Heraclitus là một hiện tượng thật đẹp. Nếu được sinh ra ở Ấn Độ, hay ở phương Đông, hẳn ông ấy đã được biết đến như là Đức Phật. Nhưng trong bối cảnh của đất nước Hy Lạp, ông ấy là người xa lạ, là người ngoài cuộc. Ông ấy được biết đến ở Hy Lạp không phải là người được giác ngộ, mà là Heraclitus Khó hiểu, Heraclitus Tăm tối, Heraclitus Bí ẩn. Aristotle, cha đẻ của triết học Hy Lạp và triết học phương Tây, cho rằng Heraclitus chẳng có gì giống một nhà triết học. Aristotle nói: “Cùng lắm anh ta chỉ là một nhà thơ”, nhưng thậm chí ông ta cũng không muốn thừa nhận điều này. Về sau, Aristotle còn nói: “Hẳn phải có khiếm khuyết nào đó trong tính nết của Heraclitus, khiếm khuyết bẩm sinh; đó là lý do vì sao anh ta cứ nói theo cách mơ hồ khó hiểu, và nói về những thứ ngược đời”. Aristotle cho rằng Heraclitus hơi lập dị, hơi điên – và Aristotle đã chi phối toàn bộ tư tưởng của người phương Tây. Nếu Heraclitus được chấp nhận, hẳn toàn bộ lịch sử phương Tây đã rất khác. Nhưng không ai hiểu được ông ấy cả. Ông ấy ngày càng trở nên tách biệt với dòng tư tưởng chính thống của phương Tây.
Heraclitus giống như Phật Thích Ca Mâu Ni và Lão Tử. Mảnh đất Hy Lạp rõ ràng không phù hợp với ông ấy. Hẳn ông ấy phải là một cây đại thụ nếu sống tại phương Đông: hàng triệu người đã gặt hái được thành quả, hàng triệu người đã tìm thấy con đường của mình từ Heraclitus. Nhưng đối với người Hy Lạp, ông ấy chỉ là một gã kỳ quặc, lập dị, một người xa lạ, một kẻ ngoại lai; ông không thuộc về họ. Đó là lý do vì sao tên tuổi của ông ấy vẫn chỉ ở bên lề, trong góc tối; dần dần, ông ấy bị quên lãng.
Vào khoảnh khắc khi Heraclitus chào đời, chính khoảnh khắc ấy, loài người đã đạt đến một đỉnh cao mới, khoảnh khắc của sự biến đổi. Nó xảy ra với loài người giống như với một cá nhân: có những khoảnh khắc khi nhiều thay đổi xảy ra. Cứ mỗi bảy năm, cơ thể sẽ thay đổi, và nó sẽ tiếp tục thay đổi – nếu sống trong suốt bảy mươi năm, toàn bộ cơ quan sinh học của bạn sẽ thay đổi mười lần. Nếu biết tận dụng những khoảng hở này khi cơ thể thay đổi, bạn sẽ rất dễ dàng đi vào thiền tịnh.
Chẳng hạn như năm mười bốn tuổi, lần đầu tiên tình dục trở nên quan trọng. Cơ thể trải qua một cuộc thay đổi sinh hóa, và nếu vào khoảnh khắc đó, được bước vào chiều không gian của thiền, bạn sẽ rất dễ dàng tiến bộ bởi vì cơ thể khi đó chưa được định hình, mô hình cũ vừa mất đi còn cái mới thì chưa kịp đến – có một khoảng cách giữa quá trình biến đổi đó. Ở tuổi hai mươi mốt, một lần nữa, những thay đổi sâu sắc xuất hiện, bởi vì cứ mỗi bảy năm, cơ thể sẽ tự làm mới chính mình: tất cả những tế bào cũ sẽ bị loại bỏ và những tế bào mới xuất hiện. Ở tuổi ba mươi lăm, nó lại xảy ra một lần nữa, và cứ thế tiếp diễn. Cứ mỗi bảy năm, cơ thể của bạn sẽ đạt đến một điểm khi cái cũ ra đi và cái mới thế chỗ – và đó là giai đoạn chuyển đổi. Trong giai đoạn chuyển đổi này, mọi thứ đều ở thể lỏng. Nếu bạn muốn bước vào đời theo một chiều không gian mới, đó chính là khoảnh khắc để thực hiện.
Hiện tượng này cũng xảy ra trong lịch sử nhân loại nói chung theo cách tương tự. Cứ mỗi hai mươi lăm thế kỷ sẽ lại xuất hiện một đỉnh cao – và nếu biết tận dụng khoảnh khắc đó, bạn có thể dễ dàng được giác ngộ. Có những lúc sẽ không dễ dàng làm được bởi vì ở đỉnh cao đó, dòng sông sẽ chảy theo hướng đó; mọi thứ đều dễ thay đổi, không có gì là cố định.
Hai mươi lăm thế kỷ trước, Phật Thích Ca Mâu Ni và Mahavira (người sáng lập Kỳ Na giáo) đã chào đời tại Ấn Độ; tại Trung Quốc có Lão Tử và Trang Tử; tại Iran có Zarathustra, và tại Hy Lạp có Heraclitus. Họ là những đỉnh cao của nhân loại.
Chưa từng có một đỉnh cao nào như thế trước đó, hoặc nếu có, họ không thuộc một phần của lịch sử… bởi vì lịch sử bắt đầu với Jesus.
Bạn không biết điều gì đã xảy ra cách đây hai mươi lăm thế kỷ. Một lần nữa, khoảnh khắc đó đang đến, và chúng ta lại ở trong trạng thái thay đổi: cái cũ trở nên vô nghĩa, quá khứ không có chút ý nghĩa nào với bạn, tương lai thì bất định – khoảng cách đó đang hiện hữu. Và một lần nữa, nhân loại sẽ đạt đến đỉnh cao, cùng đỉnh cao như với thời của Heraclitus. Nếu nhận biết một chút, bạn có thể tận dụng khoảnh khắc này – khi mọi thứ ở thể lỏng, sự biến đổi sẽ dễ dàng. Khi mọi thứ cố định, sự biến đổi trở nên khó thực hiện.
Heraclitus quả là một hiện tượng hiếm có, một trong những tâm hồn sâu sắc nhất, một trong những linh hồn giống như đỉnh Everest, đỉnh núi cao nhất của dãy Himalaya. Hãy cố hiểu ông ấy. Điều này không dễ dàng, đó là lý do vì sao ông ấy bị gọi là Heraclitus Khó hiểu. Ông ấy không khó hiểu, nhưng để hiểu được ông ấy là việc khó; để hiểu được ông ấy, bạn cần một bản thể khác – khó là ở chỗ đó. Cho nên, người ta thấy dễ dàng hơn khi gọi Heraclitus là kẻ khó hiểu, rồi lãng quên ông ấy.
Có hai loại người. Nếu muốn hiểu Aristotle, bạn không cần phải thay đổi bản thể của mình, bạn chỉ cần một ít thông tin. Trường học có thể cung cấp thông tin về logic, triết học; bạn có thể thu thập một số kiến thức và sẽ hiểu được Aristotle. Bạn không cần thay đổi để hiểu ông ta, bạn chỉ cần bổ sung thêm một ít kiến thức. Bản thể vẫn không thay đổi, bạn vẫn không thay đổi. Bạn không cần một chiều nhận thức khác; không cần thiết. Aristotle không có gì khó hiểu. Nếu muốn hiểu ông ấy, bạn chỉ cần một chút cố gắng; những ai có trí tuệ và tư duy trung bình đều có thể hiểu được ông ấy. Nhưng để hiểu được Heraclitus là việc gian nan, khó thực hiện bởi vì bất kể kiến thức nào thu thập được đều không mấy hữu ích; thứ kiến thức nhồi nhét sẽ không giúp ích được gì. Bạn cần một bản thể khác, và đó là điều khó khăn. Bạn cần biến đổi. Do đó, Heraclitus mới bị gọi là kẻ khó hiểu.
Khi nói chuyện, Heraclitus trông như thể đang gây khó khăn cho người nghe, ông ấy trông như đang thích thú với những điều gây khó hiểu đó, bởi vì ông ấy nói về những thứ ngược đời, nghịch lý.
Tất cả những người biết đều luôn nói về những thứ ngược đời. Điều đó chứa đựng ý nghĩa của nó – họ không nói những điều khó hiểu, họ rất đơn giản. Nhưng mà họ có thể làm được gì khác? Nếu cuộc sống vốn luôn chứa đựng nghịch lý, vậy họ có thể làm được gì? Chỉ cần né tránh nghịch lý, bạn có thể tạo ra những học thuyết rành mạch, dễ hiểu, nhưng chúng là giả mạo, chúng không đúng với cuộc sống. Aristotle là người rất gọn gàng, ngăn nắp; ông ấy trông giống như một khu vườn được cắt tỉa công phu. Heraclitus giống như bài đoán đố. Ông ấy là một khu rừng hoang sơ.
Với Aristotle, không có gì khó; ông ấy né tránh những nghịch lý, ông ấy tạo ra một học thuyết rành mạch, dễ hiểu – nó hấp dẫn mọi người. Bạn sẽ hoảng sợ khi đối mặt với Heraclitus bởi vì ông ấy mở cánh cửa của cuộc đời mà cuộc đời lại chứa đầy nghịch lý. Đức Phật là một nghịch lý, Lão Tử là một nghịch lý; tất cả những người hiểu biết đều chứa đầy nghịch lý. Họ có thể làm được gì? Nếu cuộc sống là nghịch lý, họ phải chân thật với cuộc sống. Và cuộc sống không tuân theo logic. Nó là logos* nhưng không tuân theo logic. Nó là vũ trụ, không phải là sự hỗn loạn, nhưng nó không tuân theo logic.
* Logos (tiếng Hy Lạp cổ) có nghĩa là vũ trụ.
Bạn cần phải hiểu được từ logos bởi vì Heraclitus sử dụng nó. Và bạn cũng cần phải hiểu được sự khác biệt giữa logos và logic. Logic là một học thuyết về điều gì đúng, còn logos tự nó là chân lý. Logos là hiện hữu, logic là không hiện hữu; logic thuộc trí tuệ, thuộc lý thuyết. Hãy phân biệt điều này. Nếu nhìn thấy sự sống, bạn sẽ nói rằng có cả cái chết. Làm sao bạn có thể tránh cái chết? Nếu bạn nhìn vào sự sống, cái chết là điều hiển nhiên. Mỗi khoảnh khắc của cuộc sống cũng chính là khoảnh khắc của cái chết; bạn không thể tách rời chúng. Nó trở thành một điều bí ẩn.
Sự sống và cái chết không phải là hai hiện tượng tách rời; chúng là hai mặt của một đồng xu, là hai khía cạnh của cùng một vấn đề. Nếu đi thật sâu vào, bạn sẽ nhận thấy rằng sự sống là cái chết và cái chết là sự sống. Ngay khoảnh khắc chào đời, bạn đã bắt đầu chết dần. Và nếu đúng như vậy thì ngay khi bạn chết, bạn bắt đầu sống trở lại. Nếu cái chết là điều hiển nhiên trong sự sống, vậy sự sống cũng là điều hiển nhiên trong cái chết. Chúng thuộc về nhau, chúng bổ trợ cho nhau.
Sự sống và cái chết giống như hai tay hoặc hai chân: bạn không thể chỉ di chuyển với chân trái hoặc chân phải. Trong cuộc sống, bạn không thể là người thuận bên trái hay bên phải, bạn phải thuận cả hai. Với các học thuyết, bạn có thể thuận bên phải, hoặc thuận bên trái. Học thuyết không bao giờ và không thể đúng trong cuộc sống, bởi vì học thuyết, nếu cần, phải thật sạch sẽ, gọn gàng, trong sáng, còn sự sống thì lại không như vậy, sự sống phải rộng lớn. Whitman, một trong những nhà thơ vĩ đại của thế giới, đã nói: “Ta mâu thuẫn với chính mình bởi vì ta rộng lớn”.
Bằng logic, bạn sẽ chỉ có được một tâm trí rất nhỏ bé, bạn không thể rộng lớn. Nếu e ngại sự mâu thuẫn, bạn không thể trở nên rộng lớn. Khi đó, bạn phải lựa chọn, khi đó bạn sẽ phải đè nén, khi đó bạn sẽ phải tránh né sự mâu thuẫn, khi đó bạn sẽ phải che giấu nó – nhưng bằng cách che giấu đó, liệu nó có biến mất? Bằng cách không nhìn vào cái chết, liệu bạn sẽ không chết?
Bạn có thể né tránh cái chết, bạn có thể quay lưng lại với cái chết, bạn có thể hoàn toàn lãng quên nó? Đó là lý do chúng ta không nói về cái chết; nói về cái chết là người có nhân cách tốt. Chúng ta không nói về cái chết, chúng ta né tránh cái chết. Cái chết xảy ra mỗi ngày, khắp nơi, nhưng chúng ta né tránh nó. Ngay khi có người chết, chúng ta vội vã đem chôn. Chúng ta lập các nghĩa trang bên ngoài thành phố để không ai đến đó. Và rồi có cả những ngôi mộ khảm đá cẩm thạch với những dòng chữ thật đẹp bên trên. Chúng ta đến và đặt hoa lên mộ. Bạn đang làm gì vậy? Bạn đang tìm cách trang trí cho nó.
Ở phương Tây, che giấu cái chết đã trở thành một nghề. Các chuyên gia sẽ giúp bạn né tránh cái chết, để khiến cho thi thể trở nên thật đẹp như thể người đó vẫn còn sống. Bạn đang làm gì vậy? Liệu cách đó có giúp ích được gì? Cái chết hiện hữu. Bạn đang đi đến nghĩa trang; dù được gọi theo cách nào thì cũng chẳng có gì khác biệt – bạn sẽ đến đó. Bạn đã trên đường đến đó, bạn đang đứng xếp hàng chờ đến lượt mình, chỉ chờ đợi cho đám đông ngắn lại. Bạn có thể chạy đi đâu để thoát khỏi cái chết?
Nhưng logic luôn tìm cách rõ ràng, và để rõ ràng, nó né tránh. Logic cho rằng sự sống là sự sống, cái chết là cái chết – chúng tách rời nhau. Aristotle nói A là A, không thể nào là B. Quan điểm này đã trở thành nền tảng vững chắc trong tư tưởng của người phương Tây: né tránh mâu thuẫn – yêu là yêu, ghét là ghét; yêu không thể nào là ghét. Điều này thật ngớ ngẩn bởi vì trong yêu có ghét, bắt buộc phải như thế; đó là cách vốn có của tự nhiên. Bạn yêu một người và bạn ghét cùng một người, nó phải diễn ra như thế; bạn không thể né tránh. Nếu tìm cách né tránh, mọi thứ sẽ trở thành giả tạo.
Đó là lý do vì sao tình yêu của bạn trở thành giả tạo: nó không thật, không chân thành. Tình yêu đó không thể chân thành được, nó chỉ là bề nổi. Vì sao nó lại là bề nổi? Bởi vì bạn đang né tránh mặt trái của nó. Bạn nói: “Anh là bạn của tôi và một người bạn không thể nào là kẻ thù. Còn anh là kẻ thù của tôi, anh không thể nào là bạn”. Nhưng đây là hai mặt của một đồng xu, kẻ thù là người bạn ẩn danh, và người bạn là kẻ thù ẩn danh. Mặt khác đang ẩn giấu nhưng nó hiện hữu ở đó. Sẽ thật quá sức nếu bạn nhìn thấy cả hai mặt cùng một lúc, đó là điều nằm ngoài sức chịu đựng. Nếu nhìn thấy kẻ thù trong một người bạn, bạn sẽ không thể nào yêu anh ta. Nếu nhìn thấy người bạn trong kẻ thù, bạn sẽ không thể nào ghét anh ta. Cuộc sống sẽ trở nên khó hiểu.
Heraclitus được gọi là kẻ khó hiểu. Ông ấy không khó hiểu, ông ấy chỉ sống đúng với cuộc đời. Cho dù cuộc sống đó là gì, ông ấy chỉ đơn giản tường thuật lại nó. Ông ấy không có học thuyết về cuộc sống, ông ấy không phải là người tạo ra hệ thống – ông ấy chỉ là một tấm gương soi. Ông ấy chỉ mô tả cuộc sống theo cách vốn có của nó. Khuôn mặt của bạn thay đổi, tấm gương sẽ phản chiếu điều đó; bạn đang yêu, tấm gương sẽ phản chiếu điều đó; khoảnh khắc tiếp theo, bạn trở nên đầy thù hận, tấm gương cũng sẽ phản chiếu hình ảnh đó. Tấm gương không gây khó hiểu, nó phản ánh sự thật.
Aristotle không giống như tấm gương, ông ấy là một bức ảnh chết. Nó không thay đổi, không dịch chuyển với cuộc sống. Đó là lý do Aristotle cho rằng có điều gì đó khiếm khuyết ở con người tên Heraclitus này, khiếm khuyết trong tính cách. Đối với Aristotle, tâm trí phải rõ ràng, có hệ thống, có lý trí; logic phải là mục tiêu của cuộc sống và bạn không được hòa lẫn với những thứ đối lập. Nhưng ai hòa lẫn chúng? Heraclitus không hòa lẫn chúng.
Chúng hiện hữu ở đó, hòa vào nhau. Heraclitus không có trách nhiệm về việc đó. Và làm cách nào bạn có thể tách rời chúng nếu tự chúng đã hòa vào nhau? Đúng là trong sách giáo khoa, bạn có thể làm được, nhưng những cuốn sách đó là giả. Về cơ bản, một tuyên bố logic là giả bởi vì nó không thể là tuyên bố về cuộc sống. Và một tuyên bố về cuộc sống sẽ không logic bởi vì cuộc sống tồn tại thông qua những mâu thuẫn.
Bệnh tật không có gì là tồi tệ. Qua bệnh tật bạn mới khỏe mạnh trở lại. Mọi thứ gắn kết trong mối hài hòa – đó là lý do vì sao Heraclitus bị gọi là kẻ khó hiểu. Hẳn Lão Tử sẽ hiểu ông ấy một cách sâu sắc, nhưng Aristotle thì không. Tiếc thay, Aristotle lại là nhà triết học, nhà tư tưởng vĩ đại nhất của Hy Lạp. Và thật đáng tiếc hơn nữa khi tư tưởng Hy Lạp lại là nền móng của tư tưởng phương Tây.
Vậy thông điệp của Heraclitus là gì, thông điệp sâu sắc nhất? Hãy hiểu để bạn có thể làm theo. Ông ấy không tin vào sự vật, ông ấy tin vào quá trình – đối với ông ấy, quá trình là tối thượng. Và nếu quan sát thật kỹ, bạn sẽ nhận thấy rằng sự vật không tồn tại trên thế giới này; mọi thứ đều là một quá trình. Trên thực tế, việc sử dụng từ “là” (is) đều sai về mặt hiện hữu, bởi vì mọi thứ đều đang trở thành. Không có gì ở trạng thái “là” (isness), không gì cả!
Bạn nói: “Đây là cái cây”. Vào thời điểm bạn nói ra điều đó, cái cây đã lớn; tuyên bố của bạn không còn đúng nữa. Cái cây không bao giờ ở trạng thái tĩnh, vậy sao bạn có thể sử dụng từ “là”? Nó luôn đang trở thành, trở thành một thứ khác. Mọi thứ đều phát triển, chuyển động, theo một quy trình. Cuộc sống là sự chuyển động. Nó giống như dòng sông, không ngừng chảy. Heraclitus nói: “Bạn không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, bởi vì vào thời điểm bước xuống dòng sông lần thứ hai, nó đã thay đổi. Nó là một dòng chảy. Liệu bạn có thể gặp cùng một người tới hai lần? Không thể nào! Bạn cũng đã ở đây vào sáng hôm qua, nhưng liệu tôi có còn là tôi của hôm qua? Bạn có còn là bạn của hôm qua? Cả hai dòng sông đều đã thay đổi. Bạn có thể lại ở đây vào ngày mai, nhưng bạn sẽ không tìm thấy tôi; người khác sẽ ở đây, không phải tôi.
Cuộc sống luôn thay đổi. “Chỉ có sự thay đổi là mãi mãi”, Heraclitus nói. Chỉ có sự thay đổi mới không thay đổi. Mọi thứ khác đều thay đổi. Ông ấy tin vào một vòng quay vĩnh cửu. Mọi thứ đều xoay vòng. Đây chính là cách thức tồn tại của mọi thứ. “Như là” có nghĩa là “trở thành”. Vẫn ở nơi bạn đang hiện hữu có nghĩa là chuyển động; bạn không thể đứng yên, không có gì là bất động. Ngay cả ngọn đồi, dãy Himalaya cũng không đứng yên, chúng chuyển động, chuyển động nhanh.
Chúng được sinh ra, sau đó chúng chết đi. Dãy Himalaya là một trong những dãy núi trẻ nhất thế giới, và nó vẫn không ngừng phát triển. Nó chưa đạt đến đỉnh cao, nó vẫn còn rất trẻ, mỗi năm nó lại cao thêm khoảng ba mươi xen-ti-mét. Có những dãy núi già nhưng chưa đạt được đến đỉnh cao của chúng; giờ thì chúng trở nên già nua, lưng còng, gập xuống.
Những bức tường mà bạn nhìn thấy xung quanh bạn, mỗi phân tử trong đó đều chuyển động. Bạn không thể nhìn thấy sự chuyển động đó bởi vì nó rất nhanh và khó nhận thấy. Giờ đây, các nhà vật lý đồng ý với Heraclitus, không phải với Aristotle. Hãy nhớ. Bất cứ khi nào khoa học tiến gần hơn đến thực tại, người ta lại đồng ý với Lão Tử và Heraclitus. Giờ đây, các nhà vật lý đều nói rằng mọi thứ luôn chuyển động. Eddington đã nói rằng từ sai duy nhất là nghỉ ngơi. Không có gì nghỉ ngơi, không gì có thể nghỉ ngơi; đó là một từ sai, nó không tương ứng với thực tại. Khi Heraclitus nói về dòng sông – và dòng sông mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với ông ấy – rằng bạn không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, ông ấy cũng nói rằng ngay cả nếu bạn có thể làm được điều đó thì bạn cũng không còn là bạn. Bạn chỉ trông giống ở bề mặt thôi.
Không chỉ dòng sông thay đổi, bạn cũng đã thay đổi. Đây là thông điệp sâu sắc nhất của Heraclitus: mọi thứ đều trôi theo dòng và thay đổi; mọi thứ đều di chuyển, không có gì đứng im. Và khoảnh khắc bạn neo bám, bạn sẽ bỏ lỡ thực tại. Sự neo bám của bạn trở thành vấn đề, bởi vì thực tại thay đổi, còn bạn lại neo bám.
Không, bạn không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông. Điều đó không thể xảy ra. Đừng neo bám; nếu neo bám, bạn sẽ tạo ra địa ngục. Neo bám là địa ngục, và tâm thức không neo bám luôn là thiên đường. Bạn di chuyển theo tâm trạng, bạn chấp nhận tâm trạng, bạn chấp nhận sự thay đổi; không ác cảm, không phàn nàn về nó bởi vì đây chính là cuộc sống. Bạn có thể tranh đấu, nhưng bạn không thể thay đổi.
Hãy chân thành với cái tôi luôn thay đổi của bạn, bởi vì đó là thực tại duy nhất.
Cuộc sống di chuyển từ điểm cực này sang điểm cực khác. Và Heraclitus cho rằng đây chính là bí mật, sự hòa hợp tiềm ẩn.
Có một câu chuyện như sau:
Khi một vài người khách bất ngờ nhìn thấy Heraclitus đang sưởi ấm bên bếp lửa, ông nói với họ: “Đây cũng là Thượng đế”.
Ông ấy không bao giờ đi đến đền thờ, bởi vì nếu bạn là người có tâm thức, nếu mắt bạn mở to, nếu bạn có thể nghe và cảm nhận, vậy thì cần gì phải đi đến đền thờ? Đây cũng là Thượng đế.
Thượng đế không phải là con người. Thượng đế là tất cả. Thượng đế là hiện hữu.
Hãy tưởng tượng hình ảnh này: Heraclitus đang ngồi sưởi ấm bên bếp lửa. Tiếng lách tách của củi đang cháy, những ngọn lửa bùng lên hướng tới thiên đường, hơi ấm… Đó hẳn phải là một đêm đông giá rét, những vị khách bất ngờ ghé thăm và hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”. Và Heraclitus đáp: “Đây cũng là Thượng đế”. Ông ấy muốn nói rằng đây chính là lời cầu nguyện, việc tự sưởi ấm là một lời cầu nguyện nếu ngọn lửa trở thành một hiện tượng thiêng liêng.
Câu chuyện này khiến tôi nhớ đến Thiền sư Ikkyu. Một lần nọ, Thiền sư Ikkyu ghé vào một thiền viện để nghỉ qua đêm. Đêm hôm đó rất lạnh nên ông ấy phải nhóm lửa. Tìm khắp nơi không thấy củi, ông bèn lấy một pho tượng Phật xuống đốt. Bị đánh thức bởi tiếng ồn, lửa, vị sư trù trì choàng tỉnh nhưng không tin vào mắt mình, bởi vì đây không phải là nhà sư bình thường mà là một thiền sư nổi tiếng. Nhảy khỏi giường, vị sư trụ trì hỏi:
– Ngài đang làm gì thế? Ngài đã đốt một pho tượng Phật đấy!
Ikkyu lấy một que củi tìm xá lợi trong đống tro – bức tượng đã cháy gần hết, không còn lại gì.
Vị sư trụ trì hỏi:
– Ngài đang tìm gì vậy? Bức tượng không còn nữa.
Ikkyu đáp:
– Ta đang tìm xá lợi, hẳn Phật phải có xá lợi.
Vị sư cười lớn nói:
– Giờ thì tôi tin chắc rằng ngài đã bị điên. Làm sao một bức tượng gỗ lại có xá lợi?
Ikkyu đáp:
– Vậy hãy mang đến đây thêm hai bức tượng Phật nữa, bởi vì đêm hãy còn dài và rất lạnh, Phật trong ta cần sưởi ấm. Đây chỉ là những bức tượng Phật bằng gỗ, nên đừng lo lắng. Còn bên trong ta là xá lợi thật, là Phật thật, và Phật trong ta cần chút hơi ấm. Những bức tượng Phật kia chẳng có ích gì, chúng không có xá lợi, vậy nên đừng lo lắng.
Vị sư trụ trì đuổi ông ra khỏi thiền viện. Đêm rất lạnh nhưng có những người vẫn tôn thờ tượng Phật gỗ và đuổi Phật thật ra ngoài. Sáng hôm sau, vị sư trụ trì nhìn ra ngoài xem điều gì đã xảy ra với Ikkyu: ông ấy đang ngồi ngay bên ngoài thiền viện, gần một cột cây số và tôn thờ nó. Mặt trời đã lên cao, sáng hôm đó thật đẹp, ông đã tìm thấy đâu đó một vài bông hoa và đặt chúng lên cột cây số, tôn thờ chúng. Vị sư trụ trì chạy đến hỏi:
– Ngài đang làm gì vậy? Ngài điên loạn thật rồi! Suốt đêm thì ngài đòi đốt tượng Phật, còn giờ thì ngài tôn thờ một cột cây số.
Ikkyu đáp:
– Đây cũng là Trời.
Heraclitus nói:
– Đây cũng là Thượng đế.
Nếu bạn có thể cảm nhận được mỗi khoảnh khắc đều thiêng liêng và mọi thứ đều thiêng liêng, tất cả những gì hiện hữu đều thiêng liêng. Nếu bạn không cảm nhận được, hãy đến các thiền viện, các đền chùa, nhưng bạn sẽ không tìm thấy gì ở đó cả – bởi vì chính bạn mới cần thay đổi, không phải bối cảnh hay tình huống đó. Tình huống đó vẫn không thay đổi: bên trong thiền viện, bên ngoài thiền viện, khắp nơi đều có Thượng đế. Chỉ có bạn không thể nhìn thấy nên bạn thay đổi địa điểm. Bạn rời khỏi nhà để đến đền thờ tìm kiếm Thượng đế.
Bạn cần một sự biến đổi từ bên trong.
Sự thay đổi trong tình huống này không giúp ích được gì. Bạn cần thay đổi tâm lý. Bạn cần nhìn nhận mọi việc theo cách hoàn toàn mới; khi đó, bỗng nhiên cả thế giới sẽ trở thành thiền viện, sẽ không còn gì khác.
Đối với Heraclitus, lửa trở thành biểu tượng, và lửa là một biểu tượng đẹp. Heraclitus nói rằng lửa là nền tảng của mọi sự hiện hữu, rằng mọi thứ không là gì khác ngoài các dạng điện cực.
Heraclitus nói rằng đó là lửa. Có gì khác biệt ở đây? Lửa là một từ đẹp hơn điện. Lửa mang lại cảm giác sống động hơn so với điện, lửa hoang dại hơn điện. Khi bạn nói điện là nền tảng, như thể cả vũ trụ đều giống như máy móc bởi vì điện gắn liền với hệ thống máy móc, và khi đó Thượng đế trông giống như một kỹ sư, nhưng điện chính là lửa.
Người Hindu gọi yếu tố cơ bản này là prana – năng lượng sự sống, nhưng sự sống chính là lửa. Khi bạn sống động, đầy sức sống, bạn sôi nổi, bùng cháy. Henri Bergson đã gọi nền tảng của tất cả là élan vital – lực sống, giống hệt như prana.
Những người đã và đang tìm kiếm, trong chừng mực nào đó đã đến gần lửa. Tận sâu bên trong sự hiện hữu này là lửa. Lửa là sự sống. Và Zarathustra đúng khi nói ông ấy đã biến lửa thành Thượng đế với quyền năng tối thượng. Hẳn ông ấy đồng ý với Heraclitus – họ đều là những người cùng thời, Zarathustra và Heraclitus. Lửa đã trở thành Thượng đế đối với các tín đồ của Zarathustra.
Lửa có nhiều điều ẩn chứa bên trong. Bạn sẽ phải hiểu được hiện tượng của lửa, biểu tượng, bởi vì đó là một cách nói, là một phép ẩn dụ. Có điều gì đó tận sâu bên trong mà Heraclitus muốn nhấn mạnh khi nói rằng lửa là nền tảng. Hãy quan sát ngọn lửa vào một đêm đông giá rét; ngồi cạnh bếp lửa và quan sát, cảm nhận hơi ấm của nó. Giá rét là cái chết, hơi ấm là sự sống. Một cơ thể chết sẽ lạnh giá, một cơ thể sống sẽ ấm áp – và bạn phải không ngừng giữ ấm ở một mức nhất định. Một cơ chế tồn tại bên trong con người để duy trì hơi ấm luôn ở một mức nhất định, bởi vì sự sống chỉ diễn ra ở giữa những mức nhiệt độ nhất định này.
Đó là lý do vì sao chúng ta nói “sự chào đón nồng nhiệt” chứ không phải “sự chào đón lạnh lẽo”; tình yêu thương ấm áp, chứ không phải tình yêu thương lạnh lẽo. Mặt trời chính là nguồn sưởi ấm đó, năng lượng mặt trời chính là lửa. Hãy quan sát: khi đêm xuống, mọi thứ trở nên buồn bã. Thậm chí cây cối, chim chóc cũng trở nên hoàn toàn im lặng; không tiếng hót, mọi giai điệu đều biến mất. Những cánh hoa khép lại và cả trái đất chờ đợi ngày mới. Và khi bình minh ló dạng, mặt trời còn chưa xuất hiện, trái đất đã sẵn sàng để chào đón. Chim chóc bắt đầu ca hát trước cả khi mặt trời mọc – đó là một tín hiệu chào đón. Hoa bắt đầu nở trở lại; mọi thứ trở nên sống động trở lại, sự chuyển động bắt đầu.
Lửa còn là một biểu tượng rất ý nghĩa theo nhiều cách khác. Nếu quan sát ngọn lửa, bạn sẽ thấy sự chuyển động không ngừng hướng lên. Nước chảy xuống, lửa bùng lên, đó là lý do vì sao người Hindu nói về “ngọn lửa kundalini”. Khi bùng lên, bạn không giống như nước, mà giống như ngọn lửa. Khi bản thể nội tâm của bạn thay đổi, bạn cảm nhận một ngọn lửa đang bùng lên. Nước, ngay cả nước, khi tiếp xúc với lửa cũng bắt đầu bốc hơi bay lên.
Trong kinh sách rất cổ xưa của người Tây Tạng, người thầy được ví như là lửa, còn học trò được ví như là nước. Khi nước tiếp xúc với lửa, chất lượng của học trò đó sẽ thay đổi, sẽ mang phẩm chất của lửa, giống như nước được đun nóng bắt đầu bốc hơi lên. Nước thiếu lửa sẽ chuyển động hướng xuống. Khi có lửa, sự thay đổi lập tức xuất hiện. Ở mức trên 100oC, lửa khiến nước bốc hơi, chiều hướng chuyển động sẽ thay đổi.
Lửa luôn chuyển động hướng lên. Thậm chí nếu bạn lật úp ngọn đèn xuống, ngọn lửa vẫn hướng lên, ngọn lửa không thể hướng xuống. Lửa là sự nỗ lực đạt đến đỉnh cao nhất, cực đỉnh.
Heraclitus đã tìm thấy đúng biểu tượng. Đó không phải là tuyên bố triết học, nhưng trong lịch sử triết học của Hy Lạp, họ nghĩ rằng Heraclitus đang đưa ra một yếu tố thiết yếu giống như những người khác, như Thales, Anaxagoras, Anaximenes, các nhà triết học khác của Hy Lạp. Có bốn yếu tố gồm đất, nước, lửa và không khí. Một số nhà triết học cho rằng đất là yếu tố cơ bản; số khác lại xem nước là yếu tố cơ bản; số khác thì bảo đó là lửa; số khác nữa cho rằng đó là không khí. Heraclitus cũng cho rằng lửa là yếu tố cơ bản, nhưng không nên hiểu theo cách của Thales. Đó không phải là tuyên bố. Đó không phải là một chủ đề hay học thuyết triết học. Heraclitus không đưa ra bất kỳ học thuyết nào. Ông ấy là một nhà thơ, không phải là nhà triết học. Ông ấy đưa ra một biểu tượng, và biểu tượng đó chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn từ “lửa”.
Hãy quan sát lửa từ bên ngoài, sau đó quan sát từ bên trong, và trở nên càng giống ngọn lửa càng tốt.
Đó là lý do vì sao khi ai đó bất ngờ nhìn thấy Heraclitus đang sưởi ấm cạnh bếp lửa, ông ấy nói với họ: “Đây cũng là Thượng đế”.
“Tôi đã tìm kiếm chính mình”, ông ấy nói. “Thời gian là một đứa trẻ đang di chuyển các quân bài; quyền lực tối thượng nằm trong tay một đứa trẻ”.
Quyền lực tối thượng nằm trong tay một đứa trẻ, và thời gian là đứa trẻ đang di chuyển các quân bài. Cuộc sống giống như một trò chơi, đừng biến nó thành phi vụ làm ăn, nếu không bạn sẽ bỏ lỡ tất cả. Bạn bỏ lỡ vì xem nó là phi vụ làm ăn trong khi nó chỉ là một trò chơi. Hãy chơi thật tốt nhưng đừng nghĩ sẽ kiếm được gì từ trò chơi đó. Hãy giống như đứa trẻ: nó chơi, nó không lo nghĩ về thứ sẽ đạt được từ trò chơi đó. Những đứa trẻ, dù bị thua trong trò chơi, đều nhảy múa và cảm thấy rất vui. Thất bại sẽ không phải là thất bại nếu đó là trò chơi; chiến bại sẽ không phải là chiến bại nếu đó là trò chơi. Bằng không, nếu đó là phi vụ làm ăn, ngay cả chiến thắng cũng là chiến bại. Hãy hỏi Napoleon, Alexander, ngay cả chiến thắng cũng là chiến bại. Cuối cùng, bạn tìm thấy điều gì? Bạn chiến thắng, và chẳng đạt được gì. Bạn mong mỏi đạt được mục tiêu này và giờ bạn đã đạt được, bạn lại cảm thấy thất vọng và toàn bộ cuộc đời bạn bị đánh mất.
Hãy nhớ, cuộc đời của bạn sẽ bị đánh mất nếu theo đuổi các mục tiêu, bởi vì cuộc sống không có mục tiêu. Đó là một cuộc chơi không có mục đích. Nó sẽ không đi đến đâu, nó chỉ đơn giản là tự tận hưởng.
Đây là điều khó hiểu nhất bởi vì tâm trí thuộc về toán học. Nó nói: “Vậy thì cuộc sống có ý nghĩa gì, vậy thì mục đích sống là gì?”. Chẳng có mục đích, cũng chẳng có ý nghĩa. Khi đó, tâm trí sẽ hỏi ngay: “Nếu không có ý nghĩa, vậy sống làm gì, sao không tự tử cho rồi?”.
Nhưng hãy nhìn xem: nếu có ý nghĩa, toàn bộ điều đó sẽ trở nên xấu xí, khi đó nó sẽ giống như một phi vụ làm ăn. Nếu có mục đích, toàn bộ cuộc sống sẽ mất đi chất thơ.
Thơ ca ở đó bởi vì không có mục đích. Vì sao hoa hồng nở? Hãy hỏi hoa hồng; nó sẽ trả lời rằng: “Tôi không biết, nhưng hoa nở đẹp như thế, cần gì biết lý do? Tự thân việc nở hoa là đã đẹp rồi”. Hãy hỏi chú chim: “Vì sao mày hót?”, và nó sẽ bất ngờ trước câu hỏi ngớ ngẩn ấy. Ca hát là một hành động đẹp, đó là sự ban phước, sao phải hỏi? Nhưng tâm trí luôn tìm kiếm mục tiêu, tâm trí là kẻ luôn tìm cách đạt được điều gì đó, nó không thể đơn giản tận hưởng cuộc sống. Phải có điều gì đó cần đạt được trong tương lai, một mục tiêu nào đó cần đạt đến, khi đó tâm trí mới cảm thấy hài lòng. Nếu không có gì phải đạt được, nó sẽ rơi xuống. Nhưng đó lại là nội dung của toàn bộ nỗ lực – hãy để nó rơi!
Không có mục đích, không có mục tiêu. Khoảnh khắc này, toàn bộ sự hiện hữu này đang ăn mừng – tất cả ngoại trừ bạn. Vậy sao không tham gia? Sao không giống như một bông hoa, bung nở không mục đích? Sao không giống như một dòng sông, chảy không ngừng? Sao không giống như đại dương, ồn ào những con sóng? Đây là điều mà Heraclitus nói: “Thời gian là một đứa trẻ đang di chuyển các quân bài, quyền lực tối thượng nằm trong tay đứa trẻ”.
Và mỗi đứa trẻ đều là vua. Hãy quan sát một đứa trẻ, mỗi đứa trẻ đều là một vị vua. Hãy nhìn vào sự chuyển động: ngay cả khi đứa trẻ đó trần truồng, không vị hoàng đế nào có thể cạnh tranh được với nó. Vì sao đứa trẻ lại xinh đẹp đến vậy? Mọi đứa trẻ, không có ngoại lệ, đều xinh đẹp. Vẻ đẹp đó là gì? Đứa trẻ vẫn chưa bị ô nhiễm bởi loại tâm trí cứ đi tìm kiếm mục đích, mục tiêu, ý nghĩa. Nó chỉ chơi đùa, nó không màng đến ngày mai.
Đứa trẻ về nhà. Mẹ nó giận dữ nói:
– Mẹ nghe lũ trẻ hàng xóm nói con ném bùn vào miệng một bạn gái và bị phạt đứng ngoài lớp suốt cả ngày!
Đứa trẻ đáp:
– Vâng ạ.
Người mẹ kinh hãi hỏi:
– Tại sao? Tại sao con ném bùn?
Đứa trẻ nhún vai đáp:
– Dạ, vì miệng bạn đó há ra.
Chữ “tại sao” thật vô nghĩa. Thằng bé có bùn trong tay, còn miệng của đứa bạn lại há ra, vậy thì phải làm gì? Đó là chuyện phải xảy ra.
Chúng ta đang hỏi “Tại sao”. “Tại sao” là thứ không liên quan đối với một đứa trẻ – đó là cách mọi chuyện đã xảy ra! Miệng há, còn nó thì có bùn trong tay. Đứa trẻ thực sự không làm điều đó. Chúng ta đã sai khi phạt nó, nó không làm, chuyện kia đã xảy ra, chỉ đơn giản phải xảy ra theo cách đó. Bé gái tình cờ đứng cạnh bên há miệng. Đứa trẻ không cố ý, nó không muốn làm hại ai, nó không muốn xúc phạm ai. Nó chỉ nắm lấy cơ hội, tận hưởng cơ hội đó. Còn chúng ta lại hỏi “Tại sao”.
Giữa một đứa trẻ và một người lớn tồn tại một vực thẳm; đó là hai cực tách rời. Đứa trẻ không thể hiểu được điều người lớn đang nói bởi vì nó sống trong một chiều không gian hoàn toàn khác – không gian của vui chơi. Còn người lớn không thể hiểu được những gì đứa trẻ đang làm bởi vì anh ta là một người kinh doanh, anh ta sống trong thế giới của câu hỏi “Tại sao”, nguyên nhân, lý do. Cả hai không bao giờ gặp nhau, không thể gặp nhau, không có khả năng hiểu nhau trừ khi người lớn trở thành đứa trẻ. Chỉ có thánh nhân, nhà hiền triết thực sự, mới có thể hiểu được đứa trẻ bởi vì ông ta cũng là một đứa trẻ. Ông ta có thể hiểu được.
Nếu có thể trở lại là một đứa trẻ, bạn đã có mọi thứ. Nếu không, bạn đã bỏ lỡ tất cả. Nhà hiền triết chính là đứa trẻ được sinh ra hai lần. Những đứa trẻ được sinh ra lần đầu không phải là trẻ con thật sự vì chúng sẽ phải trưởng thành. Lần chào đời thứ hai mới thật sự là được chào đời, bởi vì khi được tái sinh, nghĩa là người đó tự mang đến cho mình cơ hội chào đời lần thứ hai. Đó là một quá trình biến đổi, anh ta lại trở thành một đứa trẻ. Anh ta không tìm hiểu lý do hay nguyên nhân, anh ta chỉ đơn giản sống. Anh ta sống theo khoảnh khắc cho dù đó là gì; anh ta không có kế hoạch, không có dự tính. Anh ta sống mà không đòi hỏi bất cứ điều gì, và đó là cách sống duy nhất; nếu không, bạn chỉ có vẻ như đang sống chứ không phải thực sự sống. Đối với một đứa trẻ, không có gì xấu, không có gì tốt, không có Thượng đế, không có ác quỷ; đứa trẻ chấp nhận mọi thứ. Một lần nữa, nhà hiền triết chấp nhận mọi thứ. Đó là lý do vì sao anh ta có thể nói Thượng đế là mùa đông và mùa hè, Thượng đế là chiến tranh và hòa bình, Thượng đế vừa tốt vừa xấu, cả hai. Đối với nhà hiền triết, toàn bộ đạo đức, phẩm hạnh đều biến mất, mọi sự phân biệt đều không còn nữa; mọi thứ đều thiêng liêng và mọi nơi đều quan trọng.
Người được ban phước không cần phải cầu nguyện, cầu nguyện là một sự thay thế nghèo nàn. Người được ban phước không cần thiền. Người được ban phước có thể sống hạnh phúc trong từng khoảnh khắc, làm tất cả những gì có thể làm. Mọi thứ đều thiêng liêng và thần thánh. Bạn có thể thưởng thức món ăn của mình theo cách khiến nó trở thành lời cầu nguyện.
Bạn có thể yêu một người theo cách khiến nó trở thành lời cầu nguyện. Bạn có thể đào một cái hố trong vườn theo cách khiến nó trở thành lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện không phải là một nghi lễ, chính chất lượng của hành động cầu nguyện mới có ý nghĩa.
Quyền lực tối thượng nằm trong tay đứa trẻ. Vì sao ư? Bởi vì quyền lực tối thượng là sự trong sáng. Thượng đế đến với bạn khi bạn trong sáng. Khi bạn xảo quyệt, cánh cửa sẽ đóng lại. Đừng bao giờ hủy hoại sự trong sáng của bất cứ ai, đừng bao giờ gây nghi ngờ trong lòng những người trong sáng, bởi vì sự trong sáng là quyền lực tối thượng. Đừng bao giờ gieo nghi ngờ trong lòng bất cứ ai, bởi vì một khi niềm tin bị hủy hoại, sự trong sáng sẽ không còn nữa, khi đó sẽ rất, rất khó khăn. Nó giống như một chiếc gương đã vỡ.
“Thời gian là đứa trẻ đang di chuyển các quân bài; quyền lực tối thượng nằm trong tay đứa trẻ”.
Về thời gian, Heraclitus không có lý thuyết toán học nào. Về thời gian, ông ấy nói rằng nó giống như đứa trẻ di chuyển các quân bài trong một trò chơi: chúng di chuyển, ngày và đêm. Heraclitus không tin rằng thời gian sẽ đi đâu. Nó dịch chuyển, dịch chuyển theo đường tròn. Nó không theo đường thẳng, nó giống như bánh xe. Và bạn cần hiểu được điều này: tất cả các nhà khoa học đều cho rằng thời gian là tuyến tính, nó di chuyển theo đường thẳng; còn những người hiểu được bản chất nội tâm đều cho rằng thời gian là bánh xe, nó không theo đường thẳng mà theo đường tròn. Hẳn phải có nguyên do. Các nhà khoa học không nhìn thấy cái tổng thể, họ chỉ nhìn thấy một phần. Tâm trí khoa học là tâm trí mang tính cụ thể, chuyên biệt. Nhà khoa học chỉ thấy một phần, và anh ta còn chia phần đó ra thành nhiều phần nhỏ hơn. Nhà khoa học cứ mãi chia tách nên không nhìn thấy cái tổng thể. Tính kỷ luật của khoa học giúp anh ta nhìn thấy từng phần một cách rõ ràng hơn. Anh ta ngày càng nhìn thấy rõ hơn nhưng lại càng ít đi. Tầm nhìn trở nên rõ ràng và tập trung, nhưng đối tượng đó ngày càng nhỏ đi. Nó biến thành nguyên tử, phần nhỏ nhất; và lúc đó, anh ta cũng đi đến khoảnh khắc, phần nhỏ nhất.
Nếu bạn nhìn thấy một phần nhỏ của một đường tròn, nó sẽ trông giống như một đường thẳng, nhưng đường tròn vô cùng rộng lớn, giống như trên trái đất. Chúng ta đang ngồi đây, nếu chúng ta vẽ một đường và bạn cho rằng nó là đường thẳng, vậy là bạn đã sai, bởi vì trên một trái đất hình tròn, làm sao bạn có thể vẽ một đường thẳng? Nếu bạn tiếp tục vẽ đường đó, cứ tiếp tục vẽ và nó sẽ trở thành đường tròn, nó sẽ bao quanh cả trái đất này. Do đó, tất cả các đường thẳng đều chỉ là những phần nhỏ, phần nhỏ của một đường tròn lớn.
Khoa học không thể nhìn thấy cái tổng thể, đó là lý do vì sao thời gian di chuyển theo tuyến tính. Tôn giáo nhìn thấy cái tổng thể, khoa học bỏ lỡ khu rừng, chỉ nhìn thấy từng cái cây; tôn giáo bỏ lỡ từng cái cây, chỉ nhìn thấy cả khu rừng. Và khi bạn nhìn vào cái tổng thể, mọi thứ đều thuộc đường tròn. Tất cả các chuyển động đều thuộc đường tròn, và thời gian cũng là một chuyển động theo đường tròn. Đó là một trò chơi, chỉ di chuyển chứ không đi đâu cả. Nếu bạn có thể nhìn thấy thời gian không đi đâu cả mà di chuyển theo đường tròn, khi đó toàn bộ sự căng thẳng của tâm trí để đạt đến một nơi nào đó sẽ không còn nữa. Việc đạt đến nơi nào đó trong tương lai sẽ trở nên vô ích, vô nghĩa, khi đó bạn sẽ bắt đầu tận hưởng khoảnh khắc.
Cuộc sống không phải là nỗ lực đạt được điều gì đó, mà đấy là sự ăn mừng. Heraclitus nói rằng niềm tin mù quáng là một căn bệnh sùng kính. Nhưng dù là như thế, bạn cũng không nên biến nó thành một học thuyết, bởi vì khoảnh khắc tạo ra một học thuyết và nói: “Điều này đúng”, bạn bắt đầu cải đạo người khác. Khoảnh khắc bạn nói: “Điều này đúng”, cái tôi của bạn đã bắt đầu. Giờ đây, vấn đề không phải là “Điều này đúng” mà là “Bạn đúng”. Làm sao bạn có thể sai? Khi đó, căn bệnh sùng kính thâm nhập vào. Bất cứ khi nào ai đó bắt đầu sùng bái, căn bệnh này sẽ xuất hiện. Bất cứ khi nào trở nên sùng bái, người đó sẽ dễ mắc phải căn bệnh này, căn bệnh niềm tin mù quáng. Thật khó tìm thấy một người sùng bái mà không bị mắc căn bệnh niềm tin mù quáng.
Điều đó đã xảy ra. Nhìn thấy Mulla Nasruddin đang uống rượu trong quán, tôi liền hỏi: “Nasruddin, anh đang làm gì vậy? Mới hôm qua anh nói với tôi rằng anh đã bỏ rượu, vậy giờ anh đang làm gì ở đây?”. Nasruddin đáp: “Đúng, tôi đang kiêng rượu, nhưng không mù quáng”. Dù bạn là ai, hãy luôn linh hoạt. Đừng đóng khung quanh mình, hãy luôn di chuyển và trôi theo dòng. Đôi khi, bạn cũng phải thoát ra khỏi kỷ luật. Cuộc sống rộng lớn hơn kỷ luật của bạn, đôi khi bạn phải hoàn toàn đi ngược lại với quy tắc của chính mình, bởi vì Thượng đế vừa là mùa hè vừa là mùa đông. Đừng là nạn nhân của niềm tin mù quáng. Hãy sùng kính, nhưng đừng là một tín đồ. Hãy để toàn bộ trái đất này là nhà thờ của bạn, hãy để toàn bộ sự hiện hữu này là thiền viện của bạn. Và khi có thể tận hưởng được cái tổng thể, sao chỉ hài lòng với một phần nhỏ? Vì sao phải là tín đồ? Khi bạn có thể là một con người, sao lại chọn gắn mác? Hãy từ bỏ các nhãn mác.