T
om, đã bỏ lại chiếc xe wagon Renault xanh lục gần ga Porte d’Italie ở Paris, về tới Belle Ombre tầm một giờ sáng. Không có bóng đèn nào bật khi nhìn từ trước nhà, nhưng khi xách vali trèo lên cầu thang, anh vui sướng nhận thấy vẫn còn ánh đèn phát ra từ phòng của Heloise ở góc trái sau nhà. Anh đi vào để gặp cô.
“Cuối cùng đã quay lại! Paris thế nào? Anh đã làm gì?” Heloise mặc đồ ngủ bằng lụa màu xanh lục với một chiếc chăn satanh hồng nhồi lông vịt biển kéo đến eo.
“Ôi, tối nay anh đã chọn phải một bộ phim dở.” Tom thấy quyển sách cô đang đọc là một quyển mà anh đã mua nói về phong trào chủ nghĩa xã hội ở Pháp. Nó sẽ không giúp cải thiện quan hệ với cha cô đâu, Tom nghĩ. Heloise thường xuyên đưa ra những nhận xét tả khuynh, những nguyên tắc mà cô hoàn toàn không biết cách thực tế hóa. Nhưng Tom cảm thấy anh đang từ từ đẩy cô về phía cánh tả. Một tay đẩy, một tay kéo, anh nghĩ.
“Anh có gặp Noelle không?” Heloise hỏi.
“Không. Sao thế?”
“Tối nay cô ấy tổ chức một bữa tiệc tối. Em nghĩ vậy. Cô ấy cần thêm một khách nam nữa. Tất nhiên cô ấy đã mời cả hai chúng ta, nhưng em đã bảo cô ấy là có lẽ anh ở Ritz và hãy tự gọi cho anh.”
“Lần này anh ở khách sạn Crillon,” Tom nói, hài lòng ngửi mùi nước hoa của Heloise hòa với mùi Nivea. Và đồng thời anh cũng khó chịu để ý đến mùi hôi của mình sau chuyến tàu. “Mọi chuyện ở nhà ổn cả chứ?”
“Ổn cả,” Heloise nói với điệu bộ đầy mùi cám dỗ, dù Tom biết là cô không cố tình làm vậy. Cô chỉ muốn nói mình đã trôi qua một ngày bình thường và cô rất hạnh phúc.
“Anh muốn tắm. Gặp em sau mười phút nữa nhé.” Tom về phòng mình, anh tắm táp kỹ càng trong bồn chứ không phải dùng vòi hoa sen như trong phòng tắm của Heloise.
Vài phút sau – sau khi đã giấu bộ đồ da đến từ nước Áo của cô trong ngăn tủ dưới cùng, dưới vài chiếc áo len – Tom đã gà gật trên giường, cạnh Heloise, quá mệt để đọc tờ L’Express thêm nữa. Anh đang tự hỏi không biết tờ L’Express có ảnh chụp một trong hai gã mafia, hoặc cả hai, nằm cạnh đường ray tàu hỏa trong ấn bản tuần tới không? Gã vệ sĩ đó đã chết chưa? Tom hết lòng hy vọng rằng gã đã rơi xuống dưới đường ray bằng một cách nào đó, vì anh sợ gã chưa chết khi bị họ quẳng ra ngoài. Tom nhớ Jonathan đã kéo anh lại khi anh suýt ngã ra ngoài, và mắt vẫn nhắm chặt, anh nhăn mặt trước ký ức ấy. Trevanny đã cứu mạng anh, hoặc ít nhất thì cứu anh khỏi một cú ngã nguy hiểm mà nhiều khả năng sẽ bị bánh tàu nghiền nát một bàn chân.
Tom ngủ say và tỉnh dậy vào tầm tám rưỡi sáng, trước khi Heloise thức giấc. Anh xuống phòng khách uống cà phê, và bất chấp sự hiếu kỳ trong lòng, anh không hề bật đài radio lên nghe bản tin lúc chín giờ sáng. Anh đi dạo trong vườn, tự hào ngắm nhìn bụi dâu tây mà gần đây mới được cắt tỉa và nhổ cỏ dại, rồi nhìn ba bao rễ cây thược dược đã được giữ qua mùa đông và cần phải trồng sớm. Tom đang nghĩ đến việc thử gọi điện cho Trevanny vào chiều nay. Anh càng sớm gặp anh ta thì càng sớm giúp anh ta được thanh thản. Tom tự hỏi không biết Jonathan có để ý thấy gã vệ sĩ tóc vàng đã lo lắng nhặng xị không? Anh đã đi qua người gã trong lối đi khi từ toa ăn về toa tàu của mình, cách đó ba toa, gã trông như sắp phát điên vì tức tối và Tom đã khao khát muốn dùng thứ tiếng Ý đường phố của mình để nói, “Mày sẽ bị sa thải nếu chuyện này tiếp diễn hả?”
Bà Annette trở về từ chuyến đi mua đồ buổi sáng trước mười một giờ và khi nghe tiếng bà ta đóng cửa hông ở bếp, Tom bước vào để mượn tờ Le Parisien Libere.
“Xem lũ ngựa,” anh mỉm cười nói, cầm tờ báo lên.
“À, được chứ! Anh cá cược sao, anh Tome?”
Bà Annette biết thừa là anh không chơi cá cược. “Không, tôi chỉ muốn xem một anh bạn của tôi có thắng không thôi.”
Tom tìm thấy điều mình tìm kiếm ở cuối trang một, một bài báo ngắn dài khoảng bảy phân. Thắt cổ đúng phong cách Ý. Một người khác bị chấn thương trầm trọng. Người bị thắt cổ được nhận dạng là Vito Marcangelo, năm mươi hai tuổi, từ Milan. Tom quan tâm tới gã Filippo Turoli bị chấn thương trầm trọng hơn, ba mươi mốt tuổi, cũng đã bị đẩy khỏi tàu và chịu nhiều chấn động não, gãy xương sườn, và một cánh tay bị thương có thể bị cắt cụt trong bệnh viện nào đó tại Strassburg. Báo nói rằng Turoli đang hôn mê và lâm vào tình trạng nguy kịch. Báo còn thông tin thêm là một hành khách đã nhìn thấy một người trên đường tàu và báo với nhân viên trên tàu, nhưng trước đó thì tàu tốc hành Mozart xa hoa đã chạy được vài kilomet, tiến về phía Strassburg với tốc độ cao nhất. Sau đó đội cứu hộ phát hiện ra hai người. Người ta ước tính là mỗi người rơi ra ngoài cách nhau khoảng bốn phút, và cảnh sát đang năng nổ điều tra.
Rõ ràng là sẽ có thêm bài viết về đề tài này, thậm chí có cả ảnh chụp, trong các số báo tiếp theo, Tom nghĩ. Con số bốn phút là một khám phá thông minh đậm chất Pháp, như một bài toán hóc búa cho trẻ nhỏ, Tom nghĩ. Nếu một con tàu đang lao đi với tốc độ một trăm kilomet một giờ và một gã mafia bị quẳng ra ngoài, rồi ở khoảng cách sáu cây số và sáu trăm mét, một gã mafia khác được tìm thấy thì hai gã bị quẳng ra ngoài cách nhau bao lâu? Trả lời: bốn phút. Không một lời đề cập tới gã vệ sĩ thứ hai, rõ ràng là gã đang ngậm chặt miệng và không thốt ra một lời phàn nàn nào về dịch vụ trên tàu tốc hành Mozart.
Nhưng gã Turoli chưa chết. Và Tom nhận ra là gã có thể đã nhìn thấy anh trước khi bị đánh vào quai hàm, loáng thoáng biết anh trông thế nào. Gã cũng có thể miêu tả hoặc nhận dạng anh, nếu có ngày nhìn thấy anh lần nữa. Nhưng chắc là Turoli hoàn toàn chưa nhìn thấy Jonathan, vì anh ta đã đánh gã từ phía sau.
Tầm ba rưỡi chiều, khi Heloise đã tới chơi nhà Agnes Grais ở đầu kia của Villeperce, Tom tìm kiếm số cửa hàng của Trevanny ở Fontainebleau, và phát hiện ra mình vẫn nhớ đúng số.
Trevanny nghe máy.
“Xin chào. Tom Ripley đây. Về… về bức tranh của tôi. Hiện giờ anh đang ở một mình chứ?”
“Phải.”
“Tôi muốn gặp anh. Tôi có chuyện này quan trọng lắm. Anh có thể gặp tôi không, xem nào – sau khi anh đóng cửa hàng hôm nay đi? Tầm bảy giờ? Tôi có thể…”
“Được.” Anh ta nghe có vẻ căng thẳng.
“Tôi sẽ đậu xe quanh quán bar Salamandre nhé? Anh biết chỗ đó trên đường Grande chứ?”
“Có, tôi biết.”
“Sau đó chúng ta sẽ lái xe đi đâu đó và trò chuyện dăm ba câu. Bảy giờ kém mười lăm nhé?”
“Được,” Trevanny nói như nghiến răng nghiến lợi.
Anh ta sẽ thấy ngạc nhiên một cách dễ chịu, Tom nghĩ khi dập máy.
Buổi chiều, khi Tom đang ở trong xưởng vẽ, Heloise gọi điện về.
“Tom ơi! Em sẽ không về nhà đâu vì Agnes và em sẽ nấu một bữa ăn tuyệt vời và chúng em muốn anh tới đây. Antoine cũng ở đây, anh biết không. Hôm nay là thứ Bảy! Vậy nên hãy đến vào tầm bảy rưỡi, được chứ?”
“Tám giờ thì sao, em yêu? Anh đang tính làm việc muộn một chút.”
“Anh làm việc á?”
Tom mỉm cười. “Anh đang vẽ phác họa. Anh sẽ ở đó lúc tám giờ.”
Antoine Grais là một kiến trúc sư có vợ và hai con nhỏ. Tom mong đợi một buổi tối dễ chịu, thư giãn cùng các hàng xóm của mình. Anh lái xe tới Fontainebleau sớm để có thể mua một chậu cây – anh chọn một chậu hoa trà – làm quà cho nhà Grais, và coi đây là cớ để đến muộn, phòng hờ.
Ở Fontainebleau, Tom còn mua một tờ France-Soir để xem tin tức mới nhất về Turoli. Tình trạng sức khỏe của gã chưa có bất kỳ chuyển biến nào, nhưng báo nói hai gã người Ý này có vẻ là thành viên của băng mafia Genotti và có thể là nạn nhân của băng đảng đối địch. Ít nhất chuyện này cũng khiến Reeves hài lòng, Tom nghĩ, vì đó là mục đích của anh ta. Anh tìm được một chỗ đỗ ở trên vỉa hè cách Salamandre vài mét. Anh nhìn qua cửa kính sau xe và thấy Trevanny đang tiến về phía mình với bước đi chậm rãi đặc trưng, sau đó anh ta nhìn thấy xe của Tom. Trevanny mặc một chiếc áo mưa đã hết sức cũ nát.
“Xin chào!” Tom nói, mở cửa ra. “Vào trong đi và chúng ta sẽ lái tới Avon – hoặc đâu đó.”
Trevanny vào xe, chỉ lầm bầm đúng một câu xin chào.
Avon là thị trấn sinh đôi với Fontainebleau, nhưng nhỏ hơn. Tom lái xe xuống con dốc dẫn tới ga Fontainebleau-Avon và lách sang phải, trên con đường uốn lượn dẫn vào Avon.
“Mọi chuyện ổn thỏa hết chứ?” Anh nhẹ nhàng hỏi.
“Ổn cả,” Trevanny nói.
“Tôi đoán chắc anh cũng đã đọc báo.”
“Đúng thế.”
“Gã vệ sĩ đó chưa chết.”
“Tôi biết.” Kể từ lúc đọc báo ở Strassburg vào tám giờ sáng ngày hôm đó, Jonathan vẫn tưởng tưởng ra cảnh Turoli sẽ tỉnh dậy khỏi cơn mê bất kỳ lúc nào và miêu tả anh cùng Tom Ripley, hai kẻ đánh gã trên tàu.
“Tối qua anh đã trở về Paris à?”
“Không, tôi… tôi đã ở lại Strassburg và sáng nay đi máy bay về.”
“Không gặp rắc rối gì ở Strassburg chứ? Không gặp phải gã vệ sĩ thứ hai chứ?”
“Không,” Jonathan trả lời.
Tom đang chậm rãi lái xe, tìm kiếm một chỗ yên tĩnh. Anh lăn bánh lại gần lề đường trong một con phố nhỏ toàn những ngôi nhà hai tầng, dừng hẳn xe lại và tắt đèn đi. “Tôi nghĩ,” Tom nói, rút thuốc lá ra, “cân nhắc đến việc báo chí chưa hề thuật lại một manh mối nào – hoàn toàn không có manh mối đích đáng nào – chúng ta đã tiến hành một phi vụ khá ổn đấy. Gã vệ sĩ hôn mê là cản trở duy nhất.” Tom mời Jonathan một điếu thuốc lá nhưng anh ta tự hút thuốc của mình. “Anh đã được Reeves liên lạc chưa?” Tom hỏi.
“Rồi. Chiều nay. Trước khi anh gọi.” Sáng nay Reeves đã gọi điện và Simone nghe máy. Một người ở Hamburg. Một người Mỹ, cô thuật lại như vậy. Chỉ điều đó thôi đã đủ khiến Jonathan lo lắng, chỉ nội việc Simone nói chuyện với Reeves thôi, dù cho anh ta còn chưa hề để lại tên.
“Tôi hy vọng anh ta không khó khăn về chuyện tiền nong,” Tom nói. “Anh biết đấy, tôi đã thúc giục anh ta. Anh ta nên đưa toàn bộ tiền ngay lập tức.”
Và anh muốn nhận bao nhiêu, Jonathan muốn hỏi như vậy, nhưng quyết định để Ripley tự mình đề cập đến.
Tom mỉm cười và ngồi thả lỏng người sau vô lăng. “Chắc anh đang nghĩ là tôi muốn một phần trong số… bốn mươi nghìn bảng, có phải không? Nhưng thực tế là không.”
“À. Nói thật là tôi vẫn nghĩ anh muốn một phần tiền. Đúng là thế.”
“Đó là lý do tôi muốn gặp anh hôm nay. Một trong số các lý do. Lý do còn lại là để hỏi xem anh có lo lắng gì không…” Sự căng thẳng của Jonathan khiến Tom cảm thấy ngượng ngập, gần như bị thắt lưỡi lại. Anh cười khẽ. “Tất nhiên là anh lo lắng rồi! Nhưng lúc nào chẳng có nỗi lo này kia. Tôi biết đâu lại có thể giúp – đấy là nếu anh nói cho tôi nghe.”
Anh ta muốn gì nhỉ, Jonathan tự hỏi. Chắc chắn anh ta phải muốn gì đó chứ. “Tôi không hiểu lắm vì lý do gì mà anh lại ở trên tàu.”
“Vì đó là một niềm vui! Tôi rất vui được trừ khử, giúp trừ khử những kẻ như hai gã hôm qua. Chỉ đơn giản thế thôi! Đồng thời tôi cũng vui khi giúp anh kiếm được ít tiền vào túi. Dẫu vậy, điều tôi muốn nói là anh có gì lo lắng về chuyện chúng ta đã thực hiện hay không – dẫu theo chiều hướng nào đi nữa. Tôi rất khó diễn đạt thành lời. Có thể vì tôi hoàn toàn không lo lắng gì. Dẫu sao lúc này thì chưa.”
Jonathan cảm thấy choáng váng. Tom Ripley đang tỏ ra lảng tránh – theo một cách nào đó – hoặc đang đùa. Anh vẫn cảm thấy thù địch, có phần đề phòng anh ta. Vậy nhưng giờ đã quá muộn. Ngày hôm qua trên tàu, khi nhìn Ripley chuẩn bị tiếp quản nhiệm vụ, Jonathan đáng ra có thể nói “Được thôi, của anh cả đấy,” và bỏ đi, về lại ghế ngồi của mình. Điều đó vẫn chẳng thể xóa sạch phi vụ Hamburg mà Ripley đã biết, nhưng – ngày hôm qua thì tiền không còn là động cơ nữa. Anh chỉ là đã cực kỳ hốt hoảng, thậm chí cả trước khi Ripley đến. Giờ thì Jonathan cảm thấy mình không còn một vũ khí thích hợp để bảo vệ bản thân nữa. “Tôi đoán chừng anh chính là kẻ,” anh nói, “đã loan tin tôi sắp chết đến nơi. Anh đã cho Reeves biết về tôi.”
“Đúng,” Tom nói có phần hối lỗi nhưng rất kiên định. “Nhưng đó là lựa chọn của anh, không phải à? Anh đáng ra có thể từ chối ý tưởng của Reeves mà.” Anh đợi, nhưng Jonathan không hề trả lời. “Dẫu vậy, tôi tin là tình huống này đã tốt hơn đáng kể rồi đấy. Không phải sao? Tôi mong anh không ở gần lằn ranh sinh tử và anh cũng đã nhận được kha khá lúa – tiền, như anh gọi.”
Jonathan nhìn khuôn mặt của Tom sáng lên với nụ cười Mỹ đầy vẻ ngây thơ của anh ta. Không một ai khi nhìn khuôn mặt Tom hiện giờ lại có thể tưởng tượng cảnh anh ta giết người, thắt cổ người, vậy mà mới hai mươi tư giờ trước anh ta đã thực hiện tất cả những hành vi đó. “Anh có thói quen chơi khăm à?” Jonathan mỉm cười hỏi.
“Không. Không, chắc chắn là không phải rồi. Đây có thể là lần đầu tiên.”
“Và anh muốn – không muốn gì cả.”
“Tôi không thể nghĩ ra được điều gì mình muốn từ anh hết. Kể cả làm bạn, vì chuyện đó sẽ rất nguy hiểm.”
Jonathan rúm người lại. Anh bắt mình ngừng gõ ngón tay lên hộp diêm.
Tom có thể hình dung những gì anh ta đang nghĩ, rằng mình đã nằm trong lòng bàn tay của Tom Ripley, theo một cách nào đó, dù Ripley có muốn gì hay không. Anh nói, “Anh cũng nắm điểm yếu của tôi trong tay như tôi nắm điểm yếu của anh trong tay vậy. Tôi là người thực hiện việc thắt cổ, không đúng à? Anh cũng có thể đưa ra lời khai chống lại tôi giống như tôi chống lại anh. Hãy nghĩ thế.”
“Đúng vậy,” Jonathan nói.
“Nếu có một việc mà tôi muốn làm thì đó là bảo vệ anh.”
Giờ thì Jonathan bật cười còn Ripley thì không.
“Tất nhiên chuyện đó có thể không cần thiết. Hãy hy vọng là không. Rắc rối luôn đến từ những kẻ khác. Ha!” Tom thoáng nhìn qua kính chắn gió. “Chẳng hạn như vợ anh. Anh đã nói gì với cô ấy về khoản tiền mới chuyển vào tài khoản?”
Đó là một vấn đề, có thật, hữu hình, và chưa được giải quyết. “Tôi nói là mình được các bác sĩ Đức trả một khoản tiền. Họ đang làm thí nghiệm – với tôi.”
“Không tệ,” Tom đăm chiêu nói, “nhưng có khi chúng ta nên nghĩ ra cái gì đó tốt hơn. Vì rõ ràng là anh không thể giải trình cho cả khoản tiền lớn như thế, và cả hai người đều nên tận hưởng số tiền ấy. Thế nếu nói trong gia đình anh có người chết thì sao? Ở Anh? Một họ hàng xa chẳng hạn.”
Jonathan mỉm cười và liếc nhìn Tom. “Tôi đã nghĩ đến chuyện đó rồi, nhưng thật sự thì chẳng có ai hết.”
Tom có thể thấy rõ là Jonathan không có thói quen bịa chuyện. Tom, chẳng hạn, có thể bịa ra một câu chuyện nào đó cho Heloise ngay nếu đột nhiên anh nhận được một khoản tiền rất lớn. Anh có thể tạo ra một người họ hàng lập dị sống lánh đời ở đâu đó tận Santa Fe hay Sausalito từ nhiều năm nay, em họ thứ ba của mẹ anh, một người như vậy, rồi thêu dệt thêm cho nhân vật các chi tiết nhớ lại từ một chuyến gặp mặt ngắn ngủi ở Boston khi Tom còn bé xíu, dù thật ra anh mồ côi cha mẹ. Anh chẳng hề biết rằng người họ hàng này lại có một trái tim vàng. “Vậy nhưng với việc gia đình anh ở tận nước Anh xa xôi thì chuyện đó cũng dễ dàng thôi. Chúng ta sẽ nghĩ thêm về việc đó,” Tom nói thêm khi thấy rằng Jonathan chuẩn bị nói điều gì đó tiêu cực. Anh nhìn đồng hồ. “Tôi e là mình phải đi ăn tối rồi và chắc anh cũng vậy. Thêm một chuyện nữa, khẩu súng. Vấn đề nhỏ thôi, nhưng anh đã tống khứ nó chưa?”
Khẩu súng nằm trong túi áo mưa mà Jonathan đang mặc. “Tôi mang nó theo đây. Tôi rất muốn tống khứ nó đi.”
Tom chìa tay ra. “Đưa tôi nào. Tống khứ nó đi cho rảnh nợ.” Trevanny đưa súng cho anh và Tom đút nó vào hộp đựng găng tay ở ô tô. “Chưa bao giờ được sử dụng nên nó cũng không quá nguy hiểm đâu, nhưng tôi sẽ tống khứ nó vì nó là đồ Ý.” Anh dừng lại cân nhắc. Hẳn phải còn chuyện khác, và giờ là lúc nghĩ cho kỹ vì anh không định gặp lại Jonathan nữa. Sau đó anh nghĩ ra. “Tiện đây, tôi cho rằng anh nên nói với Reeves là anh đã một mình thực hiện phi vụ này. Anh ta không cần biết chuyện tôi cũng ở trên tàu. Như thế thì tốt hơn.”
Jonathan đã nghĩ đến phương án ngược lại và mất một lúc để tiếp nhận chuyện này. “Tôi cứ tưởng anh khá thân thiết với Reeves.”
“À thì chúng tôi thân thiện với nhau. Nhưng cũng không thân thiết gì. Chúng tôi vẫn giữ khoảng cách.” Theo một nghĩa nào đó thì Tom đang nói ra suy nghĩ của mình và đồng thời cũng cố gắng thể hiện một điều phù hợp để không dọa Trevanny sợ, để khiến anh ta vững tin hơn. Khá là khó khăn. “Không một ai ngoài anh biết chuyện tôi ở trên con tàu đó. Tôi đã mua vé dưới một cái tên khác. Trên thực tế thì tôi đã dùng hộ chiếu giả. Tôi nhận ra là anh gặp khó khăn với kế hoạch dùng thòng lọng, nên đã nói chuyện với Reeves qua điện thoại.” Tom khởi động xe và bật đèn lên. “Anh ta hơi khùng.”
“Tới mức nào?”
Một chiếc xe máy có đèn pha sáng trưng gào rú rẽ qua góc phố và ngang qua xe họ, át tiếng gầm gừ của ô tô trong vài giây.
“Reeves thích chơi trò chơi,” Tom nói. “Anh ta chủ yếu mua bán đồ ăn cắp, như anh đã biết, nhận hàng hóa rồi qua tay. Nó là một trò gián điệp ngớ ngẩn nhưng ít nhất thì Reeves chưa từng bị tóm – hay từng bị tóm nhưng rồi lại được thả ra. Tôi hiểu là anh ta đang làm ăn khá yên ổn ở Hamburg, nhưng tôi chưa từng đến nhà anh ta ở đó. Anh ta không nên nhúng tay vào mấy phi vụ kiểu này. Không phải nghề của anh ta.”
Jonathan cứ tưởng Tom Ripley là một vị khách quen mặt tại nhà Reeves Minot ở Hamburg. Anh nhớ Fritz đã mang một gói đồ nhỏ đến chỗ của Reeves tối hôm đó. Trang sức? Thuốc phiện? Jonathan quan sát cây cầu cạn quen thuộc đến hàng cây xanh sậm gần ga tàu thu dần vào tầm mắt, các ngọn cây sáng rực rỡ dưới ánh đèn đường. Chỉ có điều Tom Ripley ngồi kế bên anh không có gì thân thuộc hết. Nỗi sợ của Jonathan lại bùng lên như mới. “Nếu được phép hỏi – sao anh lại chọn tôi?”
Đúng lúc Tom gặp khó khi rẽ trái ở đỉnh đồi vào đại lộ Franklin Roosevelt và phải dừng lại chờ làn xe đang đi ngược chiều. “Vì một lý do nhỏ nhen, rất tiếc phải nói vậy. Buổi tối tháng Hai ấy ở bữa tiệc của anh – anh đã nói một điều mà tôi không thích.” Giờ đường đã vắng trước xe Tom. “Anh đã nói là ‘À, tôi đã nghe đến anh,’ với cái giọng khá khó chịu.”
Jonathan nhớ ra. Anh cũng nhớ tối hôm ấy mình cảm thấy cực kỳ mệt mỏi và do đó cũng trơ như đá. Vậy là chỉ vì một sự thô lỗ không đáng kể, Ripley đã lôi anh vào đống hỗn độn hiện thời. Mà phải nói là tự anh đã đưa chân vào đấy, Jonathan nhắc nhở mình.
“Anh sẽ không cần phải gặp lại tôi nữa,” Tom nói. “Tôi nghĩ nếu chúng ta không nghe được thêm tin gì về gã vệ sĩ thì phi vụ đó đã thành công.” Anh có nên nói “xin lỗi” với Jonathan không nhỉ? Kệ đi, Tom nghĩ. “Và đứng dưới góc độ đạo đức thì tôi mong anh đừng chỉ trích bản thân. Mấy gã đó cũng là sát nhân cả. Họ thường giết hại người vô tội. Vậy là chúng ta đã tự thi hành luật pháp thôi. Mafia sẽ là những kẻ đầu tiên đồng ý với việc người ta nên tự thi hành luật pháp. Đó là nền tảng lý luận của chúng.” Tom rẽ phải vào đường France. “Tôi sẽ không đưa anh về tận cửa đâu.”
“Bất kỳ đâu ở đây đều được. Cảm ơn nhiều.”
“Tôi sẽ cố gắng nhờ một người bạn đến lấy tranh hộ.” Anh dừng xe.
Jonathan xuống xe. “Tùy anh thôi.”
“Hãy gọi cho tôi nếu anh lâm vào rắc rối nhé,” Tom mỉm cười nói.
Ít nhất thì Jonathan cũng cười đáp lễ, như thể anh ta cũng thấy thích thú.
Jonathan đi bộ về phía đường St. Merry, và trong vài giây tiếp theo, anh dần cảm thấy tuyệt vời hơn – nhẹ nhõm. Phần lớn cảm giác nhẹ nhõm xuất hiện nhờ việc Ripley có vẻ không hề lo lắng – dù gã vệ sĩ vẫn còn sống, dù cả hai bọn họ dường như đã đứng cả thế kỷ trên chỗ nối giữa hai toa tàu ấy. Còn vấn đề tiền bạc – cũng tuyệt diệu như tất cả những chuyện khác vậy.
Anh đi chậm lại khi tiến gần đến ngôi nhà Sherlock Holmes, dù biết mình về muộn hơn thường lệ. Ngày hôm qua tấm thẻ lấy chữ ký của ngân hàng Thụy Sĩ đã được gửi đến cửa hàng của anh, Simone không hề mở thư và Jonathan đã ký vào thẻ rồi gửi đi ngay buổi chiều. Anh nhận được số tài khoản gồm bốn chữ số mà anh cứ nghĩ mình sẽ nhớ kỹ, nhưng thực tế đã quên. Simone chấp nhận việc anh đến Đức lần hai để khám bác sĩ chuyên khoa, nhưng sẽ không còn chuyến khám bệnh nào nữa, và Jonathan sẽ phải giải thích về khoản tiền nhận được – không phải toàn bộ nhưng một phần lớn trong số đó, chẳng hạn – đến từ việc tiêm, uống thuốc, và có khi anh còn phải đến Đức một, hai lần nữa chỉ để chứng minh câu chuyện các bác sĩ vẫn tiếp tục thí nghiệm. Một việc khó khăn, hoàn toàn không giống phong cách của anh. Anh hy vọng mình sẽ nảy ra một lời giải thích nào đó hợp lý hơn, nhưng biết sẽ chẳng có gì trừ phi anh vắt óc suy nghĩ.
“Anh về muộn,” Simone nói khi anh vào nhà. Cô đang ngồi với Georges trong phòng khách, sách tranh trải đầy sôpha.
“Nhiều khách hàng quá,” Jonathan nói và treo áo mưa lên móc. Bỏ đi được khẩu súng thật nhẹ nhõm. Anh mỉm cười với con trai. “Bé Sỏi của cha thế nào? Con đang làm gì đấy?” Anh hỏi bằng tiếng Anh.
Georges cười toe toét như một quả bí ngô vàng bé xinh. Một chiếc răng cửa đã gãy trong khi Jonathan tới Munich. “Con đang nhổ cỏ1,” Georges nói.
1 Georges bị nhầm giữa từ “weeding” (nhổ cỏ) và “reading” (đọc sách).
“Đọc sách chứ. Con nhổ cỏ trong vườn. Tất nhiên, trừ phi con bị ngọng.”
“Bị họng là gì ạ?”
Câu hỏi này dẫn đến câu hỏi khác. Như con giun cứ dài mãi không ngừng. Mà Worms là sao? Một thành phố ở Đức. “Nói ngọng – là khi con nói không sõi. B-b-begayer- đó là…”
“Ôi, Jon, nhìn này,” Simone nói, với lấy một tờ báo. “Trưa nay em không để ý. Nghe nhớ. Hai người đàn ông – không, ngày hôm qua một người đã bị giết trên chuyến tàu đi từ Đức tới Paris. Bị giết và đẩy khỏi tàu! Anh có nghĩ đó chính là chuyến tàu mà anh đã đi không?”
Jonathan nhìn bức ảnh chụp người chết trên sườn dốc, nhìn bản tường trình như thể chưa từng đọc… bị thắt cổ… một cánh tay của nạn nhân thứ hai có thể cần cắt bỏ… “Đúng rồi đấy – chuyến tàu tốc hành Mozart. Anh không nhận thấy có gì xảy ra trên tàu hết. Nhưng mà có tận ba mươi toa cơ mà.” Jonathan đã kể với Simone là tối qua anh về quá muộn nên không kịp bắt chuyến tàu cuối về Fontainebleau nên anh đã ở lại một khách sạn nhỏ ở Paris.
“Lũ mafia,” Simone nói, lắc đầu. “Chúng hẳn đã thuê cả một toa tàu và thả hết rèm xuống để thực hiện hành vi thắt cổ ấy. Tởm quá!” Cô đứng dậy, đi vào bếp.
Jonathan liếc nhìn Georges, thằng bé đang cúi người đọc một quyển truyện tranh Asterix. Anh chẳng muốn giải thích thắt cổ là gì.
Tối hôm ấy, dù còn cảm thấy hơi căng thẳng, Tom vẫn hết sức phấn khởi ở nhà Grais. Antoine và Agnes Grais sống trong một ngôi nhà đá tròn có tháp canh, xung quanh là các bụi hồng leo. Antoine gần bốn mươi, gọn gàng và khá khắt khe, là chủ nhân trong nhà và cực kỳ tham vọng. Anh ta làm việc trong một studio khiêm tốn ở Paris suốt cả tuần và cuối tuần về nông thôn với gia đình, rồi tự khiến bản thân mệt nhoài với việc làm vườn. Tom biết là Antoine thấy anh thật lười biếng, vì khu vườn của anh chỉ gọn gàng tương đương của anh ta, hẳn là một phép màu, trong khi cả ngày trời Tom có làm việc gì khác đâu. Món ăn ngon lành mà Agnes và Heloise chuẩn bị hóa ra là món tôm hùm với đủ loại hải sản hầm cơm, cùng hai loại xốt để lựa chọn.
“Tôi đã nghĩ một cách rất hay để khơi lên một đám cháy trong rừng,” Tom trầm tư nói khi họ đang uống cà phê. “Đặc biệt cực kỳ phù hợp ở phía Nam nước Pháp, nơi có vô số cây khô vào mùa hè. Anh gắn một cái kính lúp nhỏ vào một cây thông, mà kể cả mùa đông thì cách này cũng hiệu quả, và rồi khi mùa hè đến, mặt trời chiếu qua kính lúp và sẽ tạo ra một ngọn lửa nhỏ giữa đám lá thông. Anh đặt nó gần nhà của một kẻ mà anh không thích, tất nhiên rồi, và nó sẽ - bùng, tách, bùm! – Cả căn nhà cháy rừng rực! Cảnh sát hoặc nhân viên bảo hiểm gần như sẽ không thể tìm được cái kính lúp đó trong khu rừng cháy nham nhở, mà kể cả có tìm được đi nữa thì đã sao. Hoàn hảo, phải không?”
Antoine cười gượng gạo trong khi đám phụ nữ thì rít lên sợ hãi một cách tán thưởng.
“Nếu chuyện đó xảy ra với tài sản của tôi ở miền Nam thì tôi sẽ biết ai gây ra đấy nhé!” Antoine nói với giọng nam trung trầm ấm.
Gia đình Grais sở hữu một căn nhà nhỏ gần Cannes mà họ cho thuê vào tháng Bảy và tháng Tám khi tiền thuê cao nhất và giữ lại cho mình dùng vào các tháng mùa hè khác.
Dẫu vậy, Tom chủ yếu vẫn mải nghĩ đến Jonathan Trevanny. Một anh chàng cứng nhắc, giỏi chịu đựng, nhưng về cơ bản là đứng đắn. Anh ta sẽ cần thêm sự hỗ trợ – Tom hy vọng chỉ là hỗ trợ về mặt tinh thần mà thôi.