Tiên Động đã bắn cháy một pháo thuyền của giặc Pháp tại cửa Ngòi Rành, bắn trúng một đồn giặc tại Gò Dọc, Minh Côi và trận địa pháo địch tại Phương xá. Vào khoảng 2 giờ chiều, khi mặt trời ngả bóng nắng dưới chân người, Đội trưởng Lê Văn Tấn kiểm tra thấy hết đạn pháo, liền ra lệnh phá pháo và cho buộc dây kéo. Con trâu mộng của nhà Lãnh Hường được mắc vào dây kéo, cùng các pháo thủ cố sức kéo pháo ra bờ ngòi Rành và quân lính xúm lại đẩy pháo lăn xuống ngòi Rành cho chìm lỉm.
Trận địa chỉ còn lại 5 khẩu thần công với hơn 100 quả đạn. Đội trưởng Lê Văn Tấn cho xếp lên xe bò kéo vào phía Đại Đồn nhưng Phó Đốc Quýnh chưa cho phép vì phải chờ lũ bộ binh địch phản kích vào Mỹ Lương thì phải có súng thần công bảo vệ. Ông Phó đốc binh này chỉ cho phép đội pháo thủ rút đi khi bắn hết đạn thần công.
Đến chiều, lũ giặc Pháp kéo đến thôn Mai Vở. Súng thần công đặt tại thôn Mỹ Lương lại tới tấp bắn vào đội hình của bộ binh Pháp. Lũ giặc hống hách không thể theo những con đường mòn tiến vào bờ ngòi Rành. Phòng tuyến Ngòi Rành vẫn được giữ vững trước các cuộc tiến công dữ dội của lính bộ binh địch. Đến cuối chiều, khi mặt trời khuất núi, bọn địch quân kéo ra phía làngTăng Xá và làng Minh Côi chốt giữ.
Tối hôm đó, đội pháo binh của Lê Văn Tấn mới được phép chuyển súng thần công lên xe trâu kéo về phía chân núi Cháy. Quân dân thôn Mỹ Lương niềm nở chia tay đội pháo thân yêu của mình hành quân lên Nghĩa Lộ. Trâu và xe của Đội Vĩ, Đội Huân cùng với trâu và xe của Đốc Đông giúp đội pháo chuyển súng thần công lên phía núi Cháy phía sau làng Tiên Động.
Nhờ có lệnh sơ tán triệt để từ cuộc tấn công của địch lần trước. Dân các thôn đã kịp tìm vào chân núi Cháy. Việc đánh địch không mấy trở ngại, tránh được tổn thất cho dân làng. Vào ngày giặc Pháp tiến công đợt hai, Béc-căng tổng chỉ huy cuộc hành quân của Pháp tuyên bố cho phép đốt hết, giết hết dân hai làng Tiên Động và Hoàng Lương. Cho nên nhiệm vụ giữ và bảo vệ dân rất quan trọng, Lãnh Mai nói với Đốc Đông, Đốc Lục, Lãnh Hường và Lãnh Cát:
- Rút kinh nghiệm ở Thanh Mai, đánh giặc nhớ phải làm tốt công việc bảo vệ dân, nhất là phải bảo vệ phụ nữ, trẻ em, người già, không cho giặc Pháp và bè lũ tay sai giết hại. Hiện nay, quan quân Tiên Động còn có người ở lại giữ căn cứ, cho phép dân binh trực chiến ban ngày, còn ban đêm thì cho nghĩa binh rút về nơi sơ tán bảo vệ dân.
Đêm hôm đó, Lãnh Mai ở lại với đạo Tiền quân ở thôn Mỹ Lương. Buổi tối, ông chia tay Đốc Quýnh với 250 quan quân đi Nghĩa Lộ, Văn Chấn. Lãnh Mai và Phó Đốc binh Trịnh Bá Khiêm cùng 75 người ở lại với nhiệm vụ đánh chặn và kìm chân địch.
Nửa đêm nghĩ có điều còn chưa an tâm, Hiệp đốc Giáp lại cử Tán tương quân vụ Trịnh bá Đanh về thôn Mỹ Lương cùng với Lãnh Mai chỉ huy quan quân. Đoàn của Đề Kiều gồm đạo Hậu quân rút quân sang Sơn Lương cùng với các đội quân hậu cần rút lên Văn Chấn. Hiệp đốc Giáp cùng đạo Trung quân, Hữu quân, Tiền quân qua cầu Oai đến Sơn Lương, lên Mỹ Lung tiến sang đất châu Văn Chấn. Sáng hôm sau, các đạo quân mới được lệnh tản vào rừng nghỉ nấu cơm ăn. Lúc này đã ở xa, quan quân không còn nghe thấy tiếng đại bác bắn vào Tiên Động nữa. Ăn cơm xong, Hiệp đốc Giáp lại thúc quân băng qua núi, qua đèo lên Mường Lò, Nghĩa Lộ.
Đêm hôm đó, tại Tiên Động trời mưa rét. Một cánh quân Pháp hơn 100 tên phần lớn là lính An-giê-ri và Ma-rốc do tên quan hai Ma-la-van (Malaval) chỉ huy. Tên Lê Đình Nhạn theo giặc Tây dẫn đường tiến đánh thôn Mỹ Lương. Một vị trí mà ít ai có thể lường được quân Pháp sẽ cho quân bắc cầu qua. Đó là từ bờ bắc chỗ có cồ đá to, người dân thường gọi là cồ đá hang hùm, sang phía bờ nam gò Hàm Rồng cách khoảng 120 m, độ sâu khoảng 1,5m đến hơn 2m. Từ gò Hàm Rồng có đường sang Gò Mai và qua xóm Chằm Vần tiến ra thôn Mỹ Lương. Nước từ phía núi Cháy chảy ra đầm Đào trong leo lẻo, mùa hạ, mùa thu sóng gợn lăn tăn; mùa xuân, mùa đông mặt nước phẳng như gương in bóng núi.
Tên Lê Đình Nhạn bày cách cho quân Pháp cách làm cầu. Chính nó đã chỉ huy bọn lính tập đắn gỗ làm cầu. Chúng làm cọc, làm tay cầu, làm thân cầu bằng tre, hóp và gỗ mực, gỗ de non thân thẳng và chính nó dạy bọn lính Tây vác gỗ, tre, hóp làm cầu trên mặt nước. Hàng ngày bọn quan Tây cho lính tập làm cầu, đi cầu về ban đêm. Tất cả các thân cầu, cọc cầu, tay cầu được phơi khô, sơn trắng, có đánh dấu thứ tự lắp ráp; khi làm cầu không cần người lội dưới nước mà vẫn bắc được cầu.
Đêm hôm ấy, trời mưa rét. Tổ lính thuộc đạo Tiền quân gồm có 6 người còn ở lại đồn Hàm Rồng. Chiều hôm trước có 18 người, nay đi lên Văn Chấn chỉ còn lại một phần ba. Nửa phần không ngờ, nửa phần thương nhớ người đi, lòng dạ binh sỹ bâng khuâng chẳng ai để ý. Vì đã hơn hai năm đóng quân ở đây, chưa thấy giặc Tây đánh từ phía núi ra bao giờ, sinh ra chủ quan, coi nhẹ cảnh giới. Đêm mưa phùn, gió rét lính tráng ta đắp chăn ngủ khì. Bọn Tây lặng lẽ làm cầu và tiến vào đồn. Con chó con giật mình thấy người lạ cắn anh ách, lính ta vùng dậy phát hiện có lính Tây thì đã muộn. Một loạt súng nổ và hàng loạt tiếng súng nổ tiếp theo, bọn địch đã giết chết toàn bộ 6 người canh giữ đồn Hàm Rồng.
Bọn giặc Pháp do tên Nhạn dẫn đường đánh thẳng vào xóm Chằm Vần. Nhóm binh sỹ ở đó chủ quan bị đánh bất ngờ, chống đỡ không nổi, trước sức mạnh của địch. Quân ta từ Gò Mai, thấy đồn Hàm Rồng bị giặc Pháp đánh úp đã đưa người ra đánh chặn bước tiến của địch. Các lực lượng quân ta đồn trú tại thôn Mỹ Lương biết địch đánh tập hậu lặng lẽ rút ra phía bờ ngòi Rành.
Lãnh Mai người nghe tin quân Pháp đánh úp quân ta ở gò Hàm Rồng, đang tiến vào thôn Chằm Vần đã kịp xuống thuyền bơi qua đầm Đào sang đồi Cỏ Rác với đạo Tả quân. Gặp Đốc binh Lê Hoài, Phó đốc binh Nguyễn Văn Lệ và Lê Thám ở đồi Cỏ Rác, ông liền ra lệnh cho số quân còn lại của đạo Tả quân rút qua làng Minh Côi sang đất làng Văn Lang, lui vào sâu trong chân núi Am. Được quân nghĩa dũng của làng Văn Lang giúp, Lãnh Mai và đạo Tả quân vội vàng tìm đường sang làng Mỹ Lương thuộc tổng Quế Sơn.
Tán tương quân vụ Trịnh Bá Đanh về Đại Đồn chỉ huy lực lượng còn lại đánh kìm quân Pháp. Khi thấy thôn Mỹ Lương không còn tiếng súng hỏa mai của quân ta bắn trả quân Pháp. Nhìn ra phía ngòi Rành thấy quân Pháp lũ lượt lội qua, binh sỹ ta chỉ lẹt đẹt bắn trả. Thấy nguy, ông liền ra lệnh cho số quân đánh kìm luồn lách vừa bình tĩnh bắn trả quân Pháp, vừa lặng lẽ rút vào chân núi Cháy tìm đường rút lên Nghĩa Lộ.
Tiên Động, Hoàng Lương chỉ còn lại quân nghĩa dũng của làng. Họ được giao nhiệm vụ giữ đất, bảo vệ dân làng. Khi quan quân Cần Vương rút hết, cuộc chiến đấu của họ trở nên rất quyết liệt. Nhưng với tài chỉ huy Đốc Đông và Lãnh Cát, giặc Pháp không thể tiêu diệt được lực lượng nghĩa dũng của hai làng. Do có sự phòng bị khôn khéo, nên bảo vệ được dân. Quân và dân lợi dụng địa hình hiểm trở vừa tản cư ẩn núp vào trong núi Cháy, vừa chiến đấu vừa sản xuất để tồn tại. Thỉnh thoảng lại làm nên chiến thắng đánh chặn địch ở Cầu Bông, Ngòi Mực làm cho giặc Pháp phải hoảng sợ.
*
Sau một tuần tiến công, bọn giặc Pháp do Thiếu tá Béc-căng chỉ huy đã chiếm được căn cứ Tiên Động. Nhưng chúng chỉ chiếm được những căn nhà trống rỗng, hầm hào rỗng toác. Quân quan Cần Vương đã rút hết rồi, chẳng biết họ đã theo con đường nào. Việc đánh úp cứ điểm thôn Mỹ Lương cũng không đạt kết quả như ý muốn. Chúng giết và bắt sống được 29 nghĩa binh thu được 10 khẩu súng hỏa mai và một số gươm giáo.
Bọn giặc Tây, do Béc-căng chỉ huy chia quân ra đón đánh. Một mũi do Trung úy Cô-tin (Cortin) phó đồn chỉ huy, từ đồn Ngòi Lao, hành quân cấp tốc lên làng Mỹ Lương, châu Yên Lập. Hắn điện cho quân đóng tại đồn Vô Tranh tìm cách phục kích bắt và tiêu diệt nghĩa quân Tiên Động vượt lên Văn Chấn bằng con đường ngòi Lao. Hắn cũng điện cho các đồn Chuế Lưu, Động Lâm lập một mũi chặn quân ta rút lên Vân Hội, Trấn Yên theo con đường ngòi Vần.
Đến núi Re, giặc Pháp đụng đầu với cánh quân do Lãnh Mai dẫn đầu, hai bên đánh nhau dự dội. Khi quân của trung úy Tê-tan (Têtan) đồn trưởng đồn Vô Tranh vừa kéo tới, bất ngờ bị đánh chặn. Hàng trăm tên Pháp đưa súng lên bắn, nhưng vô hiệu vì chẳng biết nghĩa quân ở đâu. Quân của Lãnh Mai từ trong rừng nhìn ra, trên núi cao nhìn xuống rõ mồn một, bắn bách phát bách trúng. Quân Tây chết la liệt, số lính bị thương kêu la ầm ĩ. Lãnh Mai xông ra đường, vung gươm chém chết Tê-tan, binh sỹ hùa theo chém địch bằng gươm, mã tấu và tranh thủ cướp súng của địch. Vì hăng hái giết địch, Lãnh Mai và quân sỹ không chú ý đến lực lượng mới của giặc từ đồn Ngòi Lao vừa kéo đến chi viện. Quân Tiên Động bị đánh úp, Lãnh Mai bị thương vào cánh tay phải, Đốc Hoài bị trúng đạn chết. Phó đốc Lệ, Phó đốc Lê Thám và số quân lính đạo Tả quân chạy luồn vào đồi rừng theo bờ ngòi Lao chạy lên đến gò Phai, thoát sang đất Mỹ Lương, châu Yên Lập.
Lãnh Mai bị giặc Pháp bắt, chúng đưa về đồn Ngòi Lao. Biết Lãnh Mai là Phó Chỉ huy của căn cứ Tiên Động, chúng muốn lấy cung nhưng Lãnh Mai không nói một lời nào. Chúng đành phải đưa Lãnh Mai lên tàu chiến về thành Hưng Hóa.
Tên Đại úy Ba-tay bị thương đã được chữa khỏi trực tiếp dẫn giải Lãnh Mai về thành Hưng Hóa. Tại đại đồn Hưng Hóa, Thiếu tướng Gia-me nhìn thẳng vào mặt Lãnh Mai nói với giọng đe dọa:
- Mày đã bị bắt, không đầu hàng chúng tao sẽ xử bắn!
Nó nói bằng tiếng Pháp, tên thông ngôn dịch ra tiếng Việt, Lãnh Mai nghe rõ nhưng không trả lời. Gia-me tức quá, y tiến đến Lãnh Mai giơ cánh tay lông lá lên định tát vào mặt tên tù binh ngoan cố. Gặp ánh mắt trừng trừng của Lãnh Mai, nó phải hạ tay xuống. Lãnh Mai khẽ mìm cười, nói:
- Chúng ta nên đối xử với nhau lịch sự thì hơn!
Gia-me lồng lên:
- Không thể lịch sự với tên phản nghịch!
- Không! Chúng tao không phản nghịch! Chỉ có bọn xâm lược Pháp và bè lũ tay sai Đồng Khánh mới là kẻ cướp nước, mới là lũ phản nghịch hại dân, hại nước!
Gia-me gầm lên:
- Tống cổ nó vào nhà giam, sớm mai xử tử!
Vừa lúc đó, y nhận được điện của Gia-mông tư lệnh quân đội Pháp tại Bắc Kỳ yêu cầu đưa tên Lãnh Mai về thành Sơn Tây thẩm vấn.
Gia-me ra lệnh cho Ba-tay đưa ngay Lãnh Mai về thành Sơn Tây theo yêu cầu của thượng cấp.
Ngồi trên tàu chiến Lãnh Mai bị bọn lính Pháp trói gô vào ghế ngồi. Tên lính Pháp cầm súng áp giải Lãnh Mai nhìn chắm chắm vào mặt. Nó nghĩ đến việc giải tù, chỉ một sơ suất tên tù binh này có thể cho nó lía đời và nhảy xuống sông Thao tẩu thoát. Trông tên tù binh đầu sỏ bình thản vô tư, chẳng hề có chút sợ hãi nào. Nó nhìn vào người tù đang mở to đôi mắt nhìn ra phía chân trời, thỉnh thoảng quay đầu nhìn về phía bắc, lặng lẽ thở nhẹ như cố hít bầu không khí trong lành trên mặt sông Thao thoáng mát.
Nó nói với tên thông ngôn:
- Quê hương tên tù đầu sỏ này ở đâu?
- Thanh Mai.
Nó biết Thanh Mai, nơi mà một năm trước quân Pháp đã tiến công vào Thanh Mai. Đoàn quân của nó gồm 6000 người, đủ mặt tướng sỹ hải quân, lục quân mà không bắt được một tên tù binh nào; đã đổi một giá rất đắt hơn ba trăm người chết và bi thương, gần 500 binh sỹ bị bệnh tả trong đó có tới 220 người chết vì không thể cứu chữa. Thứ bệnh của vùng nhiệt đới mà chính nó và binh lính Pháp rất hãi hùng khi mắc phải.
Bọn giặc đưa Lãnh Mai lên thành Sơn Tây. Chúng dẫn thẳng vào cửa Tiền (1), có chiếc cầu xi măng của Pháp mới xây bắc qua hào sâu. Lãnh Mai lặng lẽ nhìn lên bờ thành, cột cờ cao trên là đài Kính Thiên thấy lá cờ tam tài của Pháp ba màu: xanh, trắng, đỏ treo cao ủ rũ. Tên lính áp giải nhìn thấy Lãnh Mai cắn răng tỏ vẻ căm tức. Khi đến sân nhà hành cung, nó nhìn thấy đủ mặt quan Pháp và quan An Nam đứng chờ.
Chú thích:
(1). Tức là Cửa Đông
Tiến sỹ Nguyễn Trung Kiểm vừa thay Tiễn Sỹ Dương Khuê làm Tổng đốc Sơn Tây nhìn thấy Lãnh Mai nói với quan Tây:
- Thưa ngài Pôn Be, thống đốc toàn quyền Pháp tại Việt Nam! Đây là Lãnh Mai tức Nguyễn Văn Như từng giữ chức Sơn Tây tăng thiết Phó lãnh binh. Hắn đã từng chống lệnh bãi binh của triều đình, dẫn theo tên Bố chánh Nguyễn Văn Giáp và khoảng hơn 300 tên lính của thành Sơn Tây về quê hắn ở làngThanh Mai, Phủ Lâm Thao lập căn cứ chống lại quân đội Pháp và triều đình An Nam.
Pôn Be nhìn Lãnh Mai:
- Đây là một tên cầm đầu chỉ huy quân phản loạn phải không?
- Đúng ạ!
- Chúng ta treo giá 10 000 Phờ-răng để lấy đầu nó phải không?
- Vâng ạ!
- Quân Pháp phải trả một giá rất đắt khi hành quân đánh chiếm tận sào huyệt mà không bắt được ai. Nó đã chỉ huy quân phản loạn Thanh Mai chiến đấu đến cùng chống lại người Pháp. Tướng sỹ Pháp tham chiến từng ca ngợi nó là anh hùng. Ta không giết, nên mua chuộc nó trở về với nhà nước Pháp và vua Đồng Khánh là hơn.
Gia-me đi đến gần Lãnh Mai nói với giọng ân cần:
- Ngài Lãnh Mai ơi! Chúng tôi từ thống đốc Pôn Be đến những người lính cầm súng đều biết ông là người anh hùng. Chúng tôi muốn ông trở về sống với quân đội Pháp, vua Đồng Khánh và quan quân thân thiết đã từng sống với ông, rất kính nể phẩm chất, nhân cách của ông. Trở về đây, ông tiếp tục giữ chức lãnh binh Sơn Tây; cái chức vụ mà chúng tôi bao ngày mong ngóng ông về đảm nhiệm!
Nghe cái giọng ngọt ngào của tên tướng Pháp, Lãnh Mai chưa nghe hết lời tên thông ngôn đã trả lời:
- Tôi không bao giờ nghe các ông nói! Các ông là kẻ ngoại bang đến cướp nước tôi, giết hại đồng bào tôi, cướp bóc của cải, áp bức vua và dân nước Việt Nam. Chúng tôi phải nổi lên cầm vũ khí chống lại lũ cướp nước và lũ tay ai bán nước. Các ông đừng giả nhân giả nghĩa nữa! Tôi và tướng sỹ của nước tôi theo Vua Hàm Nghi thà chết chứ không đầu hàng!
Gia-mông nghe nói thét lên:
- Thế thì chúng tao sẽ cho mày chết!
Lãnh Mai vẫn bình thản như không. Gia-mông quay đầu lại nói với Pôn Be:
- Thưa ngài thống đốc Pôn Be! Lãnh Mai và tên Tuần phủ Nguyễn Quang Bích, tên Bố chánh Nguyễn Văn Giáp là những tên ngoan cố nhất, không thể dụ dỗ, mua chuộc được đâu. Bọn này đã nói chuyện với chúng ta bằng súng đạn thì quân đội Pháp sẽ nói chuyện với lũ chúng nó bằng súng đạn!
Lãnh Mai nhìn các quan An Nam đứng đó thì cất cao giọng nói:
- Các ông là người Việt Nam là quan quân Sơn Tây không nên cộng tác với kẻ thù xâm lược. Các ông đã nghe Chiếu dụ Cần Vương của Đức Vua Hàm Nghi, mọi người hãy tìm cách giúp quân Cần Vương giết hết lũ giặc Pháp đi! Trở về với nhân dân là con đường duy nhất của những người đã lầm đường lạc lối theo giặc Pháp!
Tên thông ngôn vừa dịch xong những lời Lãnh Mai vừa nói cho Pôn Be nghe, viên thống đốc mặt đỏ bừng bừng bỏ vào nhà hành cung. Tướng Gia-mông căm tức thét lên:
- Bắn! Bắn ngay lập tức!
Một tiểu đội quân Pháp dẫn Lãnh Mai đi thẳng ra pháp trường. Lãnh Mai bình thản bước đi, không hề quay lại nhìn bọn sỹ quan Pháp và bọn quan An Nam thành Sơn Tây. Chúng trói gô Lãnh Mai vào cái cọc đen xì chôn sâu giữa pháp trường, dùng vải đen bịt mắt. Mười hai nòng súng đen ngòm đưa lên ngắm thẳng vào ngực Lãnh Mai. Một tiếng hô: Tia-rê! (1) lạnh lùng vang lên, một loạt súng nổ đanh. Những người Pháp thấy Lãnh Mai khụy xuống, máu vọt ra nhuộm đỏ bãi cỏ xanh dưới chân.
Chú thích:
(1). Tirer! (Bắn!)
Trên đường về thành Hà Nội Pôn Be nói với Gia-mông:
- Lãnh Mai thực là một anh hùng như tướng sỹ Pháp từng tôn vinh. Ông ta đã chết, nhưng tinh thần xả thân vì nước của ông ấy sẽ còn sống mãi trong trái tim của người Việt Nam!
- Không phải chỉ trong trái tim người Việt Nam mà cả trong tim của tôi và trong tim ngài thống đốc Pôn Be nữa đấy!
Do câu nói hình tượng, tự nhiên của Gia-mông về cái chết anh hùng của Lãnh Mai đã ám ảnh ngài thống đốc toàn quyền Pôn Be. Hay do hai lần tiến công vào Tiên Động, quân Pháp bị thất bại thảm hại? Pôn Be sinh bệnh, chết đột ngột vào ngày 1 tháng 12 năm 1886. Người ta ướp xác Pôn Be đưa xuống tàu chở về nước Pháp vào buổi sáng ngày đông giá rét. Hôm đó Gia-mông, Gia-me, Béc-căng và nhiều tướng sỹ Pháp đều khóc, không phải chỉ vì thương xót Pôn Be mà còn khóc cho số phận binh nghiệp của bản thân mình. Gia-mông bỗng nhớ lại câu nói của Pôn Be:“Anh linh anh hùng Lãnh Mai vẫn còn sống trong tim mình thật!”.