• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trò chuyện với vĩ nhân
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 25
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 25
  • Sau

LÃO TỬ

Khi nói về Lão Tử, tôi nói như thể đang nói về chính mình. Với ông ấy, bản thể của tôi hoàn toàn là một. Khi nói về Lão Tử, cứ như thể tôi đang nhìn vào gương, nơi phản chiếu chính khuôn mặt của mình. Khi nói về Lão Tử, tôi hoàn toàn ở cạnh ông ấy. Thậm chí nói “hoàn toàn ở cạnh ông ấy” cũng không đúng mà tôi là ông ấy, ông ấy là tôi. Các nhà sử học nghi ngờ về sự tồn tại của Lão Tử. Khoảnh khắc tôi hiểu được, ông ấy luôn có thật đối với tôi. Ngay cả khi lịch sử chứng minh rằng ông ấy chưa từng tồn tại, đối với tôi, điều đó không có gì khác biệt; hẳn ông ấy phải tồn tại bởi vì tôi tồn tại – tôi là bằng chứng.

Lão Tử không hề tính toán khoa học nhưng ông ấy rất logic trong sự điên rồ của mình. Ông ấy có một tư duy logic điên rồ! Nếu đi sâu vào những câu nói của Lão Tử, bạn sẽ cảm nhận được nó; nó không quá hiển nhiên và rõ ràng. Ông ấy có một kiểu logic riêng – logic của sự vô lý, logic của nghịch lý, logic của một người điên. Ông ấy “ra đòn” mạnh mẽ.

Để hiểu được logic của Lão Tử, bạn sẽ phải tạo ra những con mắt. Logic đó rất tinh tế, nó không phải là logic bình thường của những nhà logic học – đó là logic của một đời sống bí ẩn, một đời sống rất khó diễn tả bằng lời. Bất cứ điều gì ông ấy nói đều thoạt nghe rất ngớ ngẩn nhưng tận sâu bên trong lại chứa đựng một sự kiên định lớn lao. Bạn phải đi sâu vào nó, bạn phải thay đổi tâm trí của mình để hiểu được Lão Tử. Ông ấy di chuyển theo hình zigzag. Có lúc bạn thấy ông ấy đi về phía đông, có lúc lại hướng về phía tây, bởi vì ông ấy nói rằng đông là tây và tây là đông, chúng gắn với nhau, chúng là một. Ông ấy tin ở sự thống nhất của những cực đối lập.

Và đó chính là cuộc sống, cho nên Lão Tử chỉ là người phát ngôn của cuộc sống. Nếu cuộc sống là vô lý, Lão Tử cũng vô lý; nếu cuộc sống chứa đựng logic ngớ ngẩn, Lão Tử cũng có logic tương tự. Lão Tử chỉ đơn giản phản ánh cuộc sống. Ông ấy không thêm bất cứ điều gì, ông ấy không lựa chọn điều gì, ông ấy chỉ đơn giản chấp nhận mọi thứ của cuộc sống. Bạn có thể dễ dàng nhìn thấy được sự duy linh của Đức Phật, rất dễ dàng; bạn không thể nào bỏ qua được, Đức Phật quá phi thường. Nhưng bạn khó nhìn thấy sự duy linh của Lão Tử. Ông ấy quá bình thường, bình thường giống như bạn.

Bạn sẽ phải trưởng thành để hiểu được. Đức Phật đi qua và bạn sẽ nhận ra ngay rằng một cá nhân xuất chúng vừa đi qua. Người ấy toát lên nét quyến rũ và ánh hào quang của một con người phi thường. Thật khó để bỏ qua, gần như không thể bỏ qua được. Nhưng còn Lão Tử, ông ấy có thể là hàng xóm của bạn. Có lẽ bạn đã bỏ lỡ cơ hội bởi vì ông ấy quá bình thường, ông ấy bình thường đến mức phi thường. Và đó chính là vẻ đẹp của nó.

Bạn có thể dễ dàng trở nên phi thường: chỉ cần nỗ lực, có học thức, tinh tế, trau dồi, tu dưỡng. Đó là một kỷ luật nội tâm; bạn có thể trở nên rất tinh tế, thứ gì đó rất siêu phàm. Nhưng để là người bình thường lại là việc phi thường nhất. Nỗ lực sẽ chẳng giúp ích gì – bạn không cần nỗ lực. Tập luyện cũng chẳng ích gì, bạn không cần đến các phương pháp tập luyện, không cần đến bất kỳ phương tiện nào – chỉ hiểu thôi. Ngay cả thiền cũng không giúp được gì. Để trở thành Phật, thiền sẽ giúp ích cho bạn. Để trở thành Lão Tử, ngay cả thiền cũng không làm gì được – chỉ hiểu thôi. Chỉ hiểu cuộc sống như nó vốn có, sống một cách can đảm, không trốn chạy, không né tránh, phải có dũng khí đối mặt với nó, cho dù đó là gì, tốt hay xấu, thần tiên hay ác quỷ, thiên đường hay địa ngục.

Thật khó để trở thành một Lão Tử hay để nhận ra một Lão Tử. Thực tế là nếu có thể nhận ra một Lão Tử, bạn đã là Lão Tử. Để nhận ra Phật, bạn không cần là Phật, nhưng để nhận ra Lão Tử, bạn cần phải là Lão Tử, nếu không bạn sẽ không thể nhận ra được.

Chuyện kể rằng Khổng Tử tìm đến Lão Tử. Lão Tử là một ông già, còn Khổng Tử là người trẻ tuổi.

Lão Tử gần như vô danh, còn Khổng Tử thì không ai là không biết. Khổng Tử thường được vua mời đến cung điện, được những người khôn ngoan tìm đến để xin lời khuyên. Ông ấy là người tài ba lỗi lạc nhất Trung Hoa thời bấy giờ. Nhưng dần dần, hẳn ông ấy phải cảm thấy rằng trí khôn của mình chỉ có ích cho người khác, còn bản thân ông ấy không thấy hạnh phúc, ông ấy chưa đạt được gì cả. Ông ấy đã trở thành một chuyên gia, có thể giúp đỡ người khác nhưng lại không giúp được chính mình. Cho nên, ông ấy bí mật lên đường tìm kiếm người có thể giúp được mình.

Những người khôn ngoan bình thường sẽ không giúp được bởi vì họ từng tìm đến ông ấy xin lời khuyên. Các học giả tài ba cũng không giúp được vì họ cũng từng nhờ ông ấy giải đáp cho các vấn đề của họ. Nhưng hẳn phải có ai đó ngoài kia bởi vì cuộc sống vô cùng rộng lớn. Khổng Tử cứ bí mật tìm kiếm. Ông ấy cử đồ đệ đi tìm người giúp mình, và họ trở về báo rằng có một người – không ai biết tên người này – được gọi là “ông già”. Lão Tử có nghĩa là “ông già”. Đó không phải là tên của ông ấy, không ai biết tên ông ấy. Ông ấy vô danh đến mức không ai biết ông ấy chào đời vào lúc nào, không ai biết cha mẹ ông ấy là ai. Ông ấy đã sống chín mươi năm nhưng chỉ vài người tình cờ gặp ông ấy, rất hiếm người có cái nhìn và quan điểm khác biệt để hiểu được ông ấy. Ông ấy chỉ dành cho những người hiếm có nhất – một người đàn ông rất bình thường nhưng chỉ dành cho những bộ óc hiếm hoi nhất của nhân loại.

Khi biết về sự tồn tại của một người được gọi là “ông già” này, Khổng Tử đã tìm đến. Khi gặp Lão Tử, ông ấy có thể cảm nhận rằng đây là người có tầm hiểu biết vĩ đại, trí thông minh vĩ đại, sự nhạy bén và logic vĩ đại, ông ấy là một thiên tài. Khổng Tử có thể cảm nhận được điều gì đó nhưng không thể nắm bắt nó. Điều gì đó mơ hồ, bí ẩn; người đàn ông này không bình thường mặc dù ông ấy trông hoàn toàn bình thường. Có điều gì đó bí ẩn; ông ấy đang mang trong mình một kho báu.

Khổng Tử hỏi:

– Tiên sinh nghĩ gì về đạo đức? Tiên sinh nói gì về cách trau dồi một nhân cách tốt? – Bởi vì Khổng Tử là một nhà đạo đức và ông ấy cho rằng việc trau dồi tính cách tốt là thành tựu cao nhất.

Lão Tử cười lớn đáp:

– Nếu con người bất tử thì khi đó mới phát sinh câu hỏi về đạo đức. Nếu không có bất kỳ tính cách nào, khi đó ông mới nghĩ về tính cách. Người có tính cách sẽ tuyệt đối không nghĩ về sự tồn tại của những thứ như tính cách. Một người đạo đức không biết về ý nghĩa của từ “đạo đức”. Do đó, đừng ngốc như vậy! Và đừng tìm cách trau dồi bản thân. Hãy sống tự nhiên.

Lão Tử sở hữu một nguồn năng lượng to lớn đến mức Khổng Tử bắt đầu run rẩy. Ông ấy không thể chịu đựng được người này!

Ông ấy tìm cách thoát khỏi nơi đó. Ông ấy trở nên e sợ – như cách một người sợ khi đứng gần vực thẳm. Khi Khổng Tử trở lại gốc cây nơi các đồ đệ của ông ấy đang ngồi đợi, các đồ đệ không thể tin vào mắt mình. Khổng Tử đã gặp gỡ các vị vua hùng mạnh nhất nhưng họ chưa từng thấy ông ấy căng thẳng. Còn lúc này, Khổng Tử đang run rẩy, mồ hôi ướt đẫm toàn thân. Họ không thể tin nổi – điều gì đã xảy ra? Người đàn ông tên Lão Tử đã làm gì thầy của họ?

Khi được hỏi, Khổng Tử đáp: “Hãy đợi đã. Để ta lấy lại tinh thần đã. Người đàn ông này thật nguy hiểm. Ta đã nghe về những loài vật to lớn như voi, và ta biết cách chúng đi lại. Ta cũng đã nghe về những loài vật bí ẩn dưới biển, và ta biết cách chúng bơi lội. Ta đã nghe về những loài chim lớn có thể bay hàng ngàn dặm quanh trái đất, và ta biết cách chúng bay. Nhưng người đàn ông này là một con rồng. Không ai biết ông ấy đi lại như thế nào, ông ấy sống như thế nào, ông ấy bay như thế nào. Đừng bao giờ đến gần ông ấy – ông ấy giống như vực thẳm, ông ấy giống như cái chết”.

Và đó chính là định nghĩa về một bậc thầy: một bậc thầy giống như cái chết. Nếu đến gần người đó, quá gần, bạn sẽ cảm thấy lo sợ, cơ thể bắt đầu run rẩy. Bạn sẽ bị chiếm hữu bởi nỗi sợ mơ hồ, như thể bạn sắp chết. Người ta nói rằng Khổng Tử không bao giờ quay lại gặp “ông già” này nữa.

Trong chừng mực nào đó, Lão Tử là người bình thường, nhưng theo cách khác, ông ấy là người phi thường nhất. Ông ấy không phi thường như Đức Phật, ông ấy phi thường theo cách hoàn toàn khác. Sự phi thường của ông ấy không quá hiển nhiên, nó là một kho báu bí mật. Ông ấy không thần diệu như Krishna, ông ấy không tạo ra bất kỳ phép mầu nào, nhưng toàn bộ bản thể của ông ấy là một phép mầu – cách ông ấy đi lại, cách ông ấy nhìn, cách ông ấy hiện hữu. Toàn bộ bản thể của ông ấy là một phép mầu.

Lão Tử không buồn như Jesus; ông ấy có thể cười, ông ấy cười sảng khoái. Người ta nói rằng ông ấy cười vào lúc chào đời. Trẻ sơ sinh thường khóc khi chào đời, còn ông ấy được cho là đã cười khi chào đời. Tôi cũng cảm thấy đó là sự thật; một người như Lão Tử phải cười khi chào đời. Ông ấy có thể cười và cười sảng khoái, nhưng tận sâu bên trong tiếng cười của mình, đó là nỗi buồn, là lòng trắc ẩn – nỗi buồn về bạn, về toàn bộ sự hiện hữu. Tiếng cười của ông ấy không hề nông cạn.

Zarathustra cười nhưng tiếng cười của ông ấy khác hẳn, không có nỗi buồn bên trong. Lão Tử buồn như Jesus và không buồn như Jesus; Lão Tử cười như Zarathustra và không cười như Zarathustra. Nỗi buồn của ông ấy chứa đựng tiếng cười, còn tiếng cười của ông ấy chứa đựng nỗi buồn. Ông ấy là giao điểm của các cực đối lập. Ông ấy là bản giao hưởng tuyệt vời.

Hãy nhớ điều này… tôi không nhận xét về ông ấy. Không có khoảng cách nào giữa tôi và ông ấy. Ông ấy nói chuyện với bạn thông qua tôi – một cơ thể khác, một tên gọi khác, một hình hài khác, nhưng cùng một tinh thần.

Ông ấy nói:

Đạo khả đạo phi thường đạo.

(Dịch nghĩa: Đạo mà có thể diễn tả được thì tuyệt đối không phải là Đạo.)

Đầu tiên, tôi sẽ kể cho bạn nghe câu chuyện về việc các sutra đã được viết như thế nào, bởi vì điều đó sẽ giúp bạn hiểu được họ. Trong suốt chín mươi năm Lão Tử đã sống, thực ra thì ông ấy không làm gì ngoài sống. Ông ấy sống trọn vẹn. Các đồ đệ của Lão Tử nhiều lần nói với ông hãy viết điều gì đó đi, nhưng ông ấy luôn nói: “Đạo có thể diễn đạt được sẽ không còn là Đạo, chân lý có thể được kể lại sẽ lập tức không còn là chân lý”. Do đó, ông ấy không nói gì, ông ấy không viết gì.

Vậy thì các đồ đệ làm gì với ông ấy? Họ chỉ sống cùng ông ấy. Họ sống với ông ấy, họ di chuyển cùng ông ấy, họ chỉ đơn giản tiếp thu bản chất của ông ấy. Khi ở cạnh Lão Tử, họ nỗ lực cởi mở với ông ấy; khi ở cạnh Lão Tử, họ nỗ lực không nghĩ về điều gì; khi ở cạnh Lão Tử, họ trở nên ngày càng im lặng. Trong chính sự im lặng đó, ông ấy sẽ tiếp cận họ, ông ấy sẽ đến với họ và sẽ gõ cánh cửa của họ.

Trong suốt chín mươi năm, ông ấy từ chối viết hay nói về bất cứ điều gì. Đây là thái độ cơ bản của Lão Tử: chân lý không thể được dạy bảo. Khoảnh khắc bạn nói gì về chân lý, nó không còn đúng nữa – chính việc nói ra đó khiến nó không còn đúng nữa. Bạn không thể dạy nó. Nhiều nhất là bạn có thể ngụ ý về nó, và sự ngụ ý đó phải là chính bản thể của bạn, chính cuộc đời bạn; nó không thể được biểu lộ bằng ngôn từ. Ông ấy phản đối ngôn từ; ông ấy phản đối ngôn ngữ.

Chuyện kể rằng Lão Tử thường đi dạo bộ mỗi sáng, và có một người hàng xóm thường đi theo ông ấy. Biết rằng Lão Tử không muốn nói chuyện, rằng ông ấy là người thích tĩnh lặng tuyệt đối nên người hàng xóm kia luôn giữ im lặng. Thậm chí không được phép nói “Xin chào”, không được phép nói về thời tiết. Còn nói “Một buổi sáng thật đẹp!” là điều quá sức tưởng tượng. Lão Tử đi bộ hàng dặm, và người hàng xóm cứ thế đi theo.

Việc này diễn ra suốt nhiều năm, nhưng một lần nọ, nhà hàng xóm có khách và người khách này cũng muốn đi bộ, do đó người hàng xóm để anh ta đi cùng. Người này không biết về Lão Tử hay cách sống của ông ấy. Người khách bắt đầu cảm thấy ngột ngạt bởi vì chủ nhà không nói gì, và anh ta không thể hiểu được vì sao họ lại im lặng đến thế – và sự im lặng đó đè nặng lên anh ta.

Nếu bạn không biết cách giữ im lặng, nó sẽ trở nên nặng nề. Không phải bằng cách nói ra mọi việc là bạn đang giao tiếp, không phải như vậy. Nói ra mọi việc là cách bạn làm giảm gánh nặng cho chính mình. Thực ra, giao tiếp không thể diễn ra thông qua ngôn từ, mà ngược lại. Bạn có thể né tránh giao tiếp. Bạn có thể nói, và bạn có thể tạo ra một hàng rào ngôn ngữ bao quanh bạn để người khác không thể nhận biết tình huống thật sự của bạn. Bạn phủ lên người tấm áo choàng ngôn ngữ.

Người khách kia bắt đầu cảm thấy trần trụi, ngột ngạt và bất tiện; anh ta thấy bối rối. Do đó, anh ta chỉ nói khi mặt trời xuất hiện: “Hãy nhìn kìa! Mặt trời đang dần xuất hiện! Quả là một buổi sáng thật đẹp!”.

Đó là tất cả những gì anh ta nói. Nhưng không ai hồi đáp bởi vì người hàng xóm biết rằng Lão Tử không thích điều này. Và dĩ nhiên, Lão Tử không nói gì, không hồi đáp gì. Khi trở về, Lão Tử nói với người hàng xóm: “Từ mai, đừng để người kia đến nữa nhé. Anh ta thật lắm lời”. Trong khi người khách kia chỉ nói: “Mặt trời thật đẹp… Một buổi sáng thật đẹp”. Chỉ nói từng đó trong suốt hai, ba giờ đi bộ, nhưng Lão Tử nói “Đừng rủ anh chàng lắm lời đó nữa nhé. Anh ta nói quá nhiều và nói những điều vô nghĩa. Ta cũng có mắt, ta cũng có thể nhìn thấy mặt trời đang lên và nó thật đẹp. Cần gì phải nói nữa?”.

Lão Tử sống trong im lặng. Ông ấy luôn tránh nói chuyện về chân lý mà ông ấy đã đạt được, và luôn phản đối ý nghĩ rằng ông ấy cần phải viết nó ra cho các thế hệ sau.

Ở tuổi chín mươi, Lão Từ rời khỏi các đồ đệ. Ông nói lời từ biệt với họ: “Giờ ta sẽ lên núi, hướng tới dãy Himalaya. Ta sẽ đến đó để sẵn sàng cho cái chết. Thật tốt khi được sống với mọi người, thật tốt khi được sống trong thế giới con người khi còn sống, nhưng khi cái chết gần kề, thật tốt khi được đi vào sự cô độc hoàn toàn, để hướng tới nguồn cội trong sự thuần khiết tuyệt đối và cô độc tuyệt đối, không còn bị ô nhiễm bởi thế giới”.

Các đồ đệ của Lão Tử cảm thấy rất buồn nhưng họ có thể làm được gì? Họ đi theo Lão Tử vài dặm, nhưng cuối cùng ông ấy đã thuyết phục họ quay trở lại. Khi còn một mình, Lão Tử sắp đi qua biên giới nhưng quan giữ ải đã bắt giam ông ấy. Quan giữ ải cũng là một đồ đệ. Anh ta nói: “Trừ khi thầy viết một cuốn sách, bằng không con sẽ không để thầy vượt biên ải này. Ít ra thì thầy cũng hãy làm điều này vì nhân loại. Hãy viết một cuốn sách. Đó là món nợ mà thầy phải trả, nếu không, con sẽ không để thầy rời đi”. Lão Tử đã bị đồ đệ của chính mình giam giữ trong ba ngày.

Thật đẹp. Thật đáng yêu. Ông ấy bị ép buộc, và đó là cách mà cuốn sách nhỏ của Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ra đời. Ông ấy buộc phải viết bởi vì đồ đệ không để ông ấy vượt biên ải. Đồ đệ ấy lại là quan giữ ải và anh ta có đủ quyền hạn để gây rắc rối, thế nên Lão Tử buộc phải viết sách. Trong ba ngày, ông ấy đã hoàn thành cuốn sách.

Câu đầu tiên của cuốn sách đó là:

Đạo khả đạo phi thường đạo.

Đây là điều đầu tiên ông ấy nói, rằng bất cứ điều gì mà có thể được nói ra đều không phải sự thật. Đây là câu mở đầu của cuốn sách. Nó chỉ đơn giản cảnh báo với bạn rằng tiếp theo sau đây sẽ là ngôn từ, đừng trở thành nạn nhân của ngôn từ. Hãy nhớ những thứ không lời. Hãy nhớ những gì không thể truyền đạt qua ngôn ngữ, qua ngôn từ. Đạo có thể được truyền đạt, nhưng chỉ được truyền đạt giữa bản thể này với bản thể khác. Nó có thể được truyền đạt khi bạn ở cạnh một bậc thầy, chỉ với thầy, không làm gì khác, thậm chí không tập luyện điều gì khác. Chỉ cần ở cạnh thầy, đạo có thể được truyền đạt.

Vì sao sự thật không thể được nói ra? Khó khăn của nó là gì? Sự thật không thể được nói ra vì nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất là sự thật luôn được hiểu trong thinh lặng. Khi tiếng nói nội tâm của bạn dừng lại, sự thật sẽ được hiểu. Và những gì được hiểu trong thinh lặng, làm sao bạn có thể diễn đạt đó bằng âm thanh? Đó là một trải nghiệm. Đó không phải là suy nghĩ. Nếu nó là suy nghĩ, bạn có thể diễn đạt một cách dễ dàng. Cho dù suy nghĩ có phức tạp đến thế nào, bạn luôn có cách diễn đạt nó. Học thuyết phức tạp nhất của Albert Einstein, thuyết Tương đối, cũng có thể được diễn đạt bằng một biểu tượng. Không có khó khăn nào cả. Có thể người nghe không hiểu được nó, điều đó không quan trọng. Nó vẫn có thể được diễn đạt.

Chuyện kể rằng khi Einstein còn sống, chỉ có mười hai người trên toàn thế giới hiểu được ông ấy và những gì ông ấy đang làm. Nhưng chỉ từng đó người cũng là đủ. Thậm chí chỉ có một người hiểu, nó cũng đã được diễn đạt. Và cho dù lúc này không có lấy một người nào hiểu thì có lẽ nhiều thế kỷ sau cũng sẽ có người hiểu. Khi đó, học thuyết kia cũng được diễn đạt. Khả năng cao là ai đó có thể hiểu được nó và nó đã được diễn đạt.

Nhưng sự thật không thể được diễn đạt bởi vì chính việc tiếp cận sự thật đều diễn ra thông qua sự thinh lặng, không tiếng động, không suy nghĩ. Bạn tiếp cận sự thật theo cách vô trí – tức là từ bỏ tâm trí. Làm sao bạn có thể sử dụng thứ gì đó – như là một điều kiện cần – phải được từ bỏ trước khi tiếp cận sự thật? Tâm trí không thể hiểu được, tâm trí không thể nhận biết được – làm sao tâm trí có thể diễn đạt? Hãy ghi nhớ điều này: nếu tâm trí hiểu được, tâm trí có thể diễn đạt được; nếu tâm trí không hiểu được, tâm trí không thể diễn đạt được.

Mọi ngôn ngữ đều phù phiếm. Sự thật không thể diễn đạt được. Vậy thì tất cả các kinh sách đang làm gì?

Lão Tử đang làm gì? Sách cổ Upanishads đang làm gì? Tất cả đều nỗ lực diễn đạt những thứ không thể diễn đạt với hy vọng sẽ đánh thức khát khao tìm kiếm trong bạn. Sự thật không thể được diễn đạt, nhưng trong chính nỗ lực đó sẽ khiến người nghe khát khao muốn biết về những điều không thể diễn đạt. Cơn khát có thể được khơi mào. Cơn khát có sẵn ở đó, nó cần một chút khích lệ. Bạn đã khát, làm sao có thể không khát chứ? Bạn không được ban phước, bạn không xuất thần – bạn đang khát. Trái tim bạn là một ngọn lửa đang bùng cháy. Bạn đang tìm kiếm điều gì đó có thể làm dịu cơn khát của bạn. Nhưng, không tìm thấy nước, không tìm thấy gì khác, dần dần, bạn tìm cách kìm nén cơn khát của mình. Đó là cách duy nhất, bằng không, nó sẽ trở nên quá sức chịu đựng, nó sẽ không để bạn sống. Cho nên bạn phải đè nén cơn khát của mình.

Một bậc thầy như Lão Tử biết rất rõ rằng sự thật không thể được nói ra, nhưng chính nỗ lực nói ra sẽ khơi gợi điều gì đó, sẽ đưa cơn khát bị kìm nén của bạn nổi lên bề mặt. Và một khi cơn khát xuất hiện, một cuộc tìm kiếm sẽ bắt đầu. Và ông ấy đã lay chuyển bạn.

Đạo khả đạo phi thường đạo.

Ít nhất thì có thể là điều gì đó có liên quan. Chẳng hạn như, bạn có thể nói điều gì đó về ánh sáng với người mù khi biết rõ rằng không thể nói trực tiếp về ánh sáng bởi vì người đó không trải nghiệm nó. Nhưng bạn có thể nói điều gì đó về ánh sáng – bạn có thể tạo ra các lý thuyết về ánh sáng. Thậm chí người mù cũng có thể trở thành chuyên gia về học thuyết ánh sáng; hoàn toàn không có vấn đề gì, nhưng anh ta sẽ không hiểu được ánh sáng là gì. Anh ta sẽ hiểu ánh sáng được tạo thành từ những gì. Anh ta sẽ hiểu tính chất vật lý của ánh sáng, tính chất hóa học của ánh sáng, anh ta sẽ hiểu được tính thơ ca của ánh sáng, nhưng anh ta sẽ không hiểu căn cứ thật sự của ánh sáng, ánh sáng là gì. Anh ta sẽ không hiểu được trải nghiệm về ánh sáng. Do đó, tất cả những gì được nói với một người mù về ánh sáng chỉ mang tính tương đối: thứ gì đó về ánh sáng, chứ không phải ánh sáng. Ánh sáng không thể truyền đạt được.

Bạn có thể nói điều gì đó về Thượng đế, nhưng không thể nói trực tiếp về Thượng đế; bạn có thể nói điều gì đó về tình yêu thương nhưng không thể nói trực tiếp về tình yêu thương; “điều gì đó” vẫn có liên quan. Nó vẫn liên quan đến người nghe, người nghe đó có sự hiểu biết, có trí thông minh, có sự rèn luyện, có khát khao để hiểu. Nó phụ thuộc, nó liên quan đến thầy và cách diễn đạt, công cụ giao tiếp của thầy. Nó vẫn liên quan – liên quan đến nhiều thứ – nhưng nó không thể trở thành trải nghiệm tối thượng. Đây chính là nguyên nhân đầu tiên mà sự thật không thể diễn đạt được.

Nguyên nhân thứ hai khiến sự thật không thể diễn đạt được bởi vì nó là một trải nghiệm. Không trải nghiệm nào có thể được diễn đạt. Nếu bạn không biết về tình yêu thương, khi ai đó nói điều gì đó về tình yêu thương, bạn sẽ nghe nhưng không hiểu được ý nghĩa của nó. Từ “yêu” có trong tự điển. Thậm chí nếu không hiểu, bạn vẫn có thể tra cứu nó trong tự điển và bạn sẽ biết được nghĩa của nó. Nhưng ý nghĩa thật sự thì nằm ở bên trong bạn. Ý nghĩa đến từ trải nghiệm. Nếu đã yêu ai, bạn sẽ biết được ý nghĩa của từ “yêu”. Nghĩa đen của nó có sẵn trong tự điển, trong ngôn ngữ, trong ngữ pháp. Nhưng ý nghĩa mang tính trải nghiệm, ý nghĩa mang tính hiện hữu là ở trong bạn.

Nếu bạn đã biết được trải nghiệm đó, ngay lập tức từ “yêu” không còn trống rỗng nữa; nó sẽ chứa đựng điều gì đó. Nếu tôi nói ra một điều gì đó, nó sẽ trỗng rỗng trừ khi tôi mang trải nghiệm vào điều đó. Khi trải nghiệm của bạn đến với nó, nó sẽ trở nên có ý nghĩa; bằng không, nó vẫn trống rỗng, chỉ là từ ngữ, từ ngữ, từ ngữ.

Làm sao sự thật có thể được diễn đạt khi bạn chưa trải nghiệm nó? Thậm chí trong cuộc sống bình thường, bạn không thể kể điều mình chưa trải nghiệm. Chỉ có từ ngữ mới được chuyển tải. Phần vỏ bên ngoài sẽ tiếp cận bạn nhưng nội dung bên trong sẽ bị mất đi. Một từ trống rỗng sẽ di chuyển về phía bạn; bạn sẽ nghe nó và bạn sẽ nghĩ rằng mình hiểu nó bởi vì bạn biết được nghĩa đen của nó, nhưng bạn sẽ bỏ lỡ ý nghĩa thật. Ý nghĩa thật sự chỉ đến thông qua trải nghiệm. Bạn phải biết nó, không còn cách nào khác.

***

Lão Tử dường như không phải là người có tín ngưỡng bình thường. Ông ấy giống như nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ, nhà sáng tạo hơn là nhà thần học, người tu hành, người giảng đạo, triết gia. Ông ấy bình thường đến mức bạn không nghĩ rằng ông ấy có tín ngưỡng. Nhưng quả thật, để là người có tín ngưỡng phải là người bình thường một cách phi thường trong cuộc sống, đến mức bộ phận không chống lại cái tổng thể mà phải tuôn chảy cùng với cái tổng thể.

Có tín ngưỡng có nghĩa là không tách rời khỏi dòng chảy. Phi tín ngưỡng là có tâm trí riêng với nỗ lực chiến thắng, chinh phục, đạt đến nơi nào đó. Nếu có một mục tiêu, bạn không phải là người có tín ngưỡng. Nếu nghĩ về ngày mai, bạn đã bỏ lỡ tôn giáo. Tôn giáo không có ngày mai. Đó là lý do vì sao Jesus bảo đừng nghĩ về ngày mai, hãy nhìn vào những bông hoa huệ trên cánh đồng, chúng đang bung nở ngay lúc này.

Bất cứ thứ gì hiện hữu, hiện hữu ngay lúc này; bất cứ thứ gì còn sống, còn sống ngay lúc này. Hiện tại là thời điểm duy nhất, sự vĩnh cửu duy nhất.

Có hai khả năng. Bạn có thể chiến đấu với cuộc sống, bạn có thể có các mục tiêu riêng chống lại cuộc sống – và tất cả các mục tiêu đều riêng tư, tất cả các mục tiêu đều mang tính cá nhân, bạn đang tìm cách áp đặt một khuôn mẫu lên cuộc sống, áp đặt thứ gì đó của riêng bạn; bạn đang tìm cách bắt cuộc sống làm theo bạn, và bạn chỉ là một phần nhỏ, vô cùng nhỏ, nhưng bạn đang tìm cách bắt toàn thể vũ trụ làm theo bạn. Dĩ nhiên, bạn chắc chắn sẽ bị đánh bại. Bạn sẽ đánh mất sự duyên dáng của mình, bạn sẽ trở nên khô cứng. Việc chiến đấu sẽ tạo nên sự khô cứng. Chỉ cần nghĩ đến việc chiến đấu, sự khô cứng sẽ đến quanh bạn; chỉ cần nghĩ đến việc phản kháng, một lớp vỏ khô sẽ hình thành quanh bạn, bao phủ bạn giống như một cái kén.

Chính ý nghĩ rằng bạn có một mục tiêu sẽ biến bạn thành ốc đảo, bạn không còn là một phần trong lục địa mênh mông của cuộc sống. Và khi tách rời khỏi cuộc sống, bạn sẽ giống như cái cây bị bật gốc khỏi mặt đất. Cái cây đó có thể sống thêm một thời gian nhờ dưỡng chất trước đó, nhưng rồi nó sẽ chết. Cây cần có rễ, cây cần phải ở trong đất, hòa vào đất, trở thành một phần của đất.

Bạn cần phải tham gia vào lục địa cuộc sống, trở thành một phần của nó, cắm rễ vào nó. Khi cắm rễ vào cuộc sống, bạn mềm mại, bởi vì bạn không lo sợ. Nỗi sợ sẽ tạo nên sự khô cứng. Nỗi sợ tạo nên ý nghĩ về việc cần đảm bảo, nỗi sợ tạo nên ý nghĩ phải bảo vệ chính mình.

Và không có gì hủy diệt bằng nỗi sợ, bởi vì chính ý nghĩ sợ hãi đó khiến bạn tách rời khỏi cuộc sống, bị bật gốc khỏi mặt đất. Khi đó, bạn sẽ sống với quá khứ, đó là lý do vì sao bạn nghĩ quá nhiều về quá khứ. Điều này không xảy ra tình cờ. Tâm trí không ngừng nghĩ về quá khứ hoặc tương lai. Sao phải nghĩ nhiều về quá khứ? Cái gì đã qua thì cứ cho qua! Nó không thể trở lại. Quá khứ đã chết! Sao bạn cứ mãi nghĩ về quá khứ không còn nữa và không thể làm gì được nữa? Bạn không thể sống với quá khứ, bạn không thể ở trong quá khứ. Nhưng nó có thể hủy hoại khoảnh khắc hiện tại của bạn. Phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó, nguyên nhân khiến bạn chiến đấu với các tổng thể. Chiến đấu với cái tổng thể, chiến đấu với dòng sông cuộc đời, bạn sẽ bị bật gốc. Bạn đã trở thành một hiện tượng nhỏ bé, giống như con nhộng, khép kín trong cái kén. Bạn đã trở thành một cá thể tách biệt, bạn không còn là một phần của hiện hữu, của vũ trụ bao la không ngừng mở rộng. Không, bạn không còn là một phần của nó, bạn phải sống dè sẻn bằng nguồn dưỡng chất quá khứ của mình. Đó là lý do vì sao tâm trí không ngừng nghĩ về quá khứ.

Và bạn phải bình tĩnh, lấy can đảm để sẵn sàng chiến đấu, đó là lý do vì sao bạn cứ mãi nghĩ về tương lai. Tương lai cho bạn hy vọng, quá khứ cho bạn dưỡng chất, và chỉ có ở giữa mới là vĩnh cửu, mới là cuộc sống mà bạn đang bỏ lỡ. Giữa quá khứ và tương lai, bạn đang hấp hối, không phải sống.

Có một cách khác để sống, cách duy nhất bởi vì đây không phải là cách để sống. Chiến đấu không phải là cách để sống.

Cách khác đó là tuôn chảy theo dòng sông, tuôn chảy cùng với nó để bạn không cảm thấy tách rời, rằng bạn tách rời và đang tuôn chảy cùng với cuộc sống. Giờ thì bạn trở thành một phần, không chỉ một phần mà bạn đã hòa vào nó, bạn đã trở thành dòng sông, không còn sự tách biệt nào nữa. Khi bạn không chiến đấu, bạn trở thành cuộc sống. Khi bạn không chiến đấu, bạn đã trở thành cái mênh mông, cái vô cực. Khi bạn không chiến đấu, bạn ở trong trạng thái dâng nộp. Đừng tin tưởng vào tâm trí của riêng bạn mà hãy tin tưởng ở cái tổng thể. Không tin tưởng một phần mà hãy tin tưởng ở cái tổng thể. Đừng tin tưởng tâm trí mà hãy tin tưởng ở sự hiện hữu.

Dâng nộp, bỗng nhiên bạn trở nên mềm mại, bởi vì khi đó không còn cần phải khô cứng. Bạn không còn phải chiến đấu, không còn trạng thái thù địch, không cần phải bảo vệ, không còn phải đảm bảo; bạn đã hợp nhất với cuộc sống.

Và cuộc sống là đảm bảo, chỉ có cái tôi cá nhân mới không đảm bảo; chúng cần được bảo vệ, chúng cần sự an toàn, chúng cần lớp áo giáp bao quanh. E sợ, không ngừng run rẩy, vậy làm sao bạn có thể sống được? Bạn sống trong đau khổ, lo lắng, đó không phải là sống. Bạn đánh mất mọi niềm vui, niềm vui được hiện hữu ở đây và đó chính là niềm vui vô bờ bến. Niềm vui đó không có nguyên nhân. Nó chỉ đơn giản xuất hiện bởi vì bạn hiện hữu. Nó chỉ đơn giản sôi sục trong bạn bởi vì bạn hiện hữu. Một khi bạn cởi mở, tuôn tràn với cuộc sống, niềm vui không ngừng bung tỏa trong bạn. Không vì nguyên nhân nào cả! Bạn chỉ đơn giản bắt đầu cảm thấy rằng hiện hữu chính là niềm vui.

Không có cách hiện hữu nào khác. Nếu bạn đau khổ, điều đó chỉ cho thấy bạn đã mất liên lạc với sự hiện hữu. Đau khổ có nghĩa là bạn đã phần nào bị bật gốc ra khỏi mặt đất, bạn đã tách rời khỏi con sông, bạn đã trở thành một khối đông cứng, một viên đá lạnh, nổi bồng bềnh trên mặt nước, không phải tuôn tràn với dòng nước; chiến đấu, thậm chí nỗ lực đi ngược dòng – cái tôi luôn muốn đi ngược dòng, bởi vì bất cứ nơi nào có thử thách, cái tôi sẽ cảm thấy hài lòng. Cái tôi luôn tìm kiếm sự tranh đấu. Nếu không tìm thấy ai để tranh đấu, bạn sẽ cảm thấy rất đau khổ. Bạn cần ai đó để tranh đấu. Bạn cảm thấy tốt khi tranh đấu. Nhưng đó là cách sống bệnh hoạn, cách sống tâm thần. Chứng loạn tâm thần đang chiến đấu với dòng sông. Nếu chiến đấu, bạn sẽ trở nên khô cứng. Nếu chiến đấu, bạn sẽ bao bọc quanh mình bức tường chết. Dĩ nhiên, bản thể của bạn cũng chết. Bạn đánh mất sự mềm mại, sự minh mẫn, vẻ duyên dáng, nhẹ nhàng. Khi đó, bạn chỉ đang lay lắt, không phải sống.

Lão Tử ủng hộ sự dâng nộp. Lão Tử bảo hãy dâng nộp cho cuộc sống. Hãy để cuộc sống dẫn dắt bạn, đừng tìm cách dẫn dắt cuộc sống. Đừng tìm cách thao túng và kiểm soát cuộc sống, hãy để cuộc sống thao túng và kiểm soát bạn. Hãy để cuộc sống sở hữu bạn. Bạn chỉ việc dâng nộp! Bạn chỉ cần nói “Tôi không là gì cả”. Bạn trao toàn quyền cho cuộc sống, và hiện hữu với cuộc sống.

Khó đấy, bởi vì cái tôi sẽ nói: “Thế thì tôi là cái gì? Nếu dâng nộp, tôi không còn là mình nữa”. Nhưng khi cái tôi không còn, lần đầu tiên bạn được là chính mình. Lần đầu tiên, bạn không còn là cái hữu hạn, bạn là vô hạn. Lần đầu tiên, bạn không phải là thể xác, hữu thể, bạn là vô thể, là cái rộng lớn, không ngừng mở rộng, không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Nhưng cái tôi không biết về điều đó. Cái tôi lo sợ. Nó nói: “Mày đang làm gì vậy, đánh mất chính mình ư? Vậy thì mày sẽ bị lạc lối, mày sẽ không là ai cả!”. Nếu bạn lắng nghe cái tôi, cái tôi sẽ lại đưa bạn trở về con đường tâm thần, con đường của “là ai đó”. Và khi bạn càng trở thành ai đó thì cuộc sống sẽ ngày càng rời bỏ bạn.

Lão Tử nói rằng hãy không là ai cả, rồi bạn sẽ cảm nhận cuộc sống vô cực tuôn tràn bên trong mình. Đối với dòng chảy của cuộc sống, việc trở thành ai đó sẽ là rào cản. Khi không là ai cả, khoảng trống mênh mông chứa đựng tất cả. Những đám mây có thể bay, các vì sao có thể di chuyển bên trong nó, và không gì khiến nó phiền lòng. Và bạn không có gì để mất, bởi vì tất cả những thứ có thể mất đi bạn đều đã từ bỏ.

Trong trạng thái hiện hữu đó, bạn sẽ trẻ mãi. Dĩ nhiên cơ thể sẽ già đi, nhưng cái cốt lõi tận sâu bên trong bản thể của bạn vẫn trẻ, vẫn tươi mới. Nó không bao giờ già, nó không bao giờ chết.

Và Lão Tử nói đây chính là con đường tín ngưỡng thật sự. Hãy trôi cùng Lão Tử, di chuyển cùng với Đạo, đừng tạo ra bất kỳ mục tiêu hay mục đích riêng nào, cái tổng thể biết rõ mọi việc, bạn chỉ cần di chuyển cùng với nó. Cái tổng thể đã tạo ra bạn, cái tổng thể thở bên trong bạn, cái tổng thể sống trong bạn, sao bạn phải phiền lòng? Hãy để trách nhiệm đó cho cái tổng thể. Bạn chỉ cần đi tới bất cứ nơi nào nó đưa bạn tới. Đừng tìm cách thúc ép và lên kế hoạch, đừng đòi hỏi bất kỳ mục tiêu nào bởi vì sẽ có thất vọng, và bạn sẽ trở nên khô cứng, và bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội được sống đúng nghĩa. Đây là điểm cần lưu ý. Nếu bạn cho phép cuộc sống, cuộc sống sẽ tuôn tràn hơn. Nếu bạn để mình được sống, cuộc sống cũng sẽ tuôn tràn hơn.

Lão Tử cũng nhấn mạnh rằng cuộc sống không tin vào sức mạnh. Sự yếu đuối có vẻ đẹp của nó bởi vì nó dịu dàng, mềm mại. Một cơn bão đến, những cây to khỏe sẽ đổ, còn những cây nhỏ chỉ ngã rạp xuống; rồi khi cơn bão qua đi, chúng lại mỉm cười, nhảy múa. Thật ra cơn bão đó đã giúp chúng tươi mới, lấy đi bụi bẩn của chúng. Chúng trở nên sống động hơn, trẻ trung hơn, tươi mới hơn, cơn bão đã tắm gội cho chúng. Còn những cây lâu năm – rất to khỏe – đã ngã bởi vì chúng kháng cự, chúng không chịu cúi mình, chúng quá cố chấp.

Lão Tử nói cuộc sống yêu thích sự yếu đuối. Và đó là ý nghĩa trong lời dạy của Jesus: Người được ban phước là người nhu mì, bởi vì họ sẽ kế thừa trái đất. Người được ban phước là người nghèo, người nghèo về tinh thần. Người được ban phước là người khóc, bởi vì họ sẽ được vỗ về an ủi. Toàn bộ lời dạy của Jesus là: Hãy sống động và yếu đuối. Đó là lý do vì sao ông ấy nói nếu ai đó đánh vào má bạn, hãy đưa má còn lại cho anh ta. Nếu ai đó lấy áo khoác của bạn, hãy đưa luôn áo sơ-mi cho anh ta. Và nếu ai đó bắt bạn phải đi bộ một dặm với anh ta, hãy đi thêm một dặm nữa. Jesus nói rằng hãy nhu mì, yếu đuối – người được ban phước là người nhu mì.

Sự yếu đuối có gì để được ban phước? Bởi vì thông thường, những người được gọi là nhà lãnh đạo của thế giới, nhà giáo hàng đầu… đều nói hãy mạnh mẽ, còn Lão Tử và Jesus thì nói hãy yếu đuối. Sự yếu đuối có ý nghĩa của nó bởi vì nó không khô cứng. Để mạnh mẽ, bạn cần phải khô cứng.

Để mạnh mẽ, bạn cần phải chống lại dòng chảy của cuộc sống. Nếu muốn mạnh mẽ, bạn sẽ phải chống lại dòng chảy của cuộc sống, chỉ khi đó bạn mới trở nên mạnh mẽ; không còn cách nào khác để trở nên mạnh mẽ. Nếu bạn muốn trở nên mạnh mẽ, hãy di chuyển ngược dòng. Dòng sông càng khiến bạn chống lại nó, bạn càng trở nên mạnh mẽ.

Để yếu đuối, hãy trôi theo dòng; bất cứ nơi nào nó đi, hãy đi cùng với nó. Trôi theo dòng chảy của con sông… nếu sông nói đi với tôi một dặm, hãy đi thêm hai dặm; nếu sông nói đưa cho tôi áo choàng của bạn, hãy đưa luôn áo sơ-mi; và nếu sông đánh vào một bên má của bạn, hãy chìa ra bên má còn lại. Sự yếu đuối, nhu mì chứa đựng vẻ đẹp trong đó.

Vẻ đẹp đó chính là vẻ đẹp của sự duyên dáng, vẻ đẹp của sự không bạo lực, vẻ đẹp của tình yêu, của sự tha thứ. Vẻ đẹp đó là vẻ đẹp của sự không xung đột. Và chừng nào chưa hiểu rõ được Lão Tử, và chưa bắt đầu cảm nhận được Lão Tử, loài người không thể sống trong hòa bình.

Sự yếu đuối – bản thân từ này nghe có vẻ như chê trách. Nhưng sự yếu đuối là gì? Bông hoa thì yếu đuối. Hòn đá cạnh bông hoa lại rất mạnh mẽ. Bạn muốn giống hòn đá, hay muốn giống một bông hoa? Bông hoa yếu ớt, hãy nhớ, rất yếu. Chỉ cần một cơn gió mạnh là bông hoa đó sẽ không còn nữa. Những cánh hoa sẽ rơi xuống đất. Bông hoa là phép màu; cách tồn tại của bông hoa đó cũng là phép màu – thật yếu đuối, thật mềm mại! Cảm tưởng như điều đó khó có thể xảy ra.

Sao có thể như vậy? Hòn đá có vẻ ổn, chúng tồn tại, chúng có thuật toán để tồn tại, nhưng còn bông hoa? Có vẻ như bông hoa hoàn toàn không được nâng đỡ, nhưng nó vẫn tồn tại. Đó chính là điều kỳ diệu. Bạn có muốn giống như bông hoa? Nếu bạn hỏi thì tận sâu bên trong cái tôi của bạn sẽ nói: “Hãy giống như hòn đá”. Thậm chí nếu chọn bông hoa vì hòn đá trông thật xấu xí, cái tôi cũng sẽ nói: “Nếu bạn muốn là một bông hoa, hãy là một bông hoa nhựa. Ít ra thì cũng phải mạnh mẽ! Gió chẳng đổ, mưa chẳng sờn, và có thể tồn tại mãi mãi”.

Bông hoa thật sự bung nở vào buổi sáng, cười đùa trong chốc lát, tỏa hương thơm, rồi ra đi. Còn bông hoa nhựa có thể tồn tại mãi mãi. Nhưng nó không thật, và nó mạnh mẽ bởi vì nó không thật. Thực tế luôn mềm mại và yếu đuối. Và thực tế càng cao quý thì càng mềm mại.

***

Hoàng đế Trung Hoa muốn cử một người uyên bác nhất đảm nhiệm việc xử án. Mọi người tiến cử Lão Tử. Đó là một quyết định hoàn toàn đúng đắn, không ai phản đối, và Lão Tử được triệu hồi.

Lão Tử đến theo cách riêng của ông ấy. Ông ấy cưỡi trâu – một điều rất hiếm. Người ta thường cưỡi ngựa, có người cưỡi voi, còn cưỡi một con trâu ư? Nhưng ông ấy yêu con trâu của mình, nó đưa ông ấy đi hết nơi này đến nơi khác, và nó mang đến cho ông ấy nguồn dưỡng chất. Ngựa không thể làm được điều đó. Trong khi trâu là loài vật rất tĩnh lặng – Lão Tử có tình yêu vô hạn với sự tĩnh lặng – chúng không huyên thuyên. Chúng quá hài lòng, chúng không có gì chống lại sự hiện hữu.

Lão Tử cưỡi trâu vào cung. Hoàng đế kinh ngạc, nhưng vì đã mời ông ấy và họ đều là những người nho nhã lịch thiệp nên tất cả đã bỏ qua con trâu. Hoàng đế hỏi Lão Tử:

– Trẫm muốn khanh đảm nhận công việc xử án.

Lão Tử đáp:

– Bệ hạ đã chọn sai người rồi.

Hoàng đế hỏi:

– Vì sao?

Lão Tử đáp:

– Bởi vì hạ thần rất công bằng.

Hoàng đế nói:

– Đó chính là chức năng của nó. Đừng nói không với hoàng thượng.

Lão Tử đáp:

– Được thôi, nhưng sẽ không lâu, có lẽ trong một ngày.

Và nó chỉ diễn ra trong một ngày. Vụ án đầu tiên là về một tên trộm đã lấy cắp tiền từ người giàu có nhất Trung Hoa. Người này giàu đến mức ngay cả hoàng đế cũng đã từng mượn tiền. Lão Tử lắng nghe toàn bộ vụ việc và phán:

– Sáu tháng tù giam cho cả người giàu và tên trộm.

Người đàn ông giàu có đáp:

– Cái gì?! Tôi bị mất tiền và ông còn bỏ tù tôi sao?

Lão Tử đáp:

– Ta xem xét toàn bộ sự việc theo cách thấu đáo nhất. Tên trộm này mắc tội thứ cấp, còn ngươi mới là kẻ có tội đầu tiên. Người đã gom hết của cải của cả kinh đô, ngươi đã lấy hết tiền của hàng triệu người. Cho dù hắn không trộm tiền của ngươi thì ngươi cũng đáng bị phạt. Và ta sẽ không gọi người đàn ông nghèo khổ này là tên trộm; hắn chỉ đang phân bổ của cải đến những nơi chúng thuộc về. Ngươi là kẻ hút máu, là loài ký sinh ăn bám!

Người đàn ông giàu có đáp:

– Tôi muốn gặp hoàng thượng trước khi bị bỏ tù.

Người đàn ông ấy đến gặp hoàng đế và nói:

– Tâu hoàng thượng, người này hoàn toàn vô lý và nguy hiểm. Ông ấy sắp bắt giam hạ thần trong sáu tháng.

Hoàng đế nói:

– Khanh bị kết án ư? Khanh có làm gì sai đâu.

Người đàn ông ấy nói:

– Thần đã nói nhưng ông ấy bảo rằng “Ngươi đã bóc lột tiền của của người nghèo. Vậy họ lấy đâu ra tiền? Nếu không ăn trộm thì có vẻ như không còn cách nào khác!”. Cho nên, ông ấy gọi thần là tội phạm chính, còn tên trộm chỉ là phụ. Nhưng thần cảnh báo, nếu thần phải đi tù, sớm muộn gì bệ hạ cũng sẽ đi tù bởi vì bệ hạ đã mắc nhiều tội mưu sát, bệ hạ đã cưỡng đoạt phụ nữ, bệ hạ đã triệu hồi tất cả những phụ nữ xinh đẹp nhất nước vào hoàng cung. Người đàn ông ấy cần phải bị cách chức ngay lập tức.

Hiểu vấn đề, vị hoàng đế nói:

– Người đó tự nói rằng ông ấy sẽ không giữ chức vụ này quá một ngày. Thậm chí một ngày còn chưa kết thúc, đây chỉ mới là vụ án đầu tiên!

Sau khi trả tự do cho Lão Tử, hoàng đế nói:

– Khanh nói đúng. Khanh cứ tiếp tục cưỡi con trâu của mình đi, cứ đến bất cứ nơi nào khanh muốn đến.

Lão Tử là người thấu tình đạt lý, ông ấy đi sâu vào khám phá tận cùng mọi việc.

***

Thực ra Lão Tử là một người vô lý. Ông ấy đề cao sự vô dụng.

Có một câu chuyện như sau:

Lão Tử cùng với các đồ đệ đi qua một khu rừng, nơi có hàng trăm thợ mộc đang chặt cây để xây một cung điện lớn. Cả khu rừng đã bị chặt gần hết, chỉ còn lại một cây duy nhất, một cây to với hàng ngàn nhánh vươn ra – to lớn đến nỗi đủ chỗ cho mười ngàn người cùng ngồi dưới tán cây. Lão Tử sai đồ đệ đi hỏi thăm vì sao cây này không bị đốn ngã trong khi cả khu rừng gần như bị chặt sạch.

Các đồ đệ của Lão Tử đến hỏi các thợ mộc:

– Vì sao các ông không đốn hạ cây này?

Những người thợ đáp:

– Cây này hoàn toàn vô dụng. Anh không thể làm gì được với nó bởi vì mỗi nhánh cây đều có quá nhiều mắt. Không có nhánh nào thẳng cả. Anh không thể làm cột. Anh không thể đóng bàn ghế. Anh không thể dùng làm củi bởi vì khói của nó rất có hại cho mắt – có thể gây mù lòa. Đây là một cái cây vô dụng cho nên chúng tôi không đốn hạ.

Các đồ đệ trở về kể với Lão Tử, ông ấy cười và nói:

– Hãy như cái cây này. Nếu các con muốn tồn tại trong thế giới này, hãy giống như cái cây ấy, hoàn toàn vô dụng. Khi đó, không ai làm hại đến các con. Nếu thẳng thớm, các con sẽ bị đốn hạ, các con sẽ trở thành vật dụng trong nhà người khác. Nếu xinh đẹp, các con sẽ bị đem ra chợ bán, các con sẽ trở thành một món đồ. Hãy giống như cái cây ấy, hoàn toàn vô dụng. Khi đó, không ai có thể làm hại các con. Các con sẽ lớn nhanh và vạm vỡ, hàng ngàn người có thể tìm thấy bóng mát bên dưới các con.

Lão Tử có một logic hoàn toàn khác với tâm trí của bạn. Ông ấy nói hãy là người cuối cùng. Hãy đi vào thế giới như thể bạn không là ai cả. Hãy không là ai cả. Đừng tìm cách làm người đầu tiên, bằng không, bạn sẽ được biết đến. Đừng cạnh tranh, đừng tìm cách làm tăng giá trị của mình. Không cần thiết. Hãy cứ vô dụng và tận hưởng. Dĩ nhiên là ông ấy không thực tế. Nhưng nếu hiểu được ông ấy, bạn sẽ thấy rằng ông ấy là người thực tế nhất ở lớp sâu nhất, tận sâu bên trong, bởi vì cuộc sống là để tận hưởng và đón mừng, cuộc sống không phải để trở thành một tiện ích.

Cuộc sống giống như bài thơ hơn là một món đồ ngoài chợ; nó phải giống như một bài thơ, một ca khúc, một vũ điệu, một bông hoa ven đường, bung nở tự nhiên, gửi hương cho gió, không hướng tới bất kỳ ai, chỉ đơn giản tận hưởng chính mình, được là chính mình.

Lão Tử nói nếu tìm cách trở nên thật thông minh, nếu tìm cách trở nên thật hữu ích, bạn sẽ bị sử dụng. Nếu tìm cách trở nên thật thiết thực, bạn sẽ bị bóc lột theo cách này hoặc cách khác, bởi vì thế giới sẽ không để yên cho người có ích.

Lão Tử nói hãy từ bỏ mọi ý tưởng. Nếu bạn muốn là một bài thơ, một trạng thái xuất thần, hãy quên tính hữu dụng đi. Bạn hãy luôn chân thật với chính mình. Hãy là chính mình. Dân hippie có một câu nói: “Hãy làm việc của mình”. Lão Tử là người hippie đầu tiên trên thế giới. Bạn không hiện diện ở đây để bị đem đi bán. Lão Tử nói hãy là chính mình, làm việc của mình và đừng quan tâm đến ai khác. Bạn không ở đây để bị đem đi bán. Do đó, đừng nghĩ về sự tiện ích, chỉ nghĩ về phúc lành của bạn. Hãy vui sướng, và nếu điều gì đó biến mất khỏi niềm hạnh phúc của bạn, đừng lo lắng, hãy chia sẻ. Đừng ép buộc bản thân trở thành một tiện ích bởi đó là cách dẫn đến tự sát.

Đừng tìm cách tự sát.

Tất cả các giáo viên trên thế giới này đều thực tế hơn Lão Tử, đó là lý do vì sao họ có nhiều lời mời gọi. Đó là lý do vì sao họ có những tổ chức lớn. Còn Lão Tử đứng một mình, tách biệt. Nhưng Lão Tử là một hiện tượng hiếm có. Nếu hiểu được ông ấy, bạn cũng có thể trở thành một hiện tượng hiếm có.

Và cách làm được điều đó là hãy sống bình thường, rồi bạn sẽ trở nên phi thường; chỉ cần là người cuối cùng, bỗng nhiên bạn sẽ thấy mình là người đầu tiên; không yêu sách, không đòi hỏi công trạng, rồi không ai có thể lấy mất của bạn; hãy hiện hữu như không tồn tại, như một người vô danh, rồi một cách thật bí ẩn, bạn và chỉ có bạn trở thành người mà toàn bộ sự hiện hữu đều cảm thấy được ban phước, cảm thấy hạnh phúc, người mà toàn bộ sự hiện hữu đều ăn mừng.