1. ý chí độc lập và lòng khát khao tự do
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, lịch sử Việt Nam luôn là những cuộc thử nghiệm khắt khe và để lại một tấm gương phản chiếu chân thực. Điều này đã được Hồ Chí Minh cảm nhận từ tuổi thiếu niên nhờ khảo sát thực tiễn và đọc sử sách nước nhà. Bàn về lịch sử đất nước, Người đã chỉ ra rằng “tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Theo Người, “nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng (phong kiến Trung quốc)”. Trong giai đoạn chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh cũng có một tổng kết đặc sắc: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”.
Tuy nhiên, khi phải chống kẻ thù mới với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện và giai cấp công nhân đứng ở trung tâm của thời đại, trở thành một động lực của sự phát triển nhân loại, thì chỉ có tinh thần yêu nước, căm thù xâm lược và lòng khát khao độc lập tự do là chưa đủ để giành độc lập dân tộc và càng không thể đảm bảo cho độc lập dân tộc bền vững. Lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX trải qua một quá trình thử nghiệm mọi con đường cứu nước, để cuối cùng qua Hồ Chí Minh, tìm được con đường cứu nước đúng đắn. Đó là độc lập dân tộc gắn với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Trong truyền đơn cổ động mua báo Le Paria (viết đầu năm 1923), Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau” 6 .
6 Hồ Chí Minh: sđd , (phần Phụ lục), tr. 461.
Độc lập dân tộc gắn liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng trước hết là phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Dưới chế độ thuộc địa, nếu không giành được độc lập dân tộc thì sẽ không có gì hết. Dân tộc là sản phẩm của lịch sử sẽ tồn tại lâu dài. Theo Phạm văn Đồng, “hành trình của Hồ Chí Minh làm nổi rõ dân tộc là chỗ xuất phát, là đối tượng và địa bàn hoạt động. Dưới ánh sáng của học thyết Mác- Lênin và được trang bị bằng chủ nghĩa quốc tế vô sản, từng dân tộc dần dần biến đổi về chất và lớn lên, làm sống lại và phát huy truyền thống trong quá khứ, làm chủ hiện tại và xây dựng tương lai của mình”. Dân tộc trong quan điểm Hồ Chí Minh chứa đựng tâm lý, luân lý, vốn chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, tâm hồn... Những vốn quý báu đó của dân tộc đọng lại trong nhiều trang sử, truyền thuyết, phong tục tập quán, ca dao, tục ngữ... mà công lao thuộc về các vua Hùng, còn chúng ta có trách nhiệm nhớ quá khứ xa xưa để làm tốt công việc hôm nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy sự giải phóng từ sức mạnh ý chí độc lập, lòng khát khao tự do của dân tộc định hướng theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời, Hồ Chí Minh đã khẳng định đường lối đó: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Giai đoạn từ 1930 đến năm 1945, mục tiêu trực tiếp, trước hết là độc lập dân tộc, nhưng độc lập dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tuy chỉ là định hướng tiến lên của độc lập dân tộc, nhưng lại có ý nghĩa to lớn, làm cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc triệt để, sâu sắc và lớn mạnh hơn bao giờ hết. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”
Khi bàn về “Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh”, Phạm Văn Đồng phân tích: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập, tự do ở đây là độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, của con người. Độc lập đi liền với tự do là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng lời nói này là sự kết tinh những khát vọng thiết tha và cao đẹp nhất của mọi con người và mọi dân tộc, bởi nó khẳng định một chân lý vĩnh cửu...” 1 . Như vậy, không có gì quý hơn độc lập, tự do là sự đúc kết tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh từ khi Người được chủ nghĩa Mác- Lênin soi sáng đến tận cuối đời. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là “đề tài” duy nhất trong cuộc đời của nhà cách mạng chuyên nghiệp Hồ Chí Minh. Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Người đã nói rõ: nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập tự do khi ăn no, mặc đủ.
(1) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh, Nxb. CTQG, H, 1993, tr. 133.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” soi sáng sự nghiệp xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh cần được nhận thức trên mấy khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: mối quan hệ mật thiết giữa độc lập và hạnh phúc, tự do
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã bàn tới lý luận cách mạng không ngừng. Theo Các Mác, đối với những người cộng sản, vấn đề không phải là cải biến chế độ tư bản mà là xóa bỏ nó, không phải là làm lu mờ những đối kháng giai cấp mà là xóa bỏ những giai cấp, không phải là cải biến xã hội hiện hành mà là xây dựng một xã hội mới. Do đó khẩu hiệu chiến đấu của chúng ta phải là “cách mạng không ngừng”. V.I. Lênin sống trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, tức là thời đại của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Trong điều kiện đó, Lênin tiếp tục khẳng định lý luận cách mạng không ngừng của C. Mác, đồng thời trình bày một cách cụ thể lý luận về cách mạng không ngừng. Theo Lênin, cách mạng không ngừng phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa hai giai đoạn cách mạng đó không có một bức tường thành nào ngăn cách. Điều đó có nghĩa là giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ làm tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ.
Đối với cách mạng Việt Nam, từ năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định các giai đoạn cách mạng: dân tộc (tư sản dân quyền) dân chủ (thổ địa) và chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa). Đến năm1951, tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Người khẳng định lại các giai đoạn đó là tranh thống nhất và độc lập hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Năm 1953 khi bàn về “con đường giải phóng”, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, thì nhân Việt Nam tiến lên con đường giải phóng đúng đắn. Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Cách trình bày đó cho thấy hai giai đoạn cách mạng có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng có thứ tự trước sau: độc lập, thống nhất là nhiệm vụ trước mắt, hàng đầu; từng bước thực hành dân chủ. Hoàn thành tất cả các nhiệm vụ đó cũng có nghĩa xây dựng điều kiện để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nói hai bước là trình bày một cách tổng quát. Còn đi vào cụ thể, Hồ Chí Minh chỉ rõ “mục đích của Đảng là lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản”.
Vấn đề đặt ra là tại sao độc lập dân tộc lại là mục tiêu trước mắt? Điều này căn cứ vào việc xác định tính chất của cách mạng Việt Nam và mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam. Trước năm 1945, Việt Nam là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa một bên là thực dân Pháp xâm lược và bên kia là toàn thể dân tộc Việt Nam. Mâu thuẫn đó bao trùm và giằng xé các mâu thuẫn khác. Cách mạng Việt Nam phải tập trung toàn bộ trí lực vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tức là phải giành cho được độc lập dân tộc. Nếu không giành được độc lập thì không có gì hết. Ngay vấn đề dân chủ cũng phụ thuộc vào vấn đề dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ chống phong kiến phải rải ra từng bước và phục tùng nhiệm vụ dân tộc. Quyền lợi dân tộc không được giải quyết thì quyền lợi giai cấp, bộ phận không bao giờ thực hiện được. Tuy nhiên, để thúc đẩy nhiệm vụ dân tộc, phải từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ để động viên sức người, sức của toàn dân tộc.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, cách mạng Việt Nam vẫn thuộc phạm trù cách mạng giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ hàng đầu vẫn phải giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ.Tuy nhiên, lúc này không phải là giành độc lập dân tộc mà là bảo vệ độc lập dân tộc, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Trong điều kiện Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ dân tộc đã hàm chứa cả nhiệm vụ dân chủ và thực hiện nhiệm vụ dân chủ là thúc đẩy nhiệm vụ dân tộc. “Xưa nay, một phong trào dân tộc thật sự bao giờ cũng chứa đựng một nội dung dân chủ nhất định, bởi vì bất cứ giai cấp nào muốn đấu tranh để giành lại chủ quyền dân tộc hoặc muốn “tự mình trở thành dân tộc”, thì không thể không đồng thời thực hiện những yêu cầu dân chủ nào đó đối với quần chúng nhân dân, lực lượng quyết định thành bại của phong trào dân tộc” 1 .
(1) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, (in lần thứ tư), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 15.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Tuy nhiên, hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Tuy nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc “là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta” 2 , nhưng cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó “có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước” 1 . Hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng.
(2) Biên niên sử các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội 2006, t. 1, tr.590.
(1) Biên niên sử các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 591.
Tuy độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, trực tiếp nhưng có mối quan hệ rất chặt với hạnh phúc, tự do. Nó vừa là tiền đề của hạnh phúc tự do vừa hướng tới hạnh phúc tự do. Hiểu điều này như thế nào?
Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, thời kỳ 1945-1954 tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp tái xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc. Nhưng đây là giai đoạn thể hiện những nét đặc thù về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Chúng ta kháng chiến nhưng đồng thời xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân; kết hợp kháng chiến với kiến quốc, thi đua trên tất cả các lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa. Đây là giai đoạn chúng ta chuẩn bị tiền đề về mọi mặt để tiến tới chủ nghĩa xã hội, tức là tiến tới hạnh phúc, tự do của nhân dân. Trong Thường thức chính trị (1953), Hồ Chí Minh đã chỉ ra các tiền đề về chính trị, kinh tế, văn hóa.
Về tiền đề chính trị, công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Lãnh đạo được hay không là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác- Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo. Trên nền tảng đấu tranh, giai cấp công nhân xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác- Lênin. Đảng đó theo Hồ Chí Minh phải thật mạnh mẽ, trong sạch, sáng suốt, thống nhất. Tính chất của Đảng, nó là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc. Xây dựng Đảng, có ba mặt. Về tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin. Về đường lối chính trị, chống khuynh hướng “tả” và khuynh hướng “hữu”. Về tổ chức, Đảng phải có kỷ luật rất nghiêm. Đảng phải giữ chế độ dân chủ tập trung, nghĩa là có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương. Mục đích của Đảng là lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi chủ nghĩa cộng sản. Về mặt chính trị còn phải xây dựng chính quyền của nhân dân, lấy công nông liên minh làm nền tảng.
Về tiền đề kinh tế, phát triển nông nghiệp, công nghệ, thủ công nghệ, thương nghiệp, giao thông vận tải. Kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa. Các hợp tác xã có tính chất nửa xã chủ nghĩa xã hội. Chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ là công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài.
Về tiền đề văn hóa, xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của công. Phải chống văn hóa nô lệ của đế quốc và phong kiến. Tiền đề văn hóa còn có những con người mới, trước hết là những người đảng viên có giác ngộ chính trị, có lý tưởng, đạo đức, tác phong mới.
Nói tóm lại, để đi tới chủ nghĩa xã hội rồi chủ nghĩa cộng sản, tuy phát triển theo quy luật nhất định, nhưng tiền đề của các dân tộc khác nhau. Như Việt Nam ta là phải kinh qua chế độ dân chủ mới. Đặc điểm của dân chủ mới tạo ra tiền đề, bước đầu để tiến dần đến chế độ cộng sản, bảo đảm ai cũng no ấm, sung sướng, tự do, hạnh phúc:
“1) Dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến. Trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động.
2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như là Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại kinh tế ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả . Cho nên kinh tế ta phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản.
3) Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Mác- Lênin) là tư tưởng lãnh đạo, ngày càng phát triển và củng cố.
4) Đảng Lao động kiên quyết lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động (Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân có đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó như: công đoàn, nông hội, hội thanh niên, hội phụ nữ...) thực hiện dân chủ mới và tiến dần đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản).
5) Trong nước thì nhân dân ta hăng hái kháng chiến, thi đua sản xuất; quyết tâm phấn đấu, quyết tâm tiến lên. Trên thế giới thì có phe dân chủ hòa bình ủng hộ ta. Vì những lẽ đó ta nhất định thành công” 7 .
7 Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr. 247-248.
Thời kỳ 1954-1969 là thời gian Đảng và dân tộc ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Đây là giai đoạn biểu hiện rõ nét nhất độc lập dân tộc là tiền đề của hạnh phúc tự do vừa hướng tới hạnh phúc tự do. Nhiệm vụ hàng đầu, trước mắt là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Không giải phóng được miền Nam, thống nhất đất nước thì không thể nói tới xây dựng Tổ quốc Việt Nam phồn vinh. Đó chính là ý nghĩa tiền đề của sự nghiệp giải phóng miền Nam. Mặt khác, nhân dân miền Nam chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của Mỹ, ngụy đã có đích đến, một hiện thực hóa, đó là miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tuy đó mới chỉ là “chủ nghĩa xã hội thời chiến”, chứ không phải nằm ở trạng thái “chủ nghĩa xã hội là định hướng tiến lên” như giai đoạn 1930-1945 hoặc là chế độ dân chủ mới như giai đoạn 1945-1954. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa thời chiến, nhưng lại có một sức mạnh to lớn, vừa chiếu cố miền Nam, thúc đẩy cách mạng miền Nam, vừa đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Độc lập dân tộc còn là điều kiện của hạnh phúc tự do. Điều này cần được hiểu là không phải mọi thứ độc lập dân tộc trên đời này đều có thể đi tới hạnh phúc tự do. Vấn đề này diễn ra trên khắp thế giới và rất cụ thể ở Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng. Thời kỳ Cách mạng Tháng Tám, sau sự kiện hất cẳng Pháp, Chính phủ Nhật tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt Nam, bãi bỏ hình thức chính quyền cũ, đưa bọn Trần Trọng Kim ra thành lập ở Việt Nam chính phủ bù nhìn, khoác cho vua Bảo Đại cái áo “Quốc trưởng” để lừa bịp. Đến phút tận cùng, lực lượng thân Nhật vẫn tổ chức mít tinh tại Nhà hát thành phố để ủng hộ Chính phủ bù nhìn Trần Trong Kim. Còn nhân dân thì biểu tình tuần hành, hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo bù nhìn”, “ủng hộ Việt Minh”, “ Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Thời kỳ cách mạng miền Nam, từ chính quyền bù nhìn tay sai Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu đến Dương Văn Minh đều như vậy. Những chính quyền tay sai bù nhìn kiểu đó dù kêu gào độc lập, hay quan thầy của chúng tuyên bố trao trả độc lập, thì kiểu độc lập đó không thể và không bao giờ có thể đi tới hạnh phúc tự do. Chủ nghĩa thực dân cũ hay thực dân mới đều dựng lên một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ”giả hiệu. Đó là chỗ dựa của chủ nghĩa đế quốc. Và vì vậy, độc lập dân tộc mà chính quyền tay sai nêu lên là thứ độc lập dân tộc giả hiệu, độc lập dân tộc bánh vẽ. Thứ “độc lập dân tộc” đó sớm muộn sẽ lại đưa dân tộc ta trở lại con đường nô lệ.
Vậy thì điều kiện của độc lập dân tộc để đi tới hạnh phúc tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là gì? Đó phải là một nền độc lập hoàn toàn như khẩu hiệu của nhân dân. Tức độc lập trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến các vấn đề khác. Đó phải là nền độc lập triệt để như Hồ Chí Minh đã tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nướcViệt Nam”. Nền độc lập đó gắn liền với chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước mình. Đó là nền độc lập do chính nhân dân ta giành lấy theo tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” và toàn dân đại diện cho nền độc lập đó. Nền độc lập đó không dính dáng gì tới mọi quan hệ thực dân, mọi đặc quyền của bọn xâm lược. Nền độc lập của nhân dân Việt Nam liên quan tới vận mệnh của các dân tộc khác trên thế giới, tức là đứng về phe chính nghĩa để chống lại phi nghĩa, như chúng ta đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít. Nói cách khác, nền độc lập chứa đựng tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc. Chỉ có một nền độc lập như vậy mới là tiền đề, điều kiện để đi tới hạnh phúc tự do thật sự của nhân dân.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh từ khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn- giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản- đến tận cuối đời, đã cống hiến trọn vẹn cho nền độc lập dân tộc như vậy. Người cùng Đảng ta lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân tộc hướng tới hạnh phúc tự do, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, mang lại nội dung thời đại cho độc lập dân tộc, làm cho độc lập dân tộc đầy đủ và có hiệu quả nhất, tạo bước phát triển mới về chất trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và hạnh phúc tự do là giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Như phân tích ở trên, đây là sự lựa chọn của lịch sử, là quy luật khách quan, có tính tất yếu. Bởi vì, trải qua hơn 60 năm, từ lúc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) đến khi Nguyễn ái Quốc bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin (1920), sự sàng lọc của lịch sử bằng nhiều ngả đường khác nhau: độc lập dân tộc hướng tới thiết lập chế độ phong kiến (1858-1896); độc lập dân tộc hướng tới chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX đến trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời); độc lập dân tộc kiểu nông dân Yên Thế- cũng là một kiểu theo cốt cách phong kiến-, là cách kiểm nghiệm nghiêm khắc. Trong mối quan hệ với độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội mang lại hạnh phúc tự do là mục tiêu chiến lược. Bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 1 . “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” 1 .
(1) Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr.56.
(1) Hồ Chí Minh, Sđd, t.4, tr. 152.
Tuy nhiên, như phân tích ở trên, không phải thực hiện xong nhiệm vụ độc lập dân tộc rồi mới bắt tay làm nhiệm vụ các mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế, mỗi bước thực hiện nhiệm vụ giành độc lập dân tộc vừa luôn luôn hướng tới hạnh phúc tự do, vừa tạo tiền đề cho tự do hạnh phúc. Mục tiêu trước mắt luôn luôn được dẫn dắt bởi mục tiêu lâu dài. Nhiệm vụ lâu dài nhưng lại luôn có mặt trong nhiệm vụ trước mắt. Vì vậy, sự kết thúc thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ đồng thời mở đầu thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, trên thực tế là thực hiện một cách sinh động chân lý lớn nhất của thời đại ngày nay là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Vậy, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Hồ Chí Minh như thế nào để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới về chất trong tiến trình cách mạng Việt Nam? Chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh là một chế độ xã hội tiên tiến, kế thừa mọi thành quả xưa nay của loài người; không phải là một mô hình cứng nhắc, thu lại trong một số tiêu chuẩn mà các dân tộc phải khuôn theo. Về mục tiêu, chủ nghĩa xã hội phải đạt tới hòa bình, dân chủ, ấm no, tự do, hạnh phúc; về phương thức (phương pháp và cách thức) thì phải được xây dựng theo đặc điểm và con đường riêng của mỗi dân tộc. Mỗi một đặc trưng trong quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội phản ánh một khía cạnh của triết lý phát triển, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu ở phần sau. ở đây, chỉ nhìn một cách khái quát nhất quan điểm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trên các mục tiêu lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại.
Đó là một chế độ xã hội, về mặt chính trị, do nhân dân làm chủ về tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Biểu hiện và điều kiện quan trọng nhất để cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ là quan niệm về Nhà nước và xây dựng một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Chính phủ là công bộc của dân, được lòng dân.
Đó là một chế độ xã hội, về mặt kinh tế, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, lực lượng sản xuất phát triển, từng bước thực hiện dân giàu.
Đó là một chế độ xã hội có văn hóa, khoa học tiên tiến. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, trong đó điều quan trọng- với hạt nhân là con người mới- văn hóa phải là động lực, mục tiêu của cách mạng. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân, là một mặt trận. Xây dựng một nền văn hóa mới có tính dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn và tiến bộ.
Đó là một chế độ xã hội, về mặt xã hội, quan tâm tới con người, làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành, có đạo đức công dân, được chữa bệnh, có tín ngưỡng tự do, được hưởng quyền tự do dân chủ.
Đó là một chế độ xã hội, về mặt quan hệ trong nước, có quan hệ bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau giữa 54 dân tộc anh em, làm cho miền núi đuổi kịp miền xuôi, nông thôn tiến kịp thành thị, làm cho ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Đó là một chế độ xã hội, về mặt đối ngoại, làm bạn và có quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Hồ Chí Minh là công trình tập thể do nhân dân tự xây dựng lấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính theo học thuyết Mác- Lênin.
Những đặc trưng đó từ nhận thức đến thực tiễn thành mục tiêu cách mạng, không phải được thực hiện ngay một lúc mà là dần dần, một quá trình từ thấp đến cao, từ phạm vi hẹp đến rộng, từ nhận thức đến hành động. Bởi vì, “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc. Chúng ta lại phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong những điều kiện đặc biệt của nước ta, nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu và trong hoàn cảnh nước ta đang bị chia cắt làm hai miền” 1 . Chỉ có một chế độ xã hội như vậy thì mới thể hiện và làm sáng rõ được giá trị của độc lập, tự do; mới củng cố, bảo toàn được thành quả của độc lập tự do; tự bảo vệ mình; và điều quan trọng nhất là tạo ra một bước phát triển mới về chất mà xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc.
Thứ ba: Công cuộc đổi mới và chủ nghĩa xã hội theo đặc điểmViệt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Phạm Văn Đồng, “kết quả cuối cùng của công cuộc đổi mới là tạo ra một xã hội xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Việt Nam, mang đậm dấu ấn của thiên tài và cốt cách dân tộc, trong mục tiêu và động lực, trong con đường, bước đi và cách làm”. Nói cách khác, “chủ nghĩa xã hội theo đặc điểmViệt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp cách mạng ba giải phóng của Việt Nam, từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con đường phát triển vô hạn của dân tộc, xã hội và con người” 2 .
(1) Hồ Chí Minh, Sđd, t.8, tr. 493-494.
(2) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sợ nghiệp, Nxb. Sự thật, H, 1990, tr.85.
Đổi mới chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội theo bản sắc Việt Nam. Đó là một chế độ xã hội tiên tiến kế thừa mọi thành quả xưa nay của loài người. Chủ nghĩa xã hội không phải là một mô hình cứng nhắc, thu lại trong một số tiêu chuẩn, mọi dân tộc đều phải rập khuôn theo. Chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là một chế độ dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Nói ngắn gọn, đó là một xã hội có sự hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, được đo bằng chất lượng cuộc sống và giá trị nhân văn.
Để đạt được mục tiêu tốt đẹp đó, chúng ta phải tiến hành một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cũ kỹ, hư hỏng. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(Bài viết tham gia Đề tài khoa học cấp Bộ
Học viện CT- HC-QG Hồ Chí Minh)