• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trò chuyện với vĩ nhân
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 25
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 25
  • Sau

J. KRISHNAMURTI

Mối quan hệ giữa tôi với J. Krishnamurti thực sự bí ẩn. Tôi đã yêu quý J. Krishnamurti từ khi biết về ông ấy, và ông ấy cũng rất yêu quý tôi. Nhưng chúng tôi chưa từng gặp nhau, do đó mối quan hệ này là thứ khó diễn tả bằng lời. Chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng có lẽ là hai con người gần gũi nhau nhất từ trước tới nay. Chúng tôi có sự cảm thông sâu sắc đến mức không cần đến ngôn ngữ, không cần đến sự hiện diện của nhau.

Chuyện đã từng xảy ra – chỉ là tình cờ – khi ông ấy đến Bombay. Mỗi năm, ông ấy đều đến Bombay và ở lại đó vài tuần. Tôi cũng đến Bombay, nhưng chỉ lưu lại vài giờ rồi lên đường đến New Delhi.

Một vài người bạn có mối quan hệ thân thiết với J. Krishnamurti và cũng là bạn của tôi đã nói: “Đây là cơ hội vàng. Cả hai đều có mặt ở cùng một nơi. Cuộc gặp gỡ này sẽ vô cùng quan trọng, và Krishnamurti cũng muốn gặp”.

Người nói câu nói trên là Ajit Patvardhan, một người rất đáng kính ở Ấn Độ. Ông ấy là một trong những đồng nghiệp thân thiết nhất của J. Krishnamurti. Tôi nhìn vào mắt ông ấy và nói: “Đừng nói dối. Hẳn là ông đã nói với J. Krishnamurti rằng ‘Osho muốn gặp ngài’”. Ông ấy thất kinh nói: “Làm sao ông biết được? Đó chính là điều chúng tôi đã trù bị. Chúng tôi biết rất rõ rằng đây là cách duy nhất, nếu chúng tôi nói ‘Krishnamurti muốn gặp’, ông sẽ không thể từ chối. Nếu tôi nói với Krishnamurti rằng ‘Osho muốn gặp’, ông ấy cũng không thể từ chối. Những người có quan hệ với Krishnamurti cũng đều quen biết ông. Chúng tôi đều háo hức muốn biết điều gì sẽ xảy ra khi hai người gặp nhau”.

Khi đó, tôi chỉ kể cho Ajit Patvardhan nghe một câu chuyện về hai nhà thần bí vĩ đại là Kabir và Farid. Kabir sống cạnh Varanasi, bờ bên kia sông Hằng. Farid là một nhà thần bí Sufi, và sắp cùng các đồ đệ đi qua ngôi làng nơi Kabir đang sống.

Đồ đệ của cả hai nhà thần bí đều thuyết phục họ. Các đồ đệ của Kabir nói: “Thật thất lễ khi Farid đi qua đây mà thầy không mời ngài ấy ở lại. Chỉ là mời họ ở lại nghỉ ngơi vài ngày như là một cách để bày tỏ tình cảm”. Còn đồ đệ của Farid thì nói: “Thật thất lễ khi đi ngang qua nơi ở của Kabir mà không ghé chào”.

Farid và Kabir đều đồng ý. Nhưng điều mà các đồ đệ của cả hai mong muốn là xem điều gì sẽ xảy ra khi hai người này gặp nhau, họ sẽ nói những gì, đâu là những thứ quan trọng giữa hai người họ.

Nhưng cả hai không nói một lời nào!

Các đồ đệ rất thất vọng; đây không phải là điều mà họ mong đợi. Ngay sau khi chào tạm biệt nhau, mỗi người đều phải đối mặt với cơn giận của các đồ đệ.

Đồ đệ của Kabir nói: “Thầy biến chúng con thành lũ ngốc. Suốt hai ngày, chúng con đã chờ đợi để nghe điều gì đó. Thầy luôn dạy bảo chúng con. Nhưng điều gì đã xảy ra? Thầy bỗng dưng hoàn toàn im lặng. Chúng con không hiểu. Nào là cười, khóc như điên, những cái ôm thắm thiết nhưng không nói một lời nào?”.

Farid cũng gặp phải tình huống tương tự. Các đồ đệ của ông ấy cũng đưa ra câu hỏi tương tự, và câu trả lời cũng giống hệt nhau. Farid và Kabir có câu trả lời gần như giống nhau: “Chúng ta biết rằng sẽ không có gì để nói. Ông ấy có mắt, ta cũng có mắt. Cả hai đều đã trải nghiệm, đã nếm trải chân lý. Còn gì để nói? Người nào nói ra một lời nào cũng sẽ chứng tỏ rằng mình ngu dốt, rằng mình không biết. Chúng ta nhận ra nhau, thật khó để không nhận ra nhau. Thậm chí hai người mù cũng nhận ra nhau, vậy các con cho rằng hai người có mắt lại không thể nhận ra nhau ư?”.

“Dĩ nhiên là chúng ta thích nhau. Đó là lý do vì sao tiếng cười, nước mắt là ngôn ngữ duy nhất; khi quá xúc động, chúng ta ôm nhau. Chúng ta ngồi nắm tay nhau hàng giờ và tình yêu tuôn tràn, đó chính là giao tiếp – hai cơ thể, một linh hồn.”

“Nhưng hãy tha thứ cho chúng ta, chúng ta hoàn toàn quên mất các con. Có thể các con không hiểu điều gì ngoài lời nói, nhưng chân lý không thể diễn đạt bằng lời. Các con có quyền thất vọng, tức giận, nhưng các con hãy nghĩ cho địa vị của chúng ta. Chúng ta không còn cách nào khác. Khi hai sự im lặng gặp nhau, chúng trở thành một. Khi hai trái tim yêu thương cùng đập, chúng hòa nhịp; một thứ âm nhạc không thuộc trần tục, không thể nghe bằng tai, mà chỉ có thể trải nghiệm bằng trái tim.”

Cho nên, tôi đã nói với Ajit Patvardhan: “Đó là việc vô ích, sẽ lãng phí thời gian của Krishnamurti. Ông sẽ không nghe được điều gì cả”.

Và khi họ đến gặp Krishnamurti, Krishnamurti đã nói: “Điều gì đã xảy ra? Ông ấy không đến ư?”. Họ kể lại câu chuyện và nói: “Ông ấy chỉ kể cho chúng con nghe một câu chuyện”. Krishnamurti cười lớn và đáp: “Ông ấy đã làm đúng. Thật ra ta nên kể với các con câu chuyện đó nhưng vì ta không biết về nó. Ta cũng muốn giải thích với các con rằng cuộc gặp đó là vô ích, nhưng hẳn các con sẽ không hiểu”.

Mối quan hệ của tôi với Krishnamurti là mối quan hệ sâu sắc nhất mà không cần đến ngôn ngữ và sự hiện diện của nhau. Không chỉ có vậy, thỉnh thoảng tôi có chỉ trích ông ấy, ông ấy chỉ trích tôi, và chúng tôi thích thú với điều đó bởi vì hoàn toàn hiểu rõ rằng đó không phải là ý định thực sự của đối phương. Giờ thì ông ấy đã qua đời, tôi nhớ ông ấy bởi vì không còn có cơ hội chỉ trích nữa; điều đó sẽ không đúng. Thật vui khi được chỉ trích ông ấy. Krishnamurti là người thông minh nhất thế kỷ này, nhưng người ta không hiểu ông ấy.

Ông ấy đã chết, và dường như thế giới vẫn tiếp diễn theo cách của nó mà không một phút nào nhìn lại và tự hỏi rằng người đàn ông thông minh nhất đã không còn nữa. Thật khó tìm thấy sự sắc bén và trí thông minh tương tự trong nhiều thế kỷ tới. Nhưng con người là những kẻ mộng du, không ghi chép nhiều. Trên các trang báo, chỉ ở góc nhỏ, nơi không ai chú ý, người ta thông báo về cái chết của ông ấy. Và dường như một người đàn ông chín mươi tuổi, không ngừng nói trong suốt bảy mươi năm, di chuyển khắp thế giới, tìm cách giúp mọi người thoát khỏi những ràng buộc, tìm cách giúp mọi người được tự do – dường như không ai buồn nhớ đến người đã làm việc chăm chỉ nhất trong lịch sử nhân loại vì sự tự do của con người, vì phẩm giá của con người.

Tôi không cảm thấy tiếc cho cái chết của ông ấy. Đó là một cái chết đẹp; ông ấy đã đạt được tất cả những gì mà cuộc sống này có thể ban tặng. Nhưng tôi thấy tiếc cho thế giới. Nó cứ mãi bỏ lỡ những hành trình tâm thức vĩ đại nhất, bỏ lỡ những đỉnh cao nhất, những ngôi sao sáng nhất. Nó quá bận tâm với những điều nhỏ nhặt.

Tôi cảm nhận một ái lực sâu sắc với Krishnamurti đến mức ngay cả việc nói về mối quan hệ cũng không đúng; mối quan hệ chỉ xảy ra giữa hai vật tách rời. Còn tôi cảm nhận mình với ông ấy là một. Bất kể những lời chỉ trích của ông ấy, bất kể những lời chỉ trích của tôi – mà chủ yếu là trêu chọc, khiêu khích ông già đó… và ông ấy rất dễ bị khiêu khích. Tôi chỉ cần cử các khất sĩ đến ngồi ở hàng ghế đầu trong các buổi nói chuyện của Krishnamurti, tất cả đều mặc màu đỏ, và ông ấy sẽ nổi điên! Ông ấy không chịu được màu đỏ. Khi nổi giận như thế, ông ấy sẽ quên ngay vấn đề cần nói và bắt đầu chuyển sang chỉ trích tôi và người của tôi. Về sau, ông ấy đã nói về tôi với người tiếp đón ông ấy: “Người này không phải tầm thường. Ông ấy đã quấy rối các buổi nói chuyện của ta, cử những người mặc áo choàng đỏ đến. Và khoảnh khắc nhìn thấy họ, ta quên mất chủ đề mà mình định nói. Lần nào cũng vậy, và ta biết rằng ông ấy chỉ muốn trêu đùa. Ông ấy không chống lại ta, và ta cũng không chống lại ông ấy”.

Từ những người gần gũi thân thiết với Krishnamurti, tôi được biết: “Ông ấy không chống lại ta. Ông ấy muốn ta biết rằng dù cho giận dữ đến mấy, ông ấy cũng không chống lại ta”.

Tôi nói với họ: “Tôi biết điều đó. Tôi yêu người đàn ông ấy. Nhưng để yêu một người và thỉnh thoảng vẫn trêu chọc người đó, bạn có cho rằng nó mâu thuẫn không? Thật ra tôi đang cố giúp ông ấy ít nghiêm trọng hơn. Một chút khiếu hài hước sẽ không làm hại ai. Chỉ có một điểm tôi không đồng ý với ông ấy – ông ấy quá nghiêm túc”.

Tôn giáo cần thêm sự hài hước để khiến nó gần gũi với con người hơn. Nếu không có sự hài hước, các bài giảng sẽ trở nên ngày càng trí tuệ hơn, chính xác hơn, logic hơn nhưng sẽ mất đi cảm xúc của con người. Nó sẽ ngày càng trở thành một chủ đề khoa học. Nhưng con người không thể nào chỉ là đối tượng của nghiên cứu khoa học. Có điều gì đó ở Krishnamurti vượt lên trên giới hạn của nghiên cứu khoa học.

Hãy nhìn khắp thế giới. Cây cối không cười, những con trâu không cười. Không có loài vật nào cười; chỉ có con người là có khiếu hài hước. Hẳn điều đó phải có ý nghĩa của nó bởi vì nó xảy ra ở điểm tiến hóa cao nhất – con người.

Những lời dạy của Krishnamurti đều hay, đều đẹp nhưng quá nghiêm túc. Bằng trải nghiệm và cảm nhận của mình, tôi cho rằng ông ấy đã lãng phí bảy mươi năm bởi vì quá nghiêm túc. Cho nên, chỉ có những người buồn rầu, đau khổ, những người lúc nào cũng nghiêm túc mới ở cạnh ông ấy; ông ấy là người thu thập xác chết, và khi ông ấy già đi, những xác chết này cũng già theo.

Cuộc sống cần một chút vui đùa, một chút hài hước, một chút tiếng cười.

Chỉ có điểm đó là tôi không đồng tình, còn lại thì ông ấy là một thiên tài. Krishnamurti thất bại bởi vì ông ấy không chạm đến trái tim của con người; ông ấy chỉ chạm đến cái đầu của họ. Trái tim cần đến cách tiếp cận khác. Đây là điểm khác biệt của tôi với ông ấy: chừng nào chưa chạm đến trái tim của con người, những lời đẹp đẽ mà bạn nói ra cũng giống như vẹt – chúng chẳng có ý nghĩa gì cả. Bất cứ điều gì Krishnamurti nói đều đúng, nhưng ông ấy không khiến nó chạm đến trái tim bạn.

Nói cách khác, J. Krishnamurti là một triết gia vĩ đại nhưng ông ấy không thể trở thành một bậc thầy. Ông ấy không thể giúp đỡ người khác, chuẩn bị để họ sẵn sàng cho một cuộc sống mới, một định hướng mới.

Nhưng tôi vẫn yêu quý ông ấy, bởi vì trong số những triết gia, ông ấy đến gần nhất với cuộc sống thần bí. Krishnamurti tự né tránh con đường thần bí, đi qua nó và đó chính là nguyên nhân cho thất bại của ông ấy. Nhưng ông ấy là nhà tư tưởng duy nhất trong số những nhà tư tưởng đương đại đến rất gần, gần như chạm vào ranh giới của chủ nghĩa thần bí, và dừng lại ở đó. Có lẽ Krishnamurti e ngại rằng nếu ông ấy nói về chủ nghĩa thần bí, mọi người sẽ lại rơi vào những khuôn mẫu cũ, truyền thống cũ, triết lý cũ của chủ nghĩa thần bí. Nỗi sợ đó ngăn ông bước vào. Nhưng chính nỗi sợ đó cũng ngăn cản nhiều người khác bước vào sự huyền bí của cuộc sống.

***

Vì sao Krishnamurti chống lại các bậc thầy và các môn đồ? Đó là vết thương đã lành nhưng để lại sẹo. Ông ấy bị buộc phải trở thành một môn đồ. Khi còn rất nhỏ, ông ấy được Annie Besant và các nhà thần trí nhận nuôi. Lúc đó, ông ấy chỉ mới chín tuổi, hoàn toàn không nhận biết được người ta đang làm gì với mình. Và ông ấy bị buộc phải tuân thủ một kỷ luật rất hà khắc. Ông ấy phải tập luyện suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày bởi vì một trong những nhà thần trí – Leadbeater – nhìn thấy được rằng cậu bé này sẽ trở thành bậc thầy của thế giới, cậu bé này sẽ trở thành phương tiện của thần Maitreya, rằng nó phải được chuẩn bị để đón nhận sự hiện thân của Phật trong cơ thể mình. Cho nên, ông ấy đã bị tra tấn theo nhiều cách khác nhau.

Ông ấy không được phép ăn như những đứa trẻ khác, không được phép chơi với những đứa trẻ khác, hoặc sống như một đứa trẻ bình thường. Ông ấy được bảo vệ. Ông ấy không được phép đi đến trường, gần như bị cầm tù. Ông ấy phải dậy sớm vào lúc ba giờ sáng mỗi ngày, sau đó thực hiện nghi lễ tắm rửa, và rất nhiều nghi lễ khác – Tây Tạng, Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập… hẳn ông ấy phải mệt thôi.

Và vết thương cuối cùng xảy ra khi người em trai Nityananda chết. Cả hai anh em, Krishnamurti và Nityananda, đều được huấn luyện bởi vì không ai biết được người nào mới thật sự là bậc thầy. Nityananda qua đời vì kỷ luật hà khắc đó, một trò áp đặt gần như điên rồ. Cái chết của Nityananda là một cú sốc lớn đối với Krishnamurti, ông ấy yêu thương em trai mình vô bờ bến. Ông ấy không còn ai khác để yêu thương. Ông ấy đã mất cả gia đình; mẹ ông đã chết, bố ông không đủ khả năng chăm sóc hai anh em. Cả hai được Annie Besant nhận nuôi và phải đi khắp thế giới để rèn luyện các kỷ luật thần bí. Điều đó quả là khắc nghiệt đối với cả hai. Có nhiều khả năng Nityananda chết vì phải tập luyện quá sức.

Và Krishnamurti không chọn những người thầy của mình vì tình yêu… họ giống như những tên cai ngục, còn các thầy thì giống như kẻ canh gác nhà giam. Ông ấy mang trong đầu khái niệm sai lầm về các bậc thầy, thật khó để ông ấy thoát khỏi cái bẫy của họ. Cuối cùng, Krishnamurti cũng thoát ra được, bạn có thể giam giữ ai đó trong bao lâu? Khi trở thành một chàng trai trẻ và đủ mạnh mẽ để thoát khỏi cái bẫy kia, ông ấy chỉ đơn giản bước ra và tuyên bố: “Tôi không là thầy của ai, và tôi cũng sẽ không là thầy của thế giới. Tất cả những điều này thật vô nghĩa!”.

Vết thương đó đã để lại sẹo. Từ đó, ông ấy chống lại các bậc thầy, các kỷ luật, phương pháp thiền/chiêm nghiệm, tình đồng môn. Đó là lẽ tự nhiên. Thực ra, ông ấy chưa bao giờ biết đến một bậc thầy, chưa bao giờ biết về tình đồng môn bởi vì đó không phải là thứ áp đặt, mà bạn phải đón nhận bằng tình yêu và niềm hân hoan.

Krishnamurti không bao giờ nói về những điều này, vì chẳng ích gì khi nói về những điều này, những kẻ bóc lột ông giờ đã chết. Nhưng đâu đó vẫn còn vết thương lòng. Thế nên ông ấy mới chống lại các bậc thầy, tình đồng môn, chống lại các khất sĩ, tất cả các phương pháp tập luyện của họ. Điều này nói lên phần nào về tiểu sử của Krishnamurti, không phải về các bậc thầy và các môn đồ.

Ông ấy biết gì về Phật và những đồ đệ theo Phật? Ông ấy biết gì về Atisha và những bậc thầy như Dharmakirti, Dharmarakshita và Yogin Maitreya – ông ấy biết gì về những con người này? Annie Besant và Leadbeater không bao giờ cho phép ông ấy đọc những kinh sách cổ bởi vì họ e sợ rằng ông ấy đánh mất nguồn gốc của mình. Cho nên, ông ấy hoàn toàn không biết gì về những truyền thống vĩ đại của thế giới.

Và nếu không biết gì về Atisha và Dharmakirti, bạn sẽ bỏ lỡ nhiều thứ. Dharmakirti là người đã bảo Atisha tìm đến một người thầy khác là Dharmarakshita, “bởi vì những gì ta biết, ta đã truyền cho con. Ta cũng có thể dạy cho con phần còn lại nhưng đó không phải là con đường của ta. Hãy tìm đến Dharmarakshita, ông ấy đi theo một con đường khác. Ông ấy sẽ dạy cho con thêm nhiều thứ khác, thứ gì đó nguyên bản hơn. Ta chỉ nghe về điều đó, hoặc chỉ nhìn thấy nó từ đỉnh núi. Ta trao cho con sự trống rỗng. Giờ đây, để học được lòng trắc ẩn, con hãy tìm đến Dharmarakshita”.

Quả là những con người tuyệt đẹp! Và Dharmarakshita đã nói với Atisha: “Ta chỉ biết về lòng trắc ẩn nữ tính, theo kiểu thụ động. Để có được lòng trắc ẩn linh hoạt hơn, con phải tìm đến một người thầy khác, đó là Yogin Maitreya, ông ấy sẽ dạy cho con”.

Đây không phải là những người thích chiếm hữu, ganh ghét, muốn chi phối người khác. Họ là những người thích trao tự do cho người khác! Krishnamurti hoàn toàn không nhận biết gì về những truyền thống vĩ đại của thế giới. Ông ấy chỉ biết về các nhà thần trí.

Và đó là một trong những điều xấu xí nhất xảy ra trong thế kỷ này. Những kẻ ngu ngốc tập hợp lại dưới danh nghĩa thuyết thần trí, đó là một mớ hỗn độn. Đó chính là nỗ lực tạo ra sự tổng hợp của tất cả những gì tốt đẹp ở các tôn giáo khác. Nhưng bạn chẳng thể tạo ra được kiểu tổng hợp nào như thế. Và nếu bạn có thể làm được, đó cũng chỉ là bộ xương khô, không phải một cơ thể sống động với những rung động thật sự.

Điều đó cũng giống như khi bạn yêu nhiều người phụ nữ – người thì có đôi mắt đẹp, bạn lấy đi đôi mắt đó; người khác lại có chiếc mũi đẹp, bạn cắt đi chiếc mũi đó; và cứ thế, bạn tiếp tục chọn những gì đẹp nhất. Khi lắp tất cả những phần đó vào một người, bạn sẽ có một cái xác không hồn. Để tạo ra một cái xác không hồn, bạn đã giết hàng chục người đàn bà xinh đẹp, và kết quả cuối cùng lại hoàn toàn ngu ngốc.

Đó là những gì mà thuyết thần trí đã làm. Một chút xinh đẹp của Hindu, một chút xinh đẹp của Đạo giáo, một chút xinh đẹp của Hồi giáo, một chút xinh đẹp của Do Thái giáo, và cứ thế. Thu thập tất cả rồi đặt vào chiếc máy trộn để trộn lên, những gì bạn có được sẽ chỉ là một cái xác không hồn.

Điều đáng tiếc là Krishnamurti đã phải sống cùng với những con người như thế. Nhưng ông ấy có một trí thông minh siêu phàm.

Hẳn bất cứ ai ở địa vị của ông ấy cũng đều bị lạc lối, hẳn bất cứ ai rơi vào hoàn cảnh của ông ấy cũng không thể thoát ra khỏi chiếc lồng giam giữ đó. Chiếc lồng đó quá đẹp, quá quyến rũ với hàng ngàn đồ đệ có sẵn. Nhưng Krishnamurti có đủ can đảm, đủ dũng khí và trí thông minh để từ bỏ tất cả những điều đó, chỉ để thoát khỏi chiếc bẫy kia. Quả là khó khăn đối với ông ấy, vô cùng khó khăn, chỉ để tồn tại thôi cũng đã rất khó rồi. Tôi kính trọng ông ấy, tôi vô cùng ngưỡng mộ ông ấy. Và tôi có thể hiểu được vì sao ông ấy luôn chống lại các bậc thầy, các môn đồ, các khất sĩ.

***

Tuyên bố “người quan sát là người bị quan sát” của Krishnamurti là một trong những tuyên bố quan trọng nhất từng được con người đưa ra. Tuyên bố đó cũng phi thường như J. Krishnamurti.

Thật khó để hiểu được tuyên bố này nếu chỉ tư duy theo trí óc, bởi vì con đường của tư duy lập luận là biện chứng, là đối ngẫu. Trên con đường của tư duy lập luận, chủ thể không thể nào là vật thể, người xem không thể nào là người được xem. Người quan sát không thể nào là người bị quan sát. Nếu xét theo tư duy lập luận, đây là một tuyên bố ngớ ngẩn, vô nghĩa – không chỉ vô nghĩa mà còn điên rồ.

Cách tiếp cận thực tại của tư duy lập luận là sự phân chia: người biết và người được biết phải tách biệt. Chỉ khi đó mới có kiến thức giữa hai bên. Nhà khoa học không thể trở thành khoa học, nhà khoa học phải luôn tách biệt với những gì ông ấy đang làm. Người thử nghiệm không được phép trở thành vật thử nghiệm. Trong phạm vi của tư duy lập luận, của logic, điều đó hoàn toàn hợp lý.

Nhưng có một loại kiến thức vượt quá sự hiểu biết, có một kiểu hiểu biết vượt quá giới hạn của khoa học.

Chỉ vì kiểu hiểu biết vượt khỏi giới hạn của khoa học đó có thể đạt được, nên chủ nghĩa thần bí cũng có thể xuất hiện, lòng tín ngưỡng cũng có thể trỗi dậy.

Hãy cùng xem xét theo một hướng khác. Khoa học phân chia toàn bộ trải nghiệm và sự hiện hữu của con người thành hai phần: cái đã biết và cái chưa biết. Điều được biết hôm nay là điều chưa biết hôm qua, điều chưa biết hôm nay có thể trở thành điều đã biết ngày mai, cho nên khoảng cách đó không thể không diễn ra, không thể không vượt qua được. Có khoảng cách đó là bởi kiến thức của con người luôn phát triển, và khi kiến thức tăng, vùng ngu dốt sẽ giảm. Nói cách khác, khi người đó biết nhiều hơn, phạm vi không biết thu hẹp lại và phạm vi đã biết trở nên lớn hơn.

Nếu chúng ta tuân theo logic này, kết quả tối thượng là một ngày nào đó sẽ chẳng còn lại điều gì mà chúng ta chưa biết. Dần dần, cái chưa biết sẽ chuyển thành cái đã biết, và khoảnh khắc đó sẽ đến khi không còn lại điều gì mà chúng ta chưa biết. Đó là mục tiêu của khoa học, để tiêu diệt sự ngu dốt – nhưng tiêu diệt sự ngu dốt có nghĩa là tiêu diệt mọi khả năng khám phá, mọi khả năng về những điều chưa biết thôi thúc bạn tiến về phía trước.

Tiêu diệt sự ngu dốt có nghĩa là cái chết của toàn bộ trí thông minh, bởi vì khi đó trí thông minh sẽ không còn được cần đến. Nó chỉ đơn giản là điều gì đó hữu ích trong quá khứ – bạn có thể cất vào bảo tàng – nhưng giờ nó không còn hữu ích nữa. Đây quả thật không phải là viễn cảnh thú vị cho lắm.

Chủ nghĩa thần bí không đồng ý với khoa học, nó vượt lên trên khoa học.

Theo chủ nghĩa thần bí, sự hiện hữu và trải nghiệm được chia thành ba phần: cái đã biết, cái chưa biết và cái không thể biết. Cái đã biết từng là cái chưa biết, cái chưa biết sẽ trở thành cái đã biết, nhưng cái không thể biết sẽ luôn là điều không thể biết; nó vẫn luôn bí ẩn.

Cho dù bạn làm gì, sự bí ẩn sẽ vẫn luôn bao quanh sự hiện hữu. Sự bí ẩn sẽ luôn hiện diện ở đó, trong cuộc sống, tình yêu, thiền.

Bạn không thể tiêu diệt sự bí ẩn.

Bạn có thể tiêu diệt sự ngu dốt, nhưng bằng cách tiêu diệt sự ngu dốt, bạn không thể hủy hoại được phép mầu, sự huyền bí.

Phát biểu của J. Krishnamurti thuộc về cái không thể biết được. Tôi đã nói với các bạn rằng giống như khi bạn thiền, bạn trở nên ngày càng nhận biết về tiến trình của tâm trí. Nếu tiến trình của tâm trí là 100%, lấy hết năng lượng của bạn, bạn sẽ nhanh chóng say ngủ từ bên trong – sẽ không còn sự cảnh giác nào.

Một buổi sáng nọ, Phật Thích Ca Mâu Ni nói với các đồ đệ. Vua Prasenjita cũng đến nghe, ngồi ngay trước mặt Phật. Ông ấy không quen ngồi trên sàn nhà – ông ấy là vua – nên cảm thấy không thoải mái, đổi tư thế liên tục, cố gắng không làm ảnh hưởng đến Phật. Ông ấy không ngừng nhúc nhích ngón chân cái, không vì mục đích gì cả, chỉ là nhúc nhích cho có thôi. Có những người không thể không làm gì, họ cứ luôn bận rộn.

Phật Thích Ca Mâu Ni ngừng nói và hỏi Prasenjita: “Con có thể cho ta biết vì sao con cứ nhúc nhích ngón chân cái?”. Thực ra bản thân Prasenjita không hề hay biết rằng mình nhúc nhích ngón chân.

Bạn đang làm một ngàn lẻ một việc mà không nhận biết. Trừ khi có ai đó chỉ cho bạn thấy, bằng không, bạn sẽ không thể nào nhận ra.

Khoảnh khắc Phật hỏi ông ấy, ngón chân cái ngừng nhúc nhích. Phật hỏi: “Vì sao con dừng nhúc nhích ngón chân?”. Ông ấy đáp: “Ngài khiến con thấy xấu hổ. Con không biết vì sao ngón chân đó lại nhúc nhích. Con chỉ biết là khi ngài hỏi, ngón chân dừng nhúc nhích ngay. Con không làm gì cả – không nhúc nhích cũng không dừng nhúc nhích ngón chân”.

Phật nói với các đồ đệ: “Các con có hiểu được vấn đề chưa? Ngón chân thuộc về người đàn ông này. Nó nhúc nhích, nhưng người này không nhận biết về sự cử động. Và khoảnh khắc người đó nhận biết – bởi vì ta đã hỏi – chính sự nhận biết đó đã khiến ngón chân ngừng nhúc nhích ngay lập tức. Bản thân ông ấy không làm điều đó. Chính sự nhận biết rằng ‘Thật ngốc, mình đang làm cái quái gì thế này?’ cũng đủ để khiến nó dừng lại”.

Tâm trí của bạn là mạng lưới giao thông dày đặc với sự chuyển động không ngừng của các luồng suy nghĩ, và nó luôn ở giờ cao điểm, ngày qua ngày.

Thiền có nghĩa là quan sát sự chuyển động của suy nghĩ trong tâm trí bạn.

Hãy là người quan sát, như thể bạn đang đứng bên lề đường quan sát giao thông qua lại – không phán xét, không đánh giá, không buộc tội, không khen ngợi – chỉ đứng đó quan sát thôi.

Khi bạn ngày càng trở nên quen thuộc với việc quan sát, một hiện tượng kỳ lạ bắt đầu xảy ra. Nếu bạn nhận biết 10%, phần năng lượng đó đã được chuyển từ quy trình của tâm trí sang người quan sát; giờ đây, tâm trí chỉ còn lại 90% năng lượng. Một khoảnh khắc khác, bạn có 50% năng lượng. Và năng lượng của bạn không ngừng tăng khi năng lượng của tâm trí giảm xuống. Lưu lượng qua lại ngày càng ít đi, và bạn trở nên tràn đầy năng lượng hơn.

Phần chứng kiến của bạn ngày càng trở nên hoàn thiện, mở rộng; nó ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Và tâm trí ngày càng yếu đi – 90% là người quan sát và 10% là tâm trí.

100% là người quan sát và tâm trí sẽ biến mất, con đường không còn một bóng người; màn hình tâm trí của bạn trở nên hoàn toàn trống rỗng, không có gì chuyển động. Ở đó chỉ có người quan sát.

Đây chính là trạng thái mà J. Krishnamurti muốn nói tới. Khi không còn gì để quan sát, khi chỉ còn lại người quan sát, thì người quan sát sẽ trở thành người được quan sát – bởi vì chẳng còn gì khác để quan sát. Người biết chỉ đơn giản tự biết. Người xem sẽ nhìn thấy chính mình.

Năng lượng tìm đến các vật thể, suy nghĩ… giờ không còn suy nghĩ, không còn các vật thể, năng lượng đó không có chỗ nào để đi; nó chỉ đơn giản trở thành ánh sáng soi sáng chính mình. Khi không còn gì để thắp sáng, nó sẽ thắp sáng chính mình – một ngọn lửa tỏa sáng giữa thinh không, giữa hư vô.

Đó là cách mà Krishnamurti muốn nói, rằng người quan sát trở thành người bị quan sát. Bạn có thể gọi đó là sự giác ngộ: ánh sáng tự chiếu sáng chính mình, không còn gì khác để nó chiếu sáng. Bạn đã hòa tan với tâm trí. Giờ bạn là một, hoàn toàn tỉnh táo và tỉnh thức.

Krishnamurti sử dụng cách nói của riêng mình. Ông ấy hơi cầu kỳ về điều đó, không sử dụng cách nói của người khác, ngôn từ của người khác, không sử dụng bất cứ điều gì đã được các bậc thầy khác sử dụng. Cho nên, suốt cuộc đời mình, ông ấy luôn tự tạo ra những câu nói của riêng mình.

Tuy nhiên, bạn chỉ có thể thay đổi cách thể hiện, không thể thay đổi trải nghiệm. Trải nghiệm đó là vĩnh cửu. Cho dù ai đó có gọi nó là sự giác ngộ, nirvana, samadhi, hay bất kỳ tên gọi nào khác, cũng sẽ không có gì khác biệt. Bạn có thể dùng tên của mình để đặt cho nó nhưng hãy nhớ rằng những tên gọi của bạn không thể nào thay đổi được trải nghiệm thực sự đó.

Và nó cũng không bị thay đổi bởi ngôn ngữ của J. Krishnamurti. Chúng hoàn toàn dễ thích ứng mặc dù không quyến rũ, mê hoặc như nirvana của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay samadhi của Patanjali, hay il’aham của Mohammed. “Người quan sát chính là người bị quan sát” nghe quá trần tục. Hẳn nhiên là nó hướng tới thực tại nhưng bản thân những từ ngữ đó không thật thi vị.

***

Một trong những người bạn của tôi đã gặp Krishnamurti chỉ ba ngày trước khi ông ấy qua đời. Người bạn đó nói với tôi rằng Krishnamurti rất buồn và điều duy nhất ông ấy nói là: “Ta đã làm việc vất vả để tiếp cận mọi người, nhưng thay vì biến đổi họ, ta chỉ lãng phí năng lượng của mình, giống như dòng sông bị mất hút giữa sa mạc. Những người lắng nghe ta nói đều nghĩ đó chỉ là trò giải trí, không hơn không kém. Chính từ ‘giải trí’ đó khiến ta đau lòng, rằng cả cuộc đời mình chỉ là cuộc đời của một người mua vui cho kẻ khác”.

Và chuyện có vẻ đúng như vậy. Ông ấy qua đời, thậm chí không được ai nhắc đến, ở bất kỳ nơi nào trên trái đất này. Một người đã sống chín mươi năm và đã cống hiến cho nhân loại từ năm hai mươi lăm tuổi mà cứ như ông ấy đã chết hàng bao thế kỷ. Không ai nghĩ đến ông ấy, không ai quan tâm đến việc bày tỏ chút lòng tôn kính đối với ông ấy. Ông ấy là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của thế kỷ mà mình sống, nhưng hội đồng giải thưởng Nobel chưa bao giờ nghĩ đến Krishnamurti bởi vì ông ấy không phải là một chính khách.

Ngay từ đầu, ông ấy cũng đã nỗ lực tiếp cận những người này, nhưng ông ấy bị các tôn giáo từ chối, tất cả các giáo sĩ đều buộc tội ông ấy; dần dần, ông ấy từ bỏ ý nghĩ về con người.

Ông ấy có một vài đệ tử ở một vài thành phố trên thế giới. Tại Ấn Độ, ông ấy chỉ đến New Delhi, Bombay, Varanasi và thung lũng Rishi, nơi có các ngôi trường của ông ấy, chỉ có bốn nơi; và những ngôi trường tương tự ở khắp thế giới. Tại những nơi này, vẫn những con người đó đã lắng nghe ông suốt ba mươi năm, bốn mươi năm, năm mươi năm… Thật buồn khi những người lắng nghe ông ấy trong suốt năm mươi năm vẫn không thay đổi gì. Ông ấy không thể tìm được người bầu bạn. Ông ấy đã cố gắng hết sức mình. Nhưng con người ngày càng trở nên sắt đá, ngày càng trở nên say ngủ, say thuốc, và... Ngày càng khó để đánh thức họ.