• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trò chuyện với vĩ nhân
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 25
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 25
  • Sau

KABIR

Chúng ta không biết nhiều về Kabir. Thật may mắn, bởi vì khi biết quá nhiều về một người, bạn sẽ khó hiểu được anh ta. Khi bạn không biết gì về chính người đó, mọi thứ ít phức tạp hơn. Đó là lý do vì sao ở phương Đông, một trong những truyền thống lâu đời được gìn giữ nghiêm ngặt nhất là không nói nhiều về các nhà thần bí, để nó không gây cản trở mọi người.

Chúng ta không biết nhiều về Krishna, chúng ta cũng không biết nhiều về Phật; tất cả những gì chúng ta biết về họ đều mang tính thần học hơn là lịch sử, đều hư cấu, không có thật. Nhưng đối với Kabir, thậm chí không có cả hư cấu. Ông ấy không quá cổ xưa nhưng đã sống theo cách tự làm lu mờ chính mình. Ông ấy không để lại bất kỳ dấu vết nào.

Chỉ có những nhà chính trị mới để lại dấu ấn lên thời gian. Còn những nhà thần bí sống vượt thời gian. Họ không để lại bất kỳ dấu ấn nào lên thời gian, họ không để lại bất kỳ chữ ký nào. Họ không tin vào việc ký tên lên những bãi cát thời gian. Họ biết nó sẽ bị xóa đi, nên việc ký tên lên đó là vô ích. Kabir không nói nhiều về chính mình, và người ta cũng không biết gì nhiều về ông ấy. Thậm chí không ai biết ông ấy là tín đồ đạo Hindu hay đạo Hồi.

Chuyện kể rằng ông ấy chào đời là người Hồi giáo nhưng được nuôi dưỡng bởi một tín đồ Hindu. Và điều này thật đẹp, thật đáng sống, cho nên mới có sự phong phú đó. Ông ấy có hai truyền thống giàu bản sắc, Hindu và Hồi giáo. Nếu chỉ là một tín đồ Hindu, dĩ nhiên là bạn nghèo nàn. Nếu chỉ là một tín đồ Hồi giáo, bạn cũng nghèo nàn. Hãy nhìn vào sự phong phú mà tôi đang có – tôi là một tín đồ Hindu, một tín đồ Hồi giáo, một tín đồ Cơ Đốc giáo, một tín đồ Sikh và một tín đồ Parsi. Ngoài ra, tôi còn là một người hữu thần và vô thần. Tôi nhận lấy toàn bộ di sản của nhân loại! Tôi nhận lấy tất cả; tôi không chối bỏ điều gì. Từ Charvakas đến Phật, tôi nhận hết.

Toàn nhân loại này là của bạn, toàn bộ sự tiến hóa trong tâm thức nhân loại này là của bạn, nhưng bạn lại quá keo kiệt. Ai đó đã trở thành tín đồ Hindu; anh ta chỉ nhận một góc và sống trong góc đó, què quặt và tê liệt. Trên thực tế, góc đó quá nhỏ hẹp đến nỗi bạn không thể cử động được. Nó không đủ rộng. Một người có tín ngưỡng sẽ nhận lấy tất cả – Phật, Mahavir, Christ, Zarathustra, Lão Tử, Nanak, Kabir… anh ta sẽ nhận hết. Họ là một phần của tôi; họ là một phần của bạn. Bất cứ điều gì xảy ra với tâm thức nhân loại, bạn đều mang theo những hạt giống của nó bên trong.

Có một điều cần được hiểu về Kabir. Ông ấy được sinh ra là người Hồi giáo, trưởng thành như là một tín đồ Hindu, và không thuộc về bất cứ ai. Thậm chí vào thời điểm khi Kabir sắp chết, đó vẫn là điều gây tranh cãi giữa các đồ đệ của ông ấy. Các tín đồ Hindu đòi nhận thi thể ông, các tín đồ Hồi giáo cũng đòi nhận thi thể ông, và có một câu chuyện thú vị về điều đó. Kabir đã để lại một di thư về cái chết của mình. Kabir biết nó sẽ xảy ra – đám người ngu ngốc kia sẽ tranh nhau thi thể và sẽ có xung đột – cho nên ông ấy đã để lại lời nhắn: “Nếu xảy ra tranh chấp, hãy phủ lên người ta một tấm vải và chờ đợi, câu trả lời sẽ đến”. Và chuyện kể rằng sau khi phủ tấm vải lên thi thể Kabir, người Hindu bắt đầu cầu nguyện, người Hồi giáo bắt đầu cầu nguyện, và khi tấm vải được mở ra, Kabir đã biến mất – chỉ còn lại vài bông hoa ở đó. Những bông hoa này đã được phân chia.

Quả là một câu chuyện hay, và tôi gọi nó là chuyện ngụ ngôn. Tôi không nói câu chuyện đó có thật hay không nhưng nó nói lên nhiều điều. Một người giống như Kabir đã biến mất. Ông ấy không hiện diện trong cơ thể của mình. Ông ấy đang trong quá trình nở hoa từ bên trong. Bạn chỉ ở trong cơ thể đến một giai đoạn nhất định. Cơ thể có một chức năng nhất định để hoàn thiện; chức năng đó là sự nở hoa tâm thức. Một khi tâm thức đã nở hoa, cơ thể sẽ không hiện hữu. Cơ thể có hiện hữu hay không sẽ không còn quan trọng nữa. Nó chỉ đơn giản là không còn liên quan.

Câu chuyện thật đẹp. Khi người ta loại bỏ tấm che, chỉ còn lại một vài bông hoa. Kabir là một bông hoa đang nở – chỉ còn lại một vài bông hoa. Và những đồ đệ ngu ngốc thậm chí cũng không hiểu. Họ lại chia nhau những bông hoa đó.

Những khúc hát của Kabir vô cùng đẹp. Ông ấy là nhà thơ, không phải triết gia. Ông ấy không tạo ra một hệ thống. Ông ấy không phải là nhà lý thuyết học hay nhà thần học. Ông ấy không quan tâm đến các học thuyết, kinh sách. Ông ấy dồn hết vào cách nở hoa và trở thành một vị thánh. Toàn bộ nỗ lực của ông ấy là khiến bạn yêu thương nhiều hơn, tỉnh táo nhiều hơn.

Đối với Kabir, vấn đề không phải là học hỏi nhiều, mà là gạt bỏ nhiều. Theo cách đó, ông ấy là một hiện tượng rất hiếm. Phật, Mahavir, Krishna, Rama đều là những người đặc biệt. Họ đều là vua, đều có học thức, có văn hóa. Kabir không là ai cả, ông ấy thuộc về đám đông, nghèo khó, rất đỗi bình thường, không có học thức, không theo một nền văn hóa nào. Và đó chính là sự hiếm có ở ông ấy. Vì sao tôi gọi nó là sự hiếm có của ông ấy? Bởi vì làm người bình thường trong thế giới này là điều phi thường nhất. Ông ấy rất bình thường, và vẫn luôn là người bình thường.

Khát vọng tự nhiên trong tâm trí con người là trở nên đặc biệt – đặc biệt theo cách có nhiều bằng cấp, nhiều quyền lực chính trị, nhiều tiền bạc, của cải. Để trở nên đặc biệt, tâm trí luôn sẵn sàng bước vào cuộc hành trình của cái tôi. Và nếu bạn cảm thấy chán ngấy với thế giới này, cái tôi sẽ bắt đầu tìm kiếm các phương cách mới để tự nâng mình lên – đó là sức mạnh tinh thần. Bạn trở thành một mahatma, một nhà hiền triết vĩ đại, một học giả vĩ đại, một người có kiến thức, một người hy sinh quên mình; một lần nữa, bạn trở nên đặc biệt.

Chừng nào khát khao được trở nên đặc biệt chưa biến mất, bạn sẽ không bao giờ trở nên đặc biệt. Chừng nào chưa thư giãn trong cái bình thường của mình, bạn sẽ không bao giờ thư giãn.

Người thật sự tâm linh là người hoàn toàn bình thường. Kabir rất bình thường, bạn sẽ không thể tìm thấy ông ấy giữa đám đông. Sự đặc biệt của ông ấy không thể hiện ra bên ngoài. Bạn không thể thấy nếu chỉ nhìn vẻ mặt. Đây là điểm khó. Phật là một người đặc biệt, một người rất đẹp với thần thái quyến rũ, lịch thiệp. Jesus là người rất đặc biệt, mạnh mẽ với tinh thần cách mạng và nổi dậy. Nhưng còn Kabir? Ông ấy là một người bình thường, rất đỗi bình thường.

Hãy nhớ, khi nói bình thường, tôi không hàm ý trung bình. Trung bình không phải là bình thường. Trung bình chỉ là bất bình thường “một cách bình thường”; ông ấy cũng điên như tất cả những người khác. Thực ra trên thế giới này, người bình thường không tồn tại.

Tôi từng nghe câu chuyện sau:

Một bác sĩ tâm thần học nổi tiếng – khi đang giảng dạy môn tâm thần học tại một trường đại học – đã được sinh viên hỏi: “Thưa bác sĩ, ông đã nói về người bất bình thường và hành vi của anh ta, vậy còn người bình thường thì sao?”.

Vị bác sĩ hơi bối rối: “Cả đời mình ta chưa từng gặp một người bình thường nào. Nhưng nếu tìm thấy người đó, chúng ta sẽ chữa bệnh cho anh ta!”.

Kabir chính là người bình thường đó – người mà bạn sẽ không bao giờ gặp được, người không có khát khao trở nên đặc biệt. Khi được giác ngộ, ông ấy vẫn sống một cuộc sống bình thường. Ông ấy là người dệt vải; ông ấy vẫn tiếp tục là người dệt vải.

Số lượng đồ đệ của Kabir không ngừng gia tăng, từ trăm đến vạn rồi chục vạn người. Các đồ đệ luôn nói ông hãy ngừng công việc dệt vải: “Thầy không cần làm nữa. Chúng con sẽ chăm lo cho thầy”. Nhưng Kabir cười và đáp: “Ta nên tiếp tục công việc mà Thượng đế muốn ta làm. Ta không muốn trở thành ai khác. Hãy để ta làm những gì ta đang làm, những gì Thượng đế muốn ta làm. Nếu Thượng đế muốn ta là người dệt vải, đó là lý do vì sao ta là người dệt vải. Ta được sinh ra là người dệt vải và ta sẽ chết như là một người dệt vải”.

Ông ấy tiếp tục sống cuộc sống bình thường của mình. Ông ấy vẫn ra chợ bán hàng, lấy nước từ giếng mang về nhà. Ông ấy sống rất đỗi bình thường. Đó là một trong những điều có ý nghĩa quan trọng nhất cần được hiểu. Ông ấy không bao giờ tuyên bố rằng mình là người có kiến thức, bởi vì không một người có kiến thức nào làm như vậy. Biết nghĩa là không biết, không biết nghĩa là biết, thế mới là biết. Một người hiểu biết thật sự biết rằng mình không biết gì cả. Sự không biết của người đó vô cùng sâu sắc. Và từ sự không biết này sẽ xuất hiện sự trong sáng. Khi biết, bạn trở nên khôn vặt. Khi biết, bạn trở nên láu lỉnh. Khi biết, bạn đánh mất sự trong sáng của tuổi thơ.

Kabir nói rằng mình ngu dốt, rằng mình không biết gì. Và cần phải hiểu được điều này, bởi vì đây sẽ là nền tảng để bạn hiểu thơ của ông ấy. Vậy những bài thơ của Kabir đến từ đâu? Nó đến từ sự trong sáng của ông ấy, nở hoa từ sự trong sáng của ông ấy. Ông ấy nói mình không biết.

Bạn có bao giờ quan sát thấy, trong cuộc sống, chúng ta cứ mãi khẳng định rằng mình biết, nhưng chúng ta không biết? Bạn biết điều gì? Bạn đã từng biết được điều gì? Nếu tôi hỏi vì sao cây cối có màu xanh, liệu bạn có trả lời được hay không? Đúng vậy, câu trả lời hay nhất mà tôi từng nghe là từ D. H. Lawrence. Một đứa trẻ khi đi dạo với ông ấy trong một khu vườn đã hỏi: “Vì sao cây có màu xanh?”. D. H. Lawrence nhìn lên cây, rồi nhìn vào mắt đứa trẻ và đáp: “Chúng màu xanh là bởi vì chúng màu xanh”. Đó là câu trả lời thành thật nhất từ trước đến nay. Liệu bạn có thể nói gì được nữa? Nếu giải thích theo cách khác, bất kỳ cách nào, bạn cũng sẽ trông ngu ngốc; nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Bạn có thể nói cây cối có màu xanh bởi vì chlorophyll, nhưng vì sao chlorophyll có màu xanh? Vẫn là câu hỏi đó. Tôi đưa ra một câu hỏi, bạn trao cho tôi câu trả lời, nhưng câu hỏi đó vẫn chưa thực sự được trả lời.

Bạn đã sống với một người phụ nữ suốt ba mươi năm, và bạn gọi người đó là vợ, hoặc với một người đàn ông trong suốt năm mươi năm; bạn có thật sự biết người đàn ông hay người đàn bà đó? Đứa con của bạn chào đời; liệu bạn có biết nó? Bạn có nhìn vào mắt nó? Bạn có dám tuyên bố rằng mình biết nó? Bạn biết được điều gì?

Bạn có biết về một hòn đá? Có, các nhà khoa học sẽ đưa ra nhiều cách lý giải, nhưng chúng không trở thành kiến thức. Họ sẽ nói rằng đó là các electron, proton và neutron. Nhưng một electron là gì? Họ nhún vai nói: “Chúng tôi không biết”. Họ nói: “Chúng tôi CHƯA biết” với hy vọng một ngày nào đó họ sẽ biết. Không, họ sẽ không bao giờ biết, bởi vì lúc đầu họ nói: “Đá được làm từ các nguyên tử”, và khi được hỏi nguyên tử là gì, họ đáp: “Chúng tôi chưa biết”. Rồi họ nói: “Nguyên tử bao gồm các electron”. Giờ chúng ta hỏi: “Vậy electron là gì?”, họ đáp: “Chúng tôi chưa biết”. Một ngày nào đó, họ sẽ nói rằng electron bao gồm cái này và cái kia, X, Y, Z; nhưng điều đó chẳng có gì khác biệt.

Sự tối thượng không thể nào được tinh giản thành kiến thức. Sự tối thượng vẫn luôn là một bí ẩn. Nếu sự tối thượng là một bí ẩn, vậy thì cuộc sống sẽ trở nên kỳ diệu. Nếu sự tối thượng không được biết đến, khi đó thơ ca sẽ xuất hiện. Nếu sự tối thượng được biết đến – hoặc bạn cho rằng như thế – triết lý sẽ xuất hiện. Đó là sự khác biệt giữa triết lý và thơ ca.

Và cách tiếp cận của Kabir là cách tiếp cận của một nhà thơ, một người tình, người luôn tự hỏi cuộc sống là gì. Không biết về nó, ông ấy hát. Không biết về nó, ông ấy cầu nguyện. Không biết về nó, ông ấy cúi đầu. Phương pháp của nhà thơ không theo cách lý giải, mà là biểu cảm. Ông ấy nói: “À ha, à ha! Đây cũng là sự bí ẩn”.

Bất cứ nơi nào bạn tìm thấy sự bí ẩn, ở đó có Thượng đế. Càng biết, bạn càng ít nhận biết về Thượng đế; bạn càng biết ít, Thượng đế càng đến gần bạn hơn. Nếu bạn không biết gì, nếu bạn có thể tự tin nói: “Tôi không biết”, nếu câu nói “Tôi không biết” này xuất phát từ sâu trong bản thể của bạn, khi đó Thượng đế sẽ ở trong chính tâm điểm đó, trong chính nhịp đập của trái tim bạn. Và rồi thơ ca sẽ xuất hiện… và rồi ai đó sẽ đem lòng yêu mến sự bí ẩn vô bờ đang tỏa ra quanh bạn.

Tình yêu đó là tín ngưỡng. Tín ngưỡng là không theo đuổi bất kỳ lời giải thích nào. Có đức tin là không tìm kiếm lời giải thích. Thay vào đó, nó là hành trình khám phá tình yêu, một hành trình bất tận đi vào tình yêu.

Tôi mời bạn cùng tôi bước vào tận cùng thánh địa của người điên Kabir này. Đúng vậy, ông ấy là một gã điên – tất cả những người có tín ngưỡng đều như thế. Điên bởi vì họ không tin vào nguyên cớ. Điên bởi vì họ yêu cuộc sống. Điên bởi vì họ có thể nhảy múa và ca hát. Điên bởi vì đối với họ, cuộc sống không phải là câu hỏi, không phải là bài toán cần lời giải đáp, mà là một bí ẩn nơi bạn phải tự tan biến.

Cho nên, ngay từ đầu cuộc hành trình, tôi muốn nói với bạn rằng hãy trong sáng; chỉ khi đó bạn mới có thể hiểu được Kabir. Đừng đưa tâm trí vào, đừng bắt đầu tranh luận với ông ấy, bởi vì ông ấy không phải là nhà logic học. Khi nhìn thấy bức tranh, bạn không tranh cãi với bức tranh mà chỉ thưởng lãm nó. Khi lắng nghe một nhạc sĩ chơi đàn guitar, bạn không tranh cãi. Khi đi gặp nhà thơ, bạn không tranh cãi. Bạn lắng nghe thơ ca, bạn không nghĩ gì đến tranh cãi.

Nhưng đối với tôn giáo, có khó khăn. Khi lắng nghe một người sùng đạo, bạn tranh cãi. Và trách nhiệm thuộc về những người được gọi là sùng đạo bởi vì họ đã tranh cãi. Có những kẻ ngu ngốc thậm chí còn cố tranh cãi để chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Cứ như thể Thượng đế phụ thuộc vào sự tranh cãi của bạn. Cứ như thể nếu bạn không tranh cãi, Thượng đế sẽ không thể hiện diện ở đây, Người sẽ không tồn tại. Cứ như thể Thượng đế là phép tam đoạn luận.

Kabir sẽ không tranh cãi. Những khẳng định của ông ấy giống như sách cổ Upanishad, hay những khẳng định của Mohammed trong kinh Koran, hay những khẳng định của Jesus trong Kinh thánh. Ông ấy cảm nhận… ông ấy hát về cảm nhận của mình. Hãy cảm nhận ông ấy. Không có câu hỏi nào trong đầu ông ấy. Hãy đặt tâm trí của bạn qua một bên.

Nếu muốn hiểu, bạn sẽ phải khiến cho tâm trí im lặng. Hãy lắng nghe Kabir như một người đang nghe thơ; ông ấy là một nhà thơ. Cho nên, đừng lắng nghe từng chữ. Hãy lắng nghe sự tĩnh lặng xung quanh bạn.

Đừng lắng nghe ngôn từ. Hãy lắng nghe chất thơ của ngôn từ, lắng nghe nhịp điệu, khúc hát. Hãy lắng nghe sự chúc tụng của Kabir. Ông ấy không ở đây để rao giảng điều gì cả. Ông ấy giống như cây anh đào. Trong đêm trăng rằm, cây anh đào đã nở hoa. Những đóa hoa không tranh cãi, chúng chỉ đơn giản có mặt ở đó. Đây là sự bùng nổ. Kabir đã bung nở thành những khúc hát.

Và có hai khả năng: bất cứ khi nào sự giác ngộ xuất hiện, người đó hoặc sẽ trở nên tĩnh lặng, hoặc sẽ bung nở thành khúc hát. Đây là hai khả năng. Khi Meher Baba được giác ngộ, ông ấy trở nên im lặng. Rồi ông ấy vẫn luôn im lặng suốt cả cuộc đời mình. Khi Meera được giác ngộ, cô ấy bắt đầu nhảy múa, ca hát. Đây là hai khả năng: người đó hoặc sẽ trở nên hoàn toàn im lặng, hoặc cả cuộc đời người đó trở thành khúc hát. Cuộc đời của Kabir chính là khúc hát đó.

Nhưng hãy nhớ, trong khúc hát của ông ấy là sự tĩnh lặng. Và cũng luôn nhớ rằng trong Meher Baba hoặc những người giống như ông ấy, có khúc hát trong sự tĩnh lặng của họ. Nếu chú ý lắng nghe sự tĩnh lặng của Meher Baba, bạn sẽ chan chứa một khúc hát, bạn sẽ cảm nhận nó đang trút xuống bạn. Và nếu lắng nghe Kabir một cách tĩnh lặng, bạn sẽ nhận thấy khúc hát của ông ấy chính là thông điệp về sự tĩnh lặng.

Kabir là một trong những con người hiếm hoi từng hiện diện trên trái đất này. Ông ấy thuộc về nhóm những nhà thần bí cao cấp nhất. Và thật kỳ lạ là ông ấy hoàn toàn không được học hành gì nhiều, không theo nền văn hóa nào, mồ côi cha mẹ. Nhưng dù sống cuộc đời nghèo khó của một người dệt vải, ông ấy đã dệt nên những vần thơ tuyệt đẹp. Ngôn từ của ông ấy thô sơ nhưng hàm súc và chứa đầy ý nghĩa. Ông ấy nói:

Sự ngu ngơ đóng những cánh cổng sắt...

Từ “ngu ngơ” chứa đựng một vẻ đẹp trong đó. Bạn thường không nghĩ về nó theo cách này. Bạn luôn nghĩ về sự ngu ngơ như là một kiểu thiếu kiến thức, nhưng nghĩa thật sự của nó là sự phớt lờ, phớt lờ những thứ có thể trở thành kiến thức của bạn, trở thành trí khôn của bạn. Và suốt ngày, suốt đời, bạn không ngừng phớt lờ chính mình.

Bạn quan tâm chăm sóc mọi thứ, ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất, nhưng lại không bao giờ chú ý đến thứ quý giá nhất mà mình có được – chính bạn. Và Kabir sử dụng từ này theo nghĩa tương tự. Việc phớt lờ chính mình là sự phớt lờ duy nhất. Nó đóng những cánh cổng sắt.

… nhưng tình yêu sẽ mở những cánh cổng sắt đó.

Đây chính là lời lẽ của một người biết. Nếu là một người có học thức, hẳn ông ấy đã nói rằng kiến thức mở những cánh cửa. Nhưng thay vì kiến thức, chỉ có người biết mới nói được rằng tình yêu sẽ mở những cánh cổng sắt đó.

Tâm trí vẫn luôn không nhận biết; nó không thể thoát ra được. Những cánh cổng sắt vẫn đóng. Tâm trí có thể được trang bị kiến thức nhưng không thể trở nên thấu suốt. Chỉ có trái tim mới mở được những cánh cổng kia. Chỉ có tình yêu mới khiến bạn thông suốt.

Âm thanh của tiếng mở cổng đánh thức giai nhân đang say ngủ.

Đây chính là những từ ngữ mang tính biểu tượng. Theo Kabir, tâm hồn bạn là một người đàn bà đang say ngủ. Ông ấy sử dụng hình ảnh người đàn bà để đại diện cho tâm hồn bạn, cho tâm thức của bạn bởi vì chỉ có những phẩm chất nữ tính này mới đúng là những đặc tính tâm linh. Vẻ đẹp là nữ tính, sự trung thực là nữ tính, sự chân thành là nữ tính; tất cả những gì tuyệt vời bên trong tâm thức của bạn đều là nữ tính. Thậm chí bản thân từ tâm thức cũng nữ tính.

Trong tiếng Anh, điều này khó khăn hơn bởi vì không có sự khác biệt giữa các từ ngữ, bạn không thể phân biệt được giống đực hay giống cái trong mỗi từ. Nhưng ở bất cứ ngôn ngữ nào xuất hiện tại phương Đông, mỗi từ đều có sự khác biệt: tâm thức, tỉnh thức, samadhi, sambodhi, tất cả đều nữ tính.

Người có tình yêu và sự thấu cảm sẽ bắt đầu có vẻ đẹp nữ tính và sự duyên dáng nữ tính. Nam giới có phần hơi hung bạo. Họ sở hữu những phẩm chất của một chiến binh, một người lính, một người coi mình là ưu việt, là trên hết, một kẻ cuồng tín, phát xít. Các phẩm chất của nam giới là phẩm chất của một Nazi.

Không có gì lạ khi nước Đức là quốc gia duy nhất tự gọi mảnh đất của mình là “fatherland” (quê cha). Các quốc gia khắp thế giới đều gọi là “motherland” (đất mẹ). Đức là một trường hợp đặc biệt. Đã đến lúc họ cần phải thay đổi; họ nên thôi gọi mình là “fatherland” bởi vì điều đó tạo ra những phẩm chất nam tính mà Adolf Hitler nghĩ về Friedrich Nietzsche mặc dù Adolf Hitler không đủ trí thông minh để hiểu được Friedrich Nietzsche – bất cứ điều gì ông ấy hiểu được chỉ là sự nhầm lẫn. Nhưng có một vài điểm mà Friedrich Nietzsche cũng cần phải chịu trách nhiệm.

Trong một lá thư, ông ấy đã viết rằng trải nghiệm đẹp nhất của đời mình là khi ông ấy nhìn thấy, vào một buổi sáng tinh mơ, một tiểu đoàn với những khẩu súng sáng lấp lánh bên mình, và được nghe âm thanh nhịp nhàng của tiếng bước chân: “Ta chưa bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng đẹp đến vậy, và cũng chưa bao giờ nghe thấy thứ âm nhạc nào hay như tiếng nhịp bước đều của những người lính”.

Nietzsche cũng có phần trách nhiệm; đây là những câu nói mà Adolf Hitler sưu tầm từ Nietzsche. Người lính trở thành con người thật sự, và tất cả những phẩm chất của một chiến binh trở thành phẩm chất của một siêu nhân.

Phương Đông luôn nhận thức rằng nam giới và các phẩm chất của họ có thể thực lợi, hữu dụng, nhưng họ không có sự nhạy bén, mềm mại, không có lòng yêu thương, sự thấu cảm của người phụ nữ. Đó là lý do vì sao Kabir nói:

Âm thanh của tiếng mở cổng đánh thức giai nhân đang say ngủ.

Kabir nói: “Đừng để cơ hội như thế này trôi qua”.

Tôi cũng muốn nói với bạn rằng đừng để cơ hội như thế này trôi qua. Ở đây, chúng ta đang nỗ lực để đánh thức người phụ nữ bên trong bạn, đánh thức tâm thức của bạn, đánh thức sự duyên dáng của bạn, đánh thức vẻ đẹp của bạn. Đừng để cơ hội như thế này trôi qua.

***

Kabir là một người đưa tin, là sứ giả của tương lai, là đóa hoa đầu tiên báo hiệu mùa xuân đến. Ông ấy là một trong những thi sĩ vĩ đại nhất. Ông ấy không phải là nhà thần học, ông ấy không thuộc về bất kỳ tôn giáo nào. Tất cả các tôn giáo đều thuộc về ông ấy, ông ấy đủ rộng lớn để chứa đựng tất cả. Ông ấy không được định hình bởi bất kỳ tôn giáo nào. Ông ấy là tín đồ Hindu, là tín đồ Hồi giáo, là tín đồ Cơ Đốc giáo, là tín đồ Kỳ Na giáo, là tín đồ Phật giáo. Ông ấy là một vẻ đẹp vĩ đại, là một vần thơ vĩ đại, là một dàn nhạc vĩ đại.

Và ông ấy hoàn toàn thất học. Người đàn ông này là một người dệt vải, một người nghèo khó. Tại Ấn Độ, ông ấy là một hiện tượng hiếm có – Phật là thái tử, Mahavira cũng là thái tử, Rama và cả Krishna cũng thế. Ấn Độ quan tâm đến tầng lớp giàu có nhiều đến mức, bất kể các vị lãnh đạo nói gì, những lời nói đó đều mang ý nghĩa tâm linh. Họ đã quá chú trọng đến vật chất, thậm chí còn không trung thực về điều đó. Ngay cả khi đưa ra những tuyên bố chống lại vật chất, người Ấn Độ vẫn là những kẻ theo chủ nghĩa vật chất. Họ khen ngợi Đức Phật bởi vì Đức Phật đã dám từ bỏ cả hoàng cung – giá trị vẫn nằm ở hoàng cung. Bởi dám từ bỏ sự giàu sang tột đỉnh đó nên Đức Phật mới được tôn vinh.

Kabir là một hiện tượng hiếm có, ông ấy là một người nghèo khổ. Lần đầu tiên, một người nghèo khổ được công nhận như là đứa con của Thượng đế bởi đây vốn là “lãnh địa riêng” của vua chúa, hoàng tử và tầng lớp giàu có. Kabir chính là Christ của phương Đông. Christ là con trai của người thợ mộc – và Christ cũng nói theo cách giống như Kabir. Họ có nhiều điểm tương đồng. Họ cùng thuộc về trái đất, họ rất đời thường, nhưng cả hai đều sở hữu trực cảm vĩ đại. Họ rất đơn giản. Có lẽ đó là lý do vì sao những lời nói của họ lại có sức thuyết phục mạnh mẽ. Sự thông thái của họ không đến từ trường đại học, họ chưa từng đi học. Sự thông thái của họ đến từ đám đông, đến từ trải nghiệm của chính họ. Những gì họ nói không phải là kiến thức học được, cũng không mang tính học thuật. Họ không phải là học giả, cũng không phải là giáo sĩ. Họ là những người bình thường. Với Kabir, lần đầu tiên, một người nghèo khó đã dám nói về vẻ đẹp của Thượng đế.

Rất khó để một người nghèo khó có thể bày tỏ sự duyên dáng của Thượng đế, rất khó để một người nghèo khó trở thành người có tín ngưỡng. Theo hiểu biết của tôi thì nếu bạn tìm thấy một người giàu có và không có tín ngưỡng, nghĩa là anh ta ngu ngốc. Tâm thức tín ngưỡng nhất định sẽ xuất hiện nếu bạn giàu có. Bạn không cần thật tỉnh thức, chính sự giàu có của bạn sẽ cho thấy sự phù phiếm của thế giới này. Nếu có tất cả, bạn phải có tín ngưỡng, đó là điều không thể tránh khỏi, bởi vì khi có tất cả, bạn mới có thể nhìn thấy, ngay cả người ngu ngốc cũng có thể nhìn thấy mà không cần đến trí tuệ cao siêu, rằng: “Tôi đã có tất cả, và tôi chẳng có gì bên trong”. Nếu điều này không xảy ra với một người giàu có, anh ta phải thật sự rất, rất ngu ngốc, hoàn toàn ngu ngốc.

Đối với người nghèo, có tín ngưỡng là việc rất khó, anh ta cần phải có trí tuệ siêu phàm, bởi vì người nghèo chẳng có gì. Khi bạn nghèo, thật khó để bạn nhận thấy thế giới này là vô nghĩa. Bạn chưa trải nghiệm thế giới – bạn phải thấu hiểu mới có thể nhận thấy mình không có những gì, để nhìn thấy sự phù phiếm của nó. Đó là lý do vì sao tôi đánh giá cao Christ và Kabir hơn. Họ có tất cả; họ đi xuyên qua thế giới. Phật sở hữu tất cả những phú quý xa hoa mà con người có thể đạt được từ hai mươi lăm thế kỷ trước. Cho nên, hoàn toàn tự nhiên nếu Phật nhận ra rằng chẳng có gì bên trong vẻ đẹp hình thức, rằng đó là giấc mơ. Không cần đến nhiều trí tuệ để ngài ấy nhận ra rằng chúng không khiến bạn thỏa mãn. Của cải vật chất không khiến bạn thỏa mãn, trải nghiệm thực tế chứng minh rằng chúng không khiến bạn thỏa mãn, rằng sự bất mãn vẫn còn đó.

Nhưng đối với Kabir hay Christ, điều này rất khó. Họ không phải là vua, họ là những người nghèo khó, thậm chí không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản của chính mình. Cho nên, họ hoàn toàn có thể hy vọng, mơ ước và khát khao.

Để hiểu rằng thế giới này là vô nghĩa, bạn cần phải là một thiên tài vĩ đại. Kabir thất học nhưng lại có trí thông minh tuyệt vời, với cặp mắt thấu suốt đến độ ông ấy có thể nhìn thấy được sự phù phiếm của những thứ mà mình không có. Ông ấy có thể NHÌN THẤY nó mà không cần phải cầm nắm trong tay, năng lực tri giác của ông ấy thật rõ ràng. Ông ấy cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về tôn giáo tương lai.

Những gì Kabir nói đều không được ghi chép lại, nó được ông nói với các đồ đệ của mình. Đây chính là sự thổ lộ tự nhiên. Ông ấy là một ca sĩ, ông ấy là một nhà thơ: ai đó sẽ yêu cầu và ông ấy sẽ hát một ca khúc thật ngẫu nhiên. Và chưa ai từng hát được những ca khúc như thế.

Người giác ngộ là kẻ ngốc. Hãy nhớ, khi di chuyển cùng với Kabir, người được giác ngộ chẳng khác nào một kẻ ngốc. Điều khiến người nào đó được giác ngộ là việc nhận biết rằng mình là một kẻ ngốc. “Tâm trí của ta là tâm trí của một kẻ ngốc”, Lão Tử nói. Kabir sẽ hoàn toàn đồng ý. “Nó trống rỗng làm sao”, Lão Tử nói, “trống rỗng như tâm trí của một kẻ ngốc”. Sự trống rỗng sẽ không xem điều gì là nghiêm trọng, không cho rằng cái nào quan trọng hơn cái nào. Sự tôn sùng không nắm giữ điều gì, nó đón mừng tất cả.

Kabir là người chủ trì. Ông ấy đón mừng tất cả – mọi sắc màu của cuộc sống, toàn bộ ánh cầu vồng của cuộc sống. Những gì ông ấy nói với bạn không phải triết học mà chỉ là những vần thơ thuần túy. Nó không phải tôn giáo mà là một bàn tay ra hiệu, một cánh cửa hé mở, một tấm gương được lau sạch. Đó là con đường trở về nhà, con đường trở về với thiên nhiên. Đối với Kabir, thiên nhiên là Thượng đế – cây cối, đá, sông, núi. Ông ấy không tin vào đền chùa, nhà thờ, thánh đường, ông ấy tin vào việc sống với thực tại. Thượng đế ở đó, hít thở, nở hoa, tuôn tràn. Còn bạn đi đâu? Bạn đi đến đền chùa, nơi con người tạo ra, để tôn thờ một thần tượng, cũng do con người tạo ra, trong hình ảnh của chính Thượng đế.

Kabir gọi bạn trở về. Bạn đang làm gì ở các đền chùa, nhà thờ đó? Ông ấy gọi bạn trở về để đón mừng cuộc sống.

***

Khi lần đầu bước vào chốn không tên này, Kabir đã viết ngay một bài thơ thật đẹp, trong đó có câu “Giọt sương đã rơi xuống đại dương”. Những câu thơ của ông ấy thật đẹp:

Herat herat hey sakhi, rahya Kabir herayi – “Ôi, người bạn, người yêu quý của tôi, tôi đã đi tìm, đi tìm chính mình, nhưng điều gì đó kỳ lạ đã xảy ra. Thay vì tìm thấy chính mình, tôi đã biến mất giống như giọt sương giữa đại dương.”

Bunda samani samunda men so kat heri jayi – “Giọt sương đã biến mất giữa đại dương. Giờ làm sao bạn có thể tìm thấy lại giọt sương đó?”

Đó là trải nghiệm đầu tiên của ông ấy. Từ đó, ông ấy ngày càng tỉnh thức hơn về đại dương và quên hết mọi điều về giọt sương. Trước khi chết, ông ấy đã gọi con trai của mình, Kamal. Hẳn tên gọi đó là do Kabir đặt. Kamal có nghĩa là phép mầu, con trai của Kabir hẳn phải là phép mầu. Ông ấy gọi Kamal đến bảo:

– Ta sắp rời khỏi thân xác này. Trước khi ra đi, ta muốn con sửa lại một trong những câu thơ của ta. Chỉ một thay đổi nhỏ thôi…

Ta đã viết rằng giọt sương biến mất vào đại dương. Con phải thay đổi chỗ đó. Hãy đảo ngược lại. Hãy viết rằng đại dương biến mất vào giọt sương, bởi vì giờ thì ta đã hiểu, từ phía bên kia. Trải nghiệm đầu tiên của ta đến từ bến bờ này; giờ ta đang nói từ bến bờ xa hơn, cao hơn. Giờ thì ta biết giọt sương đó không biến mất vào đại dương, chính đại dương biến mất vào giọt sương.

Kamal đáp:

– Con luôn hoài nghi về dòng thơ đó. Con có thể cho cha xem bản ghi của con.

Và Kamal đưa cho Kabir xem bản ghi của mình, người con trai đã gạch bỏ dòng chữ đó.

Kabir nói:

– Con đúng là Kamal, con đúng là phép màu. Con đã biết trước cả ta.

Dòng thơ đó đã bị gạch bỏ.

Kamal nói:

– Ngay từ đầu con đã nghi ngờ rằng đây là tuyên bố của người mới bắt đầu biết về cõi hư vô. Nhưng khi người đó trở thành hư vô, tuyên bố này sẽ hoàn toàn sai. Cho nên, giờ thì cha đã tỉnh táo, ngay trước lúc qua đời. Con thật vui khi cha không còn là người bắt đầu, cha đã trở thành một phần của cái tổng thể.

Sau đó, anh con trai viết dòng chữ mới: Đại dương đã biến mất vào giọt sương.

***

Kabir là một người nghèo khó. Đối với thế giới bên ngoài, ông ấy chẳng là ai cả. Nhưng với thế giới nội tâm, ông ấy cùng đẳng cấp với Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Zarathustra.

Dĩ nhiên, những phát biểu của ông ấy không thể bằng ngôn ngữ của giới trí thức, học thuật. Và điều đó chẳng có gì là không may, ngược lại, thật may mắn khi ông ấy sử dụng ngôn ngữ của người bình dân nhưng lại làm toát lên vẻ đẹp mà giới học giả không thể sánh được.

Ông ấy mang vẻ đẹp huyền bí vào thứ ngôn ngữ trần tục được sử dụng ở nơi họp chợ… bạn không thể nào nghĩ rằng điều này có thể trở thành biểu tượng cho sự tối thượng. Nhưng ông ấy không biết ngôn ngữ nào khác.

Ông ấy có được trải nghiệm về sự tối thượng, nhưng ngôn ngữ của ông ấy là ngôn ngữ của người dệt vải, ông ấy là một người dệt vải. Cả cuộc đời mình, ông ấy dệt nên những bộ quần áo, đem ra chợ bán vào mỗi Chủ nhật. Mặc dù tiếng lành đồn xa rằng ông đã giác ngộ, đã được khai sáng và hàng ngàn người, bao gồm cả các vị vua và những người giàu có, bắt đầu tìm đến nhưng ông ấy không bao giờ từ bỏ công việc của mình. Ông ấy vẫn tiếp tục dệt vải.

Các đồ đệ của Kabir đã bảo ông ấy hàng ngàn lần: “Chúng con có thể chăm lo cho mọi nhu cầu của thầy. Thầy cũng không cần gì nhiều…”. Ông ấy chỉ có một con trai, một vợ và họ sống rất thanh bạch. Nhưng Kabir luôn từ chối. Ông ấy nói: “Thượng đế đã tạo ra ta là người dệt vải và ta không thể làm khác đi được. Các con không nghĩ đến những người mặc những bộ quần áo do ta dệt nên sao? Ta dệt bằng tình yêu và niềm hân hoan, bằng sự đón mừng, bằng tâm thức mà không ai có thể làm được. Điều gì sẽ xảy ra với khách hàng của ta? Ta luôn dệt cho khách hàng của mình, bởi vì mỗi khách hàng là một đại diện cho sự thiêng liêng. Ta đang phục vụ cho những điều thiêng liêng, đừng làm phiền ta nữa”.

Vì Kabir là người dệt vải nên ngôn ngữ của ông ấy luôn phản ánh nghề nghiệp và cả thứ ngôn ngữ được sử dụng theo nghề nghiệp đó.

Kabir nói: “Ta để lại chiếc áo choàng nguyên vẹn này”.

Đây là điều ông ấy nói chỉ vài phút trước khi qua đời. Ông ấy nói: “Ta để lại chiếc áo choàng nguyên vẹn này. Ta đã mặc nó bằng sự trân quý, rồi cất nó đi đúng như cách ta tìm thấy nó, mà không làm hư hại. Hỡi thiên nga, hãy cất cánh trên hành trình cô độc”.

Khoảnh khắc rời khỏi, sự rời bỏ cuối cùng của tâm thức ra khỏi cơ thể… Trong ngôn ngữ thần bí phương Đông, thiên nga tượng trưng cho linh hồn, bởi vì thiên nga quá trắng, quá thuần khiết, và đặc biệt, thiên nga đến từ dãy Himalaya có sự thuần khiết giống như lớp tuyết vĩnh hằng của dãy núi này.

Bởi vì độ trắng, sự thuần khiết đó… Và thiên nga sống ở nơi xa, tít tận dãy Himalaya nơi ít người lui tới, đó là hồ Mansarovar, hồ cao nhất thế giới, nơi đóng băng suốt chín tháng, chỉ ba tháng còn lại là tuyết tan. Nhưng thiên nga không bao giờ lỡ hẹn, nó luôn trở về Mansarovar sau mỗi chín tháng.

Và một điều kỳ lạ là những tháng không có mặt tại Mansarovar là thời gian thiên nga sinh con. Ngay cả khi chúng rời đi, trứng của chúng vẫn chưa nở. Cứ đúng hẹn, chúng lại bay trở về Mansarovar. Điều kỳ lạ là chim bố mẹ không bao giờ gặp chim con, chim con cũng chưa từng bay về Mansarovar hay biết gì về nơi này, nhưng khi trứng nở và chim non chào đời, chúng lập tức bay về hướng Mansarovar.

Cho nên, đây là một thông điệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng: Bạn không biết về nguồn cội của mình; không người chỉ dẫn, không bản đồ, bạn phải đi một mình. Nhưng mọi thiên nga con đều tìm được đường về Mansarovar.

Tương tự, chúng ta không thuộc về thế giới trần tục này. Nó không phải là nhà của chúng ta. Sớm muộn gì khoảnh khắc đó cũng đến: tâm thức của bạn sẽ mở rộng cánh và bay về nhà.

Kabir đưa ra tuyên bố của mình ngay trước khi rời khỏi thân xác. Thân xác đó được đại diện bằng chiếc áo choàng. Trong tiếng Hindi, nó được gọi là chadariya.

Ta để lại chiếc áo choàng nguyên vẹn này. Đúng như cách ta nhận được: ta không làm hư, thậm chí không có lấy một vết xước, không có lấy một đốm đen. Ta sẽ để lại nó một cách trắng trẻo, sạch sẽ và tinh tươm như lúc nhận.

Ta đã mặc nó bằng sự trân quý. Cần phải hiểu rằng Kabir không chống lại thể xác. Ông đã sử dụng cơ thể mình với sự trân quý, và rồi để nó lại nguyên vẹn đúng như khi tìm thấy. Giờ đã đến lúc phải để nó lại, nhưng sẽ để lại theo đúng như khi tìm thấy.

Lời lẽ của Kabir thật đẹp. Vẻ đẹp của nó gần như không thể chuyển tải được. Chúng chứa đựng nhạc tính mà rất dễ mất đi khi được chuyển sang ngôn ngữ khác, cho nên bạn cần lắng nghe ngôn ngữ gốc của nó:

Jyon ki tyon dhari dinhi chadariya

Khoob jatan kar odhi chadariya.

Giờ thì ngay cả chiếc áo choàng này, chadariya này, thứ mà bạn đã sử dụng cả đời mình cũng không thể đi theo bạn. Vợ của bạn, con cái của bạn, bạn bè của bạn, các đồ đệ của bạn, không ai có thể đi cùng bạn, bạn phải đi một mình. Đó là hành trình cô đơn đến chốn đơn độc.

Hỡi thiên nga, hãy cất cánh trên hành trình cô độc.

Và Kabir đã chúc phúc cho các đồ đệ của mình. Trước khi nhắm mắt, ông ấy đã nói rằng chadariya chỉ đơn thuần một tấm ra trải giường, ta có thể dùng nó để quấn quanh cơ thể mình. Ông ấy đã nói với các đồ đệ:

– Hãy phủ lên người ta tấm áo choàng, tấm chadariya.

Một đồ đệ hỏi:

– Vì sao thưa thầy?

Ông ấy đáp:

– Rồi con sẽ biết.

Cơ thể của Kabir được phủ bằng tấm vải mà ông ấy đã sử dụng suốt cuộc đời mình.

Tôi đã đến nơi mà Kabir qua đời, ngay gần Varanasi, phía bên kia sông Hằng. Theo các tín đồ Hindu, Varanasi là thành phố cổ nhất thế giới. Có vẻ đúng như vậy. Bạn không thể sử dụng xe hơi tại trung tâm thành phố bởi vì đường sá rất hẹp, hẹp đến mức bạn chỉ có thể đi bộ, không thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào khác. Các con đường hẳn phải được làm trước khi người ta phát minh ra xe bò bởi chúng thậm chí không đủ chỗ cho xe bò đi qua.

Ở khu vực cổ xưa của Varanasi, các con đường rợp bóng mát đến độ ánh mặt trời gần như không thể chạm đến được bởi vì các tòa nhà cao che khuất, trong khi những con đường lại quá hẹp, chỉ đủ cho hai người đi song song cạnh nhau. Chỉ trong vài giây, khi mặt trời lên đến đỉnh cao giữa bầu trời, những con đường này mới có được vài tia nắng xuyên qua, rồi nhanh chóng trở về bóng râm. Chúng rất mát, mát như có điều hòa nhiệt độ, suốt hàng bao thế kỷ…

Ngay bờ bên kia sông Hằng là ngôi làng nhỏ Maghar, nơi Kabir qua đời. Ngôi mộ tưởng nhớ được ngăn làm đôi. Một bên thuộc về người Hồi giáo, và một bên thuộc về người Hindu. Đó chính là sự ngu ngốc của con người. Bạn tôn sùng cùng một người, bạn yêu thương cùng một người. Bạn hít thở triết lý của ông ấy, cùng ngôn ngữ của ông ấy nhưng với tâm trí ước định…

Phần mộ được người Hồi giáo xây có những bông hoa, còn phần mộ được người Hindu xây là giàn thiêu đốt cháy những bông hoa. Cả hai đều cùng tưởng nhớ nhưng có một bức tường ngăn cách ở giữa: một nửa thuộc về người Hindu, nửa kia thuộc về người Hồi giáo. Những người Hồi giáo sẽ không bước qua phía của người Hindu, và những người Hindu sẽ không bước sang phía của người Hồi giáo. Và đây là cách họ tưởng nhớ cùng một người!

Họ đã gieo rắc những điều vô nghĩa, những điều ngu ngốc cho con người. Tôi nói với bạn rằng Varanasi, Jerusalem hay Mecca đều không có gì khác biệt. Đó là tâm thức của bạn. Nếu chết trong tâm thức, bạn sẽ đạt đến phúc lành tối thượng, nơi không thuộc về bất kỳ tôn giáo nào.

Nhưng bạn sẽ phải đi một mình. Đám đông mà bạn đang thuộc về đó không đảm bảo rằng bạn sẽ đạt đến chân lý tối thượng. Chân lý tối thượng luôn riêng lẻ, cá nhân.

Hỡi thiên nga, hãy cất cánh trên hành trình cô độc.