Jesus Christ là ai? Câu hỏi này đã được hỏi đi hỏi lại suốt hàng bao thế kỷ, và cũng đã được trả lời. Nhưng những người đặt câu hỏi đều sai, và cả những người trả lời cũng sai, bởi vì câu hỏi đó bắt nguồn từ định kiến, do đó câu trả lời cũng vậy. Về cơ bản, chúng không khác nhau; khởi nguồn của chúng là một.
Câu hỏi được đặt ra bởi những người còn nghi ngờ về tính thần thánh của Jesus. Và câu hỏi đã được trả lời bởi những người không muốn tin vào tính trần tục của Jesus. Họ chỉ muốn tin một nửa. Người Do Thái sẵn sàng tin rằng Jesus là một người đàn ông bình thường. Chỉ có người Cơ Đốc giáo sẵn sàng tin rằng Jesus là Chúa. Người Do Thái phủ nhận một nửa của Jesus – phần Christ. Trong khi người Cơ Đốc giáo phủ nhận nửa còn lại – phần Jesus.
Vậy Jesus Christ là ai? Người Cơ Đốc giáo không muốn xem ngài ấy là Jesus, con trai của một người đàn ông, một người bằng xương bằng thịt như bao con người khác. Còn người Do Thái lại không muốn tin ngài ấy là Chúa, là thánh thần, được tạo thành từ nhận thức, không phải bằng xương bằng thịt.
Không ai sẵn sàng tin Jesus một cách trọn vẹn. Và điều này không chỉ xảy ra với Jesus, mà với tất cả các bậc thầy – Phật, Krishna, Zarathustra. Và chừng nào chưa cho phép Jesus – với sự nguyên vẹn của ngài ấy – thâm nhập vào bạn, bạn sẽ không được chuyển hóa. Chừng nào không cho phép Jesus như ngài ấy vốn là như vậy, bạn sẽ không thể nào tiếp cận được. Jesus vừa là Jesus vừa là Christ, và ngài ấy không hổ thẹn về điều đó.
Trong Kinh thánh, ngài ấy đã nhắc nhiều lần “Ta là con trai của con người” và cũng hay nói “Ta là con của Thượng đế”. Và có vẻ như ngài ấy không thấy có sự mâu thuẫn nào giữa hai ý nghĩ đó. Hoàn toàn không có sự mâu thuẫn nào cả. Sự mâu thuẫn chỉ tồn tại trong tâm trí của chúng ta. Nó không tồn tại trong bản thể của Jesus. Bản thể của ngài ấy đã được kết nối. Bản thể của ngài ấy đã được kết nối giữa thời gian và sự vĩnh hằng, thể xác và tâm hồn, thế giới này và thế giới kia. Bản thể của ngài ấy đã được kết nối giữa cái hữu hình và cái vô hình, giữa cái đã biết và cái chưa biết. Ngài ấy hoàn toàn được kết nối, thoải mái với cả hai, bởi vì ngài ấy là cả hai. Jesus và Christ giống như hai bờ của một con sông, và con sông đó chỉ tồn tại nếu có đủ hai bờ. Jesus là dòng sông chảy giữa hai bờ: cả hai bờ đó đều là của Jesus. Ngài ấy tồn tại giữa chúng, ngài ấy là dòng sông.
Jesus Christ là ai – là thánh thần hay con người? Tôi nói rằng tất cả các câu hỏi đều sai và cả câu trả lời cũng sai nốt. Vì sao ư? Bởi vì câu hỏi hoặc đến từ kiến thức Do Thái, hoặc từ kiến thức Hồi giáo, hoặc từ kiến thức Hindu. Và câu trả lời đến từ kiến thức Cơ Đốc giáo, mà kiến thức thì không thể trả lời được. Kiến thức thậm chí không thể hỏi! Kiến thức là thứ bất lực. Những câu hỏi có tầm quan trọng như thế chỉ có thể bắt nguồn từ sự trong sáng, không phải từ kiến thức. Cần phải hiểu được điểm khác biệt đó. Khi hỏi một câu hỏi bắt nguồn từ kiến thức, bạn không thật sự hỏi, bởi vì bạn đã biết.
Câu hỏi của bạn là giả, không thực. Trái tim bạn không có ở đó. Bạn hỏi chỉ để hỏi – có lẽ để thảo luận, để tranh cãi. Nhưng bạn đã biết trước câu hỏi, cho nên câu trả lời cũng có trước. Vậy nên bạn không nhận được câu trả lời, bạn không mở lòng cho nó, bạn không sẵn sàng đón nhận nó. Bạn không sẵn sàng di chuyển, không sẵn sàng khám phá; bạn đã có câu trả lời. Và câu hỏi nảy sinh từ chính câu trả lời đó.
Người Do Thái đã có câu trả lời. Họ biết rằng ngài ấy không phải là Đấng cứu thế (Messiah), rằng ngài ấy không phải là Chúa. Vì sao ư? Bởi vì họ hiểu rằng khi Đấng cứu thế xuất hiện, mọi người sẽ nhận ra Người! Mọi người, không trừ một ai. Đó chính là ý nghĩ của họ về Đấng cứu thế, rằng mọi người sẽ nhận ra Người.
Và nếu Jesus không được mọi người nhận ra, làm sao ngài ấy có thể là Đấng cứu thế? Họ đã có một định nghĩa. Họ cũng tin rằng – đây cũng là kiến thức của họ – khi Jesus, Jesus thật sự, Christ, Đấng cứu thế xuất hiện, mọi người sẽ được tự do ngay lập tức. Tất cả những tội lỗi trước đây, những tội lỗi hiện tại đều biến mất trong ánh sáng đó, và nó đã không xảy ra. “Christ ở đó nhưng mọi người chưa được tự do, họ vẫn sống trong tội lỗi, họ vẫn sống trong khổ hạnh. Cho nên, người này không thể nào là Đấng cứu thế, không thể nào là Christ”. Đây không phải là người mà họ chờ đợi.
Đây là định kiến. Họ chưa bao giờ nhìn thấy Đấng cứu thế. Làm sao họ có thể xác định được điều gì sẽ xảy ra khi Đấng cứu thế xuất hiện?
Nếu như trong đêm tối của tâm hồn, bạn nghĩ rằng khi bình minh xuất hiện, tiền sẽ rơi từ trên trời xuống. Khi mặt trời mọc, mọi người sẽ trở nên giàu có. Và rồi khi mặt trời mọc, làm sao bạn có thể chấp nhận rằng đây là mặt trời? Bởi vì tiền không rơi xuống và không ai trở nên giàu có, mọi người vẫn nghèo. Bạn cứ nhìn lên trời mà không thấy tiền rơi xuống. Bởi vì bạn quá bận tâm đến tiền nên không nhìn thấy những gì sắp đến từ mặt trời – ánh sáng, sự sống, trạng thái xuất thần. Bạn không thể nhìn thấy điều đó bởi vì mắt bạn hoàn toàn bị che khuất bởi định kiến của bạn, ý nghĩ của bạn. Và khi hỏi “Jesus Christ là ai?”, bạn đã hình dung về Đấng cứu thế là như thế nào rồi. Đó là sự cản trở, đó là sự phá rối. Đó là lý do vì sao người Do Thái đã bỏ lỡ. Chính người đàn ông này là người mà họ đã chờ đợi suốt nhiều thế kỷ, và khi ngài ấy đến gõ cửa, họ đã bỏ lỡ. Họ chối bỏ ngài ấy. Làm sao họ lại chối bỏ ngài ấy? Họ có phải là người xấu? Không, họ cũng tốt giống như bạn, họ cũng là các tín đồ Hindu, Hồi giáo, Phật giáo. Họ có định kiến. Và khi các tín đồ Cơ Đốc giáo trả lời rằng Jesus là đứa con duy nhất của Chúa, một lần nữa, đây là kiến thức.
Người Do Thái cảm thấy rất khó chịu bởi vì Jesus tuyên bố rằng ngài ấy là Chúa, hoặc là con của Chúa. Trong suốt hai ngàn năm, người Cơ Đốc giáo đã bảo vệ Jesus, rằng ngài ấy đã là Chúa, rằng ngài ấy vẫn đang là Chúa. Và họ đã tìm cách loại bỏ mọi khả năng có thể chứng minh rằng Jesus là con người. Đó là lý do vì sao họ nói rằng ngài ấy được sinh ra bởi Đức Mẹ đồng trinh – đó là sự khởi đầu. Cho nên họ phủ nhận nguồn gốc con người của Jesus, để ngài ấy không giống như bạn; ngài ấy đặc biệt. Thậm chí vào lúc chào đời, ngài ấy cũng đặc biệt. Rồi họ tìm cách khiến cho cuộc sống của Jesus diễn ra theo hướng không còn một dấu hiệu nào cho thấy ngài ấy là con người. Jesus rất con người, hoàn toàn mang tính người. Jesus là một con người trọn vẹn. Ngài ấy không phải là người theo chủ nghĩa hoàn hảo. Khi cần nổi giận, Jesus cũng trở nên rất giận dữ. Ngài ấy ném những kẻ đổi tiền ra khỏi nhà thờ và nói với họ: “Các ngươi đang làm gì trong nhà của Cha ta, trong đền thờ của Cha ta? Hãy ra khỏi đây ngay!”. Và ngài ấy giận dữ đến mức chỉ một mình một tay ném nhiều người ra ngoài.
Jesus yêu con người. Ngài ấy cũng có bạn, sống chan hòa với mọi người. Ngài ấy ăn cùng mọi người, uống cùng mọi người, sinh hoạt cùng mọi người. Ngài ấy sống như một người bình thường. Ngài ấy không tìm cách giả vờ để trở thành thứ gì đó phi thường. Và ngay cả khi có điều gì đó phi thường xảy ra, ngài ấy cũng luôn nói: “Chính niềm tin của anh em đã tạo nên điều kỳ diệu. Đó chính là lòng thương xót của Chúa đối với anh em. Đó là điều xảy ra giữa anh em và Chúa”.
Ngài ấy thậm chí không mong chờ sự biết ơn. Người ta sẽ rất biết ơn khi có phép mầu xảy ra và được chữa lành bệnh, người đó muốn chạm vào chân để bày tỏ lòng biết ơn nhưng ngài ấy nói: “Không”. Người đó nói: “Ngài là một người vĩ đại, ngài thật tốt!”. Jesus đáp: “Không ai tốt ngoài Chúa. Ngươi hãy cảm ơn Người. Quên ta đi. Chính niềm tin của ngươi đã chữa lành bệnh cho ngươi, không phải ta. Và nếu phải cảm ơn, ngươi hãy cảm ơn Chúa. Quên ta đi. Đừng để ta chắn giữa ngươi và Chúa”.
Đó cũng chính là lời Đức Phật nói với các đệ tử của mình: “Nếu các con bắt gặp ta giữa đường, hãy giết ta ngay. Đừng để ta đứng giữa con và thực tại của con. Hãy nắm tay ta chừng nào các con còn chưa đủ khả năng bước đi một mình. Khoảnh khắc các con có thể tự đi một mình, hãy quên ta đi. Hãy tiến về phía trước. Đừng neo bám vào ta. Đừng cố làm chiếc bóng của ta. Nếu các con nhìn thấy ta trên đường, hãy giết ta ngay lập tức!”.
Đó chính là điều Jesus đã nói đi nói lại: “Hãy quên ta đi. Hãy cảm ơn Chúa. Ta là ai chứ?”.
Những người Cơ Đốc giáo đã tìm cách xóa bỏ mọi dấu vết con người của ngài ấy, để ngài được sinh ra từ Mẹ Mary. Ngài ấy sống một cuộc sống không có dấu vết của con người. Người Cơ Đốc giáo chỉ nói về những phép màu của ngài, không nói về cuộc sống bình thường. Họ e sợ. Người Cơ Đốc giáo nói rằng Jesus không bao giờ cười! Jesus không bao giờ cười ư? Vậy thì còn ai cười nữa đây? Có vẻ tiếng cười quá con người, quá trần tục, nên họ không cho phép Jesus cười.
Tuy nhiên, cuộc sống của Jesus hẳn phải có tiếng cười. Hẳn ngài ấy phải thật sự cười. Hẳn Jesus phải là con người đầy tiếng cười vì ngài ấy cứ nói đi nói lại: “Hãy vui mừng! Hãy vui vẻ! Ăn mừng!”. Những lời lẽ này không thể đến từ người không bao giờ cười. Và người không bao giờ cười sao có thể tham dự các buổi tiệc? Sao lại uống với mọi người? Sao lại hòa nhập với mọi người? Ngài ấy là một người chan hòa. Mỗi ngày, mỗi đêm, ngài ấy đều sinh hoạt cùng mọi người. Ngài ấy không tách biệt. Hẳn ngài ấy phải cười nhiều, thật sự tận hưởng cuộc sống. Nhưng người Cơ Đốc giáo nói rằng Jesus không bao giờ cười.
Họ đã tạo ra hình ảnh của ngài với vẻ mặt thật buồn bã, muộn phiền. Không thể nào như thế được! Điều này hoàn toàn sai bởi nó đi ngược lại với nhận biết cơ bản về một Jesus, một bậc khai sáng. Bởi vì một người đã đạt đến tâm thức tối thượng sẽ hoàn toàn vui sướng. Cuộc sống của người đó là một khúc hát, một điệu múa. Nó chứa đựng phẩm chất của những bông hoa và những vì sao. Cuộc sống đó không thể buồn được. Vì sao ngài ấy lại buồn? Đó là thế giới của Cha ngài ấy, đó là thế giới của Thượng đế. Sao ngài ấy phải buồn? Ngài ấy đã trở về nhà. Khi nào ngài ấy mới được hạnh phúc chứ? Nếu bạn không hạnh phúc khi biết về Thượng đế, vậy thì không còn khả năng nào khác khiến bạn hạnh phúc.
Jesus trông quá buồn. Ngài ấy đã được phác họa với khuôn mặt buồn bã. Ngài ấy đã được phác họa như là một “vị cứu tinh”. Ngài ấy đã được phác họa như thể đang mang vác gánh nặng của chúng sinh, tội lỗi của chúng sinh. Ngài tha thứ cho bạn! Ngài không mang vác gánh nặng của bạn, ngài chỉ đơn giản tha thứ cho bạn.
Thật là một quan niệm sai lầm, rằng Jesus mang vác gánh nặng của bạn. Nếu gánh nặng đó không đáng, sao ngài ấy phải tự mình mang vác? Còn nếu gánh nặng đó quá có giá trị, sao ngài ấy lại lấy mất của bạn? Ngài sẽ đặt thêm cho bạn nhiều gánh nặng khác. Cho nên, ngài không mang vác gánh nặng của ai cả, ngài chỉ đơn giản giúp mọi người rũ bỏ gánh nặng của mình. Bởi vì chính bạn đang nắm giữ nó, neo bám vào nó, nó không có giá trị. Khi nói bạn được tha thứ, ngài muốn nói: “Hãy quên hết mọi buồn phiền và quên hết mọi điều tăm tối. Đó là thế giới của Cha bạn, Người là lòng trắc ẩn, là tình yêu. Làm sao tình yêu có thể trừng phạt bạn? Làm sao tình yêu có thể ném bạn vào địa ngục? Làm sao tình yêu có thể tra tấn bạn? Thượng đế không phải là người thích gây ra những điều tàn ác!”.
Và rồi người Cơ Đốc giáo nói về sự tái sinh. Cả cuộc đời của Jesus phụ thuộc vào ba điều: thứ nhất là một người mẹ đồng trinh; thứ hai là một cuộc sống không tiếng cười, đơn điệu, buồn bã với những phép mầu; và thứ ba là sự tái sinh. Dường như đây là ba thứ có ý nghĩa quan trọng đối với họ, nhưng cả ba đều vô nghĩa bởi vì họ đã bỏ lỡ toàn bộ ý nghĩa thực sự của nó. Họ đã bỏ lỡ một Jesus thật sự. Đây chính là câu chuyện mà những người Cơ Đốc giáo đã tạo ra quanh Jesus. Chính vì câu chuyện này mà họ đã bỏ lỡ mất Jesus thật sự.
Tôi muốn nói với bạn rằng ngài ấy là một con người thật sự, một con người bằng xương bằng thịt. Ngài ấy sống như một con người, và ngài ấy thích được sống như một con người. Ngài ấy đã nếm trải đủ phương diện đời sống của con người, nhưng ngài ấy vẫn là Chúa.
Jesus Christ vừa là Jesus vừa là Christ. Ngài ấy là Christ trong Jesus, và là Jesus trong Christ. Ngài ấy là điểm gặp gỡ của hai thế giới, nơi hai cực đối lập của thế giới giao nhau. Từ đó mới có vẻ đẹp, và sự xuất thần của Jesus.
Sự xuất thần luôn nảy sinh khi hai thái cực gặp nhau. Phân cực càng lớn, khoảng cách giữa các phân cực càng lớn thì sự xuất thần càng cao. Đó là lý do vì sao khi làm tình, người ta thường cảm nhận niềm hân hoan tột bậc, đó là vì hai thái cực gặp nhau. Đây không phải là hai phân cực lớn, bởi vì đàn ông và đàn bà không thật cách xa nhau, không xa nhưng cũng không gần. Khi gặp nhau và rồi yêu nhau, cả hai sẽ trải qua trạng thái ngây ngất, niềm hân hoan tột bậc bởi vì họ tan vào nhau, cái tôi của họ biến mất. Các ranh giới không còn nữa – họ chồng lên nhau, tan vào nhau. Những lo toan thường ngày không còn ý nghĩa trong khoảnh khắc hân hoan này. Làm sao khoảnh khắc thăng hoa tột đỉnh này lại xuất hiện? Nó chính là cuộc gặp gỡ của hai phân cực. Điều gì sẽ xảy ra khi Jesus gặp Christ, con người gặp Thượng đế? Đây chính là những phân cực cách xa nhau, là sự gặp gỡ của cái hữu hạn với cái vô hạn. Chính cuộc gặp gỡ này là sự ăn mừng tối thượng.
Hẳn Jesus phải cảm thấy vô cùng hân hoan. Bởi vì những phác họa của người Cơ Đốc giáo, lý tưởng của người Cơ Đốc giáo, nên ngài ấy trông thật buồn bã. Hẳn ngài ấy phải là một người vô cùng hân hoan, tràn ngập niềm vui. Liệu có thể còn điều gì khác khi ánh sáng đã xuất hiện bên trong? Khi đó, niềm vui sướng phải xuất hiện ra bên ngoài. Chúng xuất hiện cùng nhau. Khi ngôi nhà được thắp sáng, ngay cả khi các cửa sổ đã đóng kín, người lữ hành vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng tỏa ra bên ngoài, từ những tấm rèm cửa, từ những khe cửa. Đó chính là niềm vui! Khi ánh sáng xuất hiện từ bên trong, mọi người có thể nhìn thấy điều gì đó thật giá trị lan tỏa ra bên ngoài.
Đó là định nghĩa của sự xuất thần: các phân cực gặp nhau.
Một người bình thường sẽ giống như là người đang ngủ, không nhận biết mình là ai. Khi năng lượng của Thượng đế chạm đến anh ta, khi anh ta được tiếp xúc với năng lượng của Thượng đế, khi anh ta đón nhận năng lượng của Thượng đế, khi nguồn năng lượng sôi nổi đó đi vào anh ta, trạng thái xuất thần sẽ xuất hiện. Trạng thái xuất thần chỉ xuất hiện khi chúng ta hòa hợp cuộc sống trần tục với thế giới bên ngoài, bùn với mặt trời, trái đất với bầu trời, thể xác với linh hồn, chỉ khi đó, khi mặt trời chiếu rọi xuống bùn đất, hoa sen mới hé nở, đóa hoa của sự xuất thần. Chừng nào thực tại không kỳ diệu như vốn có thì chúng ta vẫn còn bị đóng băng.
Con người – nếu chỉ thuần con người – là một thực thể bị đóng băng. Và bạn cũng cần biết rằng Thượng đế – nếu chỉ thuần Thượng đế – cũng là một thực thể bị đóng băng. Cho nên, không chỉ bạn đang tìm kiếm Thượng đế, mà Thượng đế cũng đang tìm kiếm bạn. Không chỉ có bạn buồn khi thiếu vắng Thượng đế, mà Thượng đế cũng buồn khi thiếu vắng bạn. Và khi bạn gặp Thượng đế, Thượng đế gặp bạn, đó không chỉ là sự xuất thần của bạn, mà còn là sự xuất thần của Thượng đế. Toàn bộ sự hiện hữu này đều mang lại cảm giác xuất thần. Bất cứ khi nào một con người trở thành Jesus hoặc Phật, toàn bộ sự hiện hữu sẽ nhảy múa, toàn bộ sự hiện hữu sẽ hân hoan, trở nên hưng phấn cực độ!
Sự gặp gỡ chính là điểm hòa tan của những chia rẽ. Việc nghĩ về bạn như là một con người chính là gây chia rẽ. Và nếu bạn không loại bỏ sự phân tranh, chia rẽ mà bạn đã tạo ra quanh mình, rằng “Tôi là con người”, Thượng đế sẽ không đi vào trong bạn được. Bạn phải hoàn toàn thoát khỏi các giới hạn, tất cả các ranh giới – ranh giới của Hindu, ranh giới của Cơ Đốc giáo, ranh giới của con người, ranh giới của người giàu, kẻ nghèo, ranh giới của có học thức, không có học thức, ranh giới của trắng và đen, ranh giới của Brahmin và tiện dân (sudra) – tất cả những ranh giới này phải bị loại bỏ. Chính trong quá trình loại bỏ đó, sự vĩnh hằng sẽ đi vào thế giới của bạn. Đi sâu vào đêm tối của tâm hồn bạn là ánh sáng, ánh sáng ngập tràn. Và bỗng nhiên, bạn không còn như trước nữa. Tôi xin nhắc lại, Thượng đế cũng không còn như trước nữa!
Thượng đế chưa bao giờ giàu có đến thế sau Christ. Thượng đế chưa bao giờ giàu có đến thế sau Phật. Thượng đế không giàu có như khi bạn gặp Người, bởi vì bạn sẽ rót vào Người. Tôi biết bạn chỉ có một năng lượng nhỏ, còn đại dương được tạo ra bởi những giọt nước nhỏ không ngừng rơi. Những con sông nhỏ chảy ra đại dương và tạo thành đại dương. Một con sông không thể tạo thành đại dương, nhưng từng con sông không ngừng chảy để cùng nhau tạo thành đại dương. Thượng đế không ngừng trở nên lớn mạnh mỗi ngày, bởi vì một nguồn nước nào đó, một con sông nào đó lại đổ vào, mang theo sự sống mới, rung động mới.
Thượng đế luôn tiến hóa. Thượng đế không phải là một vật thể tĩnh. Thượng đế tiến hóa trong từng khoảnh khắc.
Sự gặp gỡ là điểm hòa tan của các giới hạn, xóa nhòa các ranh giới phân chia, là sự trùng lắp, lan tỏa vào nhau. Đây được gọi là lòng tin, sự tin tưởng hoặc sự dâng nộp. Ở điểm không tuyệt đối, sự đầu hàng tuyệt đối, cuộc sống sẽ bắt đầu một lần nữa và chúng ta lại được trở về với Thượng đế, với Đạo, hoặc với Dhamma, với sự toàn tâm, sự nguyên vẹn của dòng chảy tự do. Thượng đế chính là sự toàn tâm, sự nguyên vẹn của dòng chảy tự do, Thượng đế không phải là con người. Chúng ta chỉ trở về với bản thể thuần khiết khi hoàn toàn tự do, nguyên vẹn. Trong trạng thái này, mọi thứ đều ổn, đều đúng.
Trong Yoga, họ gọi nó là nadam – một trạng thái hòa hợp, thống nhất. Khi con người biến mất vào Thượng đế và xung đột của con người với Thượng đế biến mất, nadam sẽ xuất hiện, sự hòa hợp sẽ xuất hiện – thứ mà Heraclitus gọi là “sự hòa hợp tiềm ẩn”. Nadam là nội cân bằng – sự hòa hợp, nhịp nhàng. Bạn lạc nhịp, không đồng điệu với Thượng đế, đó là nỗi bất hạnh của bạn. Jesus đồng điệu với Thượng đế, đó là niềm vui của ngài ấy. Nếu Jesus cũng bất hạnh, cũng buồn bã, vậy thì có gì khác giữa bạn và ngài? Sự khác biệt đó chính là ngài ấy thấu hiểu bạn, ngài ấy có lòng trắc ẩn dành cho bạn, nhưng bản thân ngài ấy vô cùng vui sướng. Trên thực tế, vì vô cùng vui sướng nên Jesus mới thấy tiếc cho bạn, mới có lòng trắc ẩn dành cho bạn. Ngài muốn bạn cũng được tận hưởng niềm vui sướng này, và ngài biết rằng niềm vui ấy là của bạn, bạn chỉ cần hỏi thôi. Do đó, ngài nói hãy hỏi và bạn sẽ được nhận; hãy tìm kiếm và bạn sẽ tìm thấy; hãy gõ và cửa sẽ mở ra.
***
Jesus không bao giờ chết trên thập tự giá. Phải mất ít nhất bốn mươi tám giờ để một người có thể chết trên thập tự giá của người Do Thái; và có nhiều trường hợp người ta sống đến sáu ngày trên thập tự giá. Bởi vì được đưa xuống khỏi thập tự giá chỉ trong vòng sáu giờ nên Jesus không thể nào chết trên đó. Chính một kẻ ái mộ giàu có và Pontius Pilate đã âm mưu đóng đinh Jesus thật trễ vào ngày thứ Sáu, bởi vì vào thứ Bảy, người Do Thái sẽ ngừng mọi hoạt động; đó là ngày Sabbath nên không hoạt động nào được phép diễn ra. Đến tối thứ Sáu thì mọi thứ đều phải dừng lại.
Trong âm mưu đó, Jesus sẽ bị đóng đinh vào chiều muộn để trước bình minh của ngày hôm sau, ngài ấy sẽ được đưa xuống. Ngài ấy có thể đã bất tỉnh vì mất quá nhiều máu nhưng ngài ấy không chết. Sau đó, ngài được đặt trong một cái hang, và trước khi ngày Sabbath kết thúc, người Do Thái đã treo ngài trở lại lên thập tự giá, rồi các đồ đệ của Jesus đã đánh cắp cơ thể của ngài. Phần mộ của Jesus được phát hiện trống rỗng bởi vì ngài đã được đưa ra khỏi Judea ngay sau đó. Khi lành lặn và khỏe mạnh trở lại, ngài đến Ấn Độ và sống một cuộc sống trường thọ – một trăm mười hai năm – tại Kashmir. Có một sự trùng hợp kỳ diệu là nhà tiên tri Moses qua đời tại Kashmir và Jesus cũng qua đời tại Kashmir. Tôi đã nhìn thấy phần mộ của cả hai. Hai phần mộ ấy là bằng chứng rõ ràng nhất bởi vì đây là hai phần mộ duy nhất không hướng về Thánh địa Mecca. Các tín đồ Hồi giáo xây dựng mộ phần của họ hướng đầu về Thánh địa Mecca, cho nên khắp thế giới, toàn bộ các phần mộ của tín đồ đạo Hồi đều hướng về Thánh địa Mecca, và Kashmir là nơi của tín đồ Hồi giáo. Hai phần mộ trên không hướng đầu về Thánh địa Mecca, và chữ khắc trên mộ là tiếng Hebrew – ngôn ngữ không thể xuất hiện trên phần mộ của người Hồi giáo bởi Hebrew không phải là ngôn ngữ của họ. Tên của Jesus được viết đúng như cách đọc của người Do Thái, “Joshua”. “Jesus” chính là phiên bản Cơ Đốc giáo của tên tiếng Do Thái. Phần mộ đó dĩ nhiên là của Jesus.
Cả hai phần mộ đều được chăm sóc bởi một gia đình sống tại Pahalgam, và đây là gia đình duy nhất đã chăm sóc hai phần mộ này suốt nhiều thế kỷ. Họ là người Do Thái – họ hiện vẫn là người Do Thái – và tôi phải nhờ họ đọc giúp những dòng chữ được viết trên mộ.
Moses đã đến Kashmir để tìm một nhóm người Do Thái bị mất dấu trên đường từ Ai Cập đến Jerusalem. Khi đến Jerusalem, ông ấy lo ngại rằng toàn bộ nhóm người đó đã bị lạc giữa sa mạc. Sau khi đã ổn định tại Jerusalem, ông ấy bắt đầu tìm kiếm và phát hiện ra những người đó đang sống tại Kashmir. Người Kashmir thực chất là người Do Thái, về sau bị người Hồi giáo ép cải đạo – Moses đã sống với họ và qua đời tại đó.
Jesus cũng đến Kashmir, bởi vì khi đó người ta nói rằng Moses đã tìm thấy nhóm người bị lạc ở đó. Cánh cửa của Judea đã đóng – ngài ấy sẽ lại bị treo lên thập tự giá – và nơi duy nhất ngài ấy có thể tìm thấy những người có cùng tiếng nói, những người có cùng suy nghĩ, nơi ngài ấy không còn là người xa lạ, chính là Kashmir. Ngài đã sống với một vài người bạn thân thiết cùng các tín đồ tại Pahalgam.
Pahalgam được đặt theo tên của Jesus bởi vì ngài từng tự gọi mình là “người chăn cừu”. Pahalgam có nghĩa là “thị trấn của người chăn cừu”. Cho nên, đó là một nhóm nhỏ gồm Jesus và những người bạn, sống quanh ngôi mộ của tổ tiên và người sáng lập ra truyền thống của người Do Thái.
Nhưng các tín đồ còn ở lại Judea đã tìm cách tạo ra câu chuyện tái sinh. Và không có cách nào chứng minh được điều đó. Họ cũng không thể nào tạo ra Jesus – nếu tái sinh thì ngài đã ở đâu? Và họ cũng không chứng minh được điều gì đã xảy ra. Họ đã đặt một tảng đá lớn trước miệng hang để bảo vệ thi thể Jesus. Một người lính La Mã đứng canh gác suốt ngày đêm để không ai có thể dịch chuyển tảng đá và đưa thi thể Jesus đi.
Nhưng vì ngay từ đầu, Pontius Pilate đã phản đối việc đóng đinh Jesus… Ông ấy nhận thấy Jesus hoàn toàn vô tội. Ông ấy nghĩ ra một vài ý tưởng điên rồ nhưng không nghiêm trọng. Mà nó gây hại gì cho ai cơ chứ? Nếu ai đó tự nhận mình là đứa con duy nhất của Thượng đế, cứ để anh ta tận hưởng điều đó. Sao phải gây khó dễ, sao phải thấy phiền lòng? Nếu ai đó tự nhận mình là vị cứu tinh, là người mang thông điệp của Thượng đế… nếu bạn muốn nghe, hãy nghe; nếu không, vậy đừng nghe. Nhưng không cần phải đóng đinh người ta.
Hẳn là một kiểu tái sinh nào đó đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Jesus không chết trên thập tự giá, ngài ấy không chết trong hang nơi người ta đặt ngài vào; ngài ấy đã sống một cuộc sống đủ dài.
Cho đến tận ngày nay, con người vẫn dựa vào những phép màu để chứng minh tôn giáo này vượt trội hơn các tôn giáo khác. Phật Thích Ca Mâu Ni không đi trên mặt nước, Mahavira không làm người chết sống lại, Krishna không thể chạm tay chữa lành bệnh cho người bị bệnh, Mohammed không thể biến nước thành rượu.
***
Những kẻ có học thức, thích tranh cãi tạo ra giáo điều, tín ngưỡng. Họ tạo ra sự sùng bái.
Từ thi thể của một người sùng đạo, người ta tạo ra một kiểu sùng bái.
Friedrich Nietzsche từng nói… và tôi cảm thấy ông ấy có một phẩm chất phi thường, đó là khả năng nhìn thấy sự việc theo cách mà những người khác đã bỏ lỡ. Ông ấy điên rồ, nhưng đôi khi, những người điên lại sở hữu một năng lực trí tuệ rất sắc bén. Có lẽ, đó là lý do vì sao họ hóa điên. Friedrich Nietzsche nói: “Người Cơ Đốc giáo đầu tiên và cuối cùng chết trên thập tự giá cách đây hai ngàn năm. Kể từ đó, không có một người Cơ Đốc giáo nào nữa”.
Jesus là người Cơ Đốc giáo duy nhất, mặc dù ngài ấy chưa bao giờ biết đến từ “người Cơ Đốc”. Ngài ấy chỉ biết tiếng Aramaic, ngôn ngữ mà ngài ấy nói, và một ít ngôn ngữ học thuật Hebrew. Nhưng ngài ấy không biết tiếng Hy Lạp. Từ “Christ” là một từ trong tiếng Hy Lạp, và từ “christian” bắt nguồn từ chữ “Christ”. Trong suốt cuộc đời mình, Jesus chưa bao giờ nghe thấy chữ “Christ” hay “christian”. Trong tiếng Hebrew, “Christ” có nghĩa là “Messiah” (Đấng cứu thế), do đó Jesus biết đến chữ “Messiah”.
Nhưng chỉ khi ngài ấy qua đời… Và có một điều thật lạ là khi Jesus còn sống, tràn đầy sự sống, và sẵn sàng cho đi, sẵn sàng chia sẻ, sẵn sàng thổ lộ hết những gì mình có, người ta lại né tránh ngài. Nhưng khi ngài ấy ra đi, các giáo sĩ lại không bỏ lỡ cơ hội.
Các giáo sĩ lập tức tập trung quanh thi thể của Phật, của Jesus, của Lão Tử, và tạo ra các giáo lý.
Nếu Jesus trở lại, ngài sẽ bị đóng đinh, bởi vì ngài sẽ gây cản trở cho công việc làm ăn của nhiều người. Công việc làm ăn đang trôi chảy, mọi thứ đang ổn, mọi người đều hài lòng và bỗng nhiên, người đàn ông Jesus này xuất hiện, bắt đầu quấy nhiễu tâm trí mọi người. Ngài khiến mọi người suy nghĩ, truy vấn, tìm kiếm… Một tổ chức không thể chịu được một người như thế, bởi vì nếu bạn bắt đầu tìm kiếm, sớm muộn gì bạn cũng sẽ phát hiện ra rằng tổ chức ấy đang đứng trên một thi thể.
Jesus đã hứa trong Kinh thánh rằng “Ta sẽ đến”, nhưng tôi có thể khẳng định với bạn rằng ngài sẽ không đến – một lần là quá đủ. Ai lại muốn bị đóng đinh lần nữa? Và lần đó ít ra còn có an ủi: rằng đó là người Do Thái, chính thống, mang tư tưởng truyền thống; họ có thể không hiểu được cuộc cách mạng mà ngài mang đến. Nhưng lần này, thậm chí sự an ủi đó cũng sẽ không còn nữa. Những người đóng đinh ngài sẽ là người của ngài.
Lần trước, Jesus đã cầu nguyện với Thượng đế: “Hãy tha thứ cho những con người này bởi vì họ không biết mình đang làm gì”. Vậy ngài sẽ làm gì lúc này? Ngài sẽ phải cầu nguyện: “Hãy tha thứ cho những người này, họ biết rõ điều mình đang làm”. Nhưng họ sẽ làm đúng như vậy.
Sự sùng bái chính là việc làm ăn, một công việc làm ăn mang tính tôn giáo. Nó có tiếng nói tôn giáo nhưng không có trải nghiệm. Đúng vậy, có thể trước đó đã có một bông hoa nhưng giờ nó không còn nữa. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, và kể từ đó, các giáo sĩ không ngừng nói dối rằng họ chính là đại diện của hương hoa đó. Không ai có thể đại diện cho hương hoa: nó đến từ bông hoa và đi cùng với bông hoa đó.
Tôn giáo là nổi loạn, nó buộc phải như thế, bởi vì tôn giáo bắt đầu nói những điều đi ngược lại truyền thống, bởi vì chỉ có một trong hai kiểu người này tồn tại: hoặc đám đông, đám đông ngu dốt – những bộ óc tạo nên truyền thống, hoặc những người giống như Jesus, hoặc Phật, hoặc Mahavira. Họ là những người cô đơn. Những gì họ nói chỉ vài người mới hiểu. Những gì họ mang tới cho thế giới quá xa lạ đến mức không có cách nào hiểu được trừ khi bạn tiếp xúc với họ bằng trái tim. Jesus bị hiểu lầm, Socrates bị hiểu lầm, Al-Hillaj Mansoor bị hiểu lầm. Bất cứ khi nào bạn tìm thấy một người có tín ngưỡng, dĩ nhiên là xung quanh người đó sẽ xuất hiện sự hiểu lầm. Nhưng một khi người đó chết, mọi thứ sẽ ổn định. Một khi người đó chết, các giáo sĩ sẽ có một vụ làm ăn mới.