• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Trò chuyện với vĩ nhân
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 25
  • Sau

FRIEDRICH NIETZSCHE

Friedrich Nietzsche có lẽ là triết gia vĩ đại nhất mà thế giới từng biết. Ông ấy còn vĩ đại ở một phương diện khác mà nhiều nhà triết học không hề nhận thấy: ông ấy là một nhà thần bí bẩm sinh.

Triết lý của Friedrich Nietzsche không chỉ về tâm trí mà còn ăn sâu vào tận trái tim, thậm chí chạm đến chính bản thể của ông ấy. Điều không may duy nhất về người đàn ông này là ông ấy được sinh ra ở phương Tây; do đó, ông ấy chưa từng biết qua bất kỳ ngôi trường thần bí nào. Ông ấy luôn có những tiên liệu sâu sắc, nhưng lại hoàn toàn không nhận biết về thiền. Những suy nghĩ của ông ấy đôi khi chứa đựng chiều sâu của một nhà thiền tịnh, đôi khi bay bổng như Phật Thích Ca Mâu Ni; nhưng tất cả những điều này dường như đã xảy ra với ông ấy một cách ngẫu nhiên.

Ông ấy không biết gì về những con đường khai sáng, về con đường đạt đến bản thể của chính mình. Điều này đã tạo nên một sự xáo trộn lớn trong bản thể của ông ấy. Ước mơ vươn cao đến tận các vì sao nhưng cuộc sống của ông vẫn rất đỗi bình thường, nó không chứa đựng tinh hoa của thiền. Những suy nghĩ của Friedrich Nietzsche không phải là máu, là xương, là tủy của ông ấy. Chúng tuyệt đẹp, vô cùng xinh đẹp, nhưng vẫn còn thiếu điều gì đó; và thứ còn thiếu đó chính là cuộc sống. Chúng là những ngôn từ chết; chúng không có hơi thở, không có nhịp đập của trái tim.

Nhưng tôi nói về ông ấy vì một lý do đặc biệt: ông ấy là triết gia duy nhất, bất kể phương Đông hay phương Tây, còn nghĩ về đỉnh cao của tâm thức nhân loại. Ông ấy có lẽ chưa từng trải nghiệm những điều này; dĩ nhiên là ông ấy chưa từng trải nghiệm chúng. Ông ấy còn nghĩ đến việc trở lại làm một người bình thường. Chính ý nghĩ đó, ý nghĩ hạ từ đỉnh cao xuống phố chợ, hạ từ các vì sao xuống mặt đất, chưa từng xảy ra với bất cứ ai.

Friedrich Nietzsche có gì đó của Phật Thích Ca Mâu Ni, có lẽ được vô thức mang theo từ những kiếp sống trước, và ông ấy có gì đó của Zorba. Ông ấy là bằng chứng duy nhất chứng tỏ rằng Phật và Zorba có thể gặp nhau; rằng những ai đã đạt đến đỉnh cao nhất không cần neo bám ở đó nữa.

Trên thực tế, họ không cần phải ở đó. Họ vẫn còn nợ nhân loại; họ vẫn còn nợ trái đất. Họ được sinh ra giữa loài người; họ đã cùng sống trong cảnh đau khổ và tăm tối. Giờ đây, họ đã nhìn thấy ánh sáng, họ cần phải quay trở lại để đánh thức những người còn đang say ngủ; để mang tin lành rằng bóng tối không phải là tất cả, rằng vô thức là lựa chọn của chúng ta.

Nếu chúng ta chọn tâm thức, toàn bộ vô thức và bóng tối có thể biến mất. Chính vì lựa chọn của mình mà chúng ta đang sống trong những thung lũng tối tăm. Nếu chúng ta quyết định sống trên những đỉnh cao đầy ánh sáng, không ai có thể ngăn cản điều đó bởi vì đó cũng chính là khả năng của chúng ta.

***

Số phận của thiên tài là bị hiểu sai. Nếu không bị hiểu sai, anh ta không còn là thiên tài nữa. Nếu đám đông có thể hiểu được, điều đó có nghĩa là người này đang nói ở tầm trí tuệ bình dân.

Friedrich Nietzsche cũng bị hiểu lầm, và từ sự hiểu lầm này nảy sinh tai họa khôn lường. Nhưng có lẽ đó là điều khó tránh khỏi. Để hiểu được một người như Nietzsche, ít nhất bạn phải có được tâm thức tương tự, nếu không thể cao hơn.

Adolf Hitler đần độn đến mức không có cơ sở nào cho thấy ông ta có thể hiểu được ý nghĩa trong lời nói của Nietzsche; nhưng ông ta đã trở thành nhà tiên tri cho triết lý của Nietzsche. Và theo như tâm trí chậm tiến của mình, ông ấy đã lý giải – không chỉ lý giải, mà còn hành động theo những lý giải đó – và kết quả là Thế chiến thứ hai.

Khi Nietzsche nói về “ý chí sức mạnh”, nó chẳng liên quan gì đến ý chí thống lĩnh. Nhưng đó lại là ý nghĩa mà đảng Quốc xã trao cho nó.

“Ý chí sức mạnh” hoàn toàn trái ngược với ý chí thống lĩnh. Ý chí thống lĩnh đến từ mặc cảm thấp hèn. Anh ta muốn thống lĩnh người khác chỉ để chứng minh với bản thân anh ta rằng mình không thấp kém, rằng mình là ưu việt. Nhưng anh ta cần phải chứng minh điều đó. Nếu không có bằng chứng, anh ta biết rằng mình luôn thấp kém; anh ta phải dùng thật nhiều, thật nhiều bằng chứng để che đậy nó.

Một người thật sự ưu việt sẽ không cần đến bằng chứng, người ấy chỉ ưu việt thôi. Liệu một bông hồng có cần phải tranh luận về vẻ đẹp của nó? Liệu ánh trăng rằm có cần phải mất thời gian chứng minh cho vẻ rực rỡ của nó? Người ưu việt chỉ đơn giản biết về điều đó mà không cần chứng minh; do đó, ông ấy không có ý chí thống lĩnh. Dĩ nhiên là Friedrich Nietzsche có “ý chí sức mạnh”, nhưng bạn phải hiểu theo cách rất khác biệt. Ý chí sức mạnh của ông ấy có nghĩa là: ông ấy muốn đạt đến khả năng bộc lộ trọn vẹn nhất.

Ý chí đó chẳng liên quan gì đến ai, toàn bộ sự quan tâm đó là ở chính bản thân ông ấy. Ông ấy muốn bung nở, muốn mang tất cả những bông hoa đang ẩn mình trong tiềm năng của ông ấy vươn cao đến tận bầu trời. Điều đó thậm chí không thể sánh được, nó không tìm cách vươn cao hơn người khác, nó chỉ nỗ lực để vươn cao bằng hết tiềm năng của mình.

“Ý chí sức mạnh” hoàn toàn mang tính cá nhân. Nó muốn nhảy múa đến tầm cao nhất của bầu trời, nó muốn đối thoại với các vì sao, nhưng nó không quan tâm đến việc chứng minh rằng ai đó thấp kém. Nó không có tính cạnh tranh, nó ngoài tầm so sánh.

Adolf Hitler và đảng Quốc xã đã gây ra quá nhiều tổn hại cho thế giới bởi vì họ đã ngăn cản thế giới hiểu về Friedrich Nietzsche cũng như ý nghĩa thật sự trong lời nói của ông ấy. Và đó không phải là trường hợp duy nhất; ở các ý tưởng khác, họ cũng có một kiểu hiểu sai tương tự.

Quả là một số phận đáng buồn, nó chưa từng xảy đến với bất kỳ nhà thần bí hay nhà thơ vĩ đại nào trước Nietzsche. Sự khổ hình của Jesus hay việc Socrates bị đầu độc cũng không bi thương đến thế, như những gì đã xảy ra với Friedrich Nietzsche. Ông ấy đã bị hiểu sai ở quy mô rộng lớn đến mức Adolf Hitler đã tận dụng cơ hội để cướp đi sinh mạng của hơn tám triệu người nhân danh Friedrich Nietzsche và triết lý của ông ấy. Cần thêm chút thời gian… Khi người ta lãng quên Adolf Hitler, đảng Quốc xã cũng như Thế chiến thứ hai, Friedrich Nietzsche mới lại phản chiếu đúng ánh sáng của mình. Ông ấy sẽ quay trở lại.

Một ngày kia, các khất sĩ từ Nhật Bản báo với tôi rằng những cuốn sách của tôi đã được dịch sang ngôn ngữ của họ và đang bán chạy nhất, tiếp theo là sách của Friedrich Nietzsche – những cuốn sách của ông ấy cũng đang được độc giả đón nhận. Và chỉ vài ngày trước nữa, thông tin tương tự cũng đến từ Hàn Quốc. Có lẽ, người ta tìm thấy điều gì đó tương tự ở những cuốn sách.

Nhưng Friedrich Nietzsche cần phải được làm sáng tỏ một lần nữa, để cho tất cả những điều vô nghĩa mà đảng Quốc xã áp đặt lên triết lý rạng ngời của ông ấy vĩnh viễn bị xóa bỏ. Ông ấy phải được thanh lọc, ông ấy cần một lễ rửa tội.

Cậu bé Sammy kể với ông của mình về nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein và thuyết Tương đối của ông ấy.

– À ừ, – ông của Sammy nói, – vậy học thuyết đó nói về điều gì?

– Cô giáo của chúng cháu nói rằng chỉ vài người trên thế giới mới có đủ khả năng hiểu được nó, – nhóc Sammy giải thích, – nhưng rồi cô giáo giải thích ý nghĩa của nó. Thuyết Tương đối cũng giống như tình huống này: nếu một người đàn ông ngồi cạnh một cô gái đẹp trong một giờ, thời gian chỉ ngắn như một phút; nhưng nếu ông ấy ngồi cạnh chiếc lò nướng trong một phút, cảm giác giống như một giờ – đó chính là thuyết Tương đối.

Ông của Sammy im lặng, lắc đầu và ôn tồn nói:

– Sammy, vậy cái người tên Einstein này của cháu kiếm sống từ điều đó sao?

Sự hiểu biết của mọi người tương thích với tầm nhận thức của họ. Việc Nietzsche rơi vào tay của đảng Quốc xã chỉ là sự tình cờ. Họ cần có một triết lý cho chiến tranh, còn Nietzsche lại khen ngợi vẻ đẹp của người lính. Họ cần một ý tưởng nào đó để đánh nhau, và Nietzsche đã cho họ một lý do không thể tuyệt vời hơn – siêu nhân.

Những ý tưởng đẹp đó đã… Nietzsche không bao giờ có thể hình dung được rằng chúng lại quá nguy hiểm và trở thành cơn ác mộng của toàn thể nhân loại. Nhưng bạn không thể tránh việc bị hiểu lầm, bạn không thể làm được gì cả.

Một gã say rượu nồng nặc mùi whiskey, xì gà và nước hoa rẻ tiền loạng choạng bước lên xe buýt, chật vật đi giữa hai dãy ghế, rồi thả mình xuống chiếc ghế ngay cạnh một linh mục. Gã say nhìn thật lâu vào người có vẻ mặt rất bực dọc ngồi cạnh mình, và hỏi:

– Này cha, con muốn hỏi cha một việc. Nguyên nhân nào gây ra chứng viêm khớp?

Vị linh mục trả lời một cách lạnh lùng và cộc lốc:

– Do lối sống trái đạo lý, uống quá nhiều rượu, hút hít và quan hệ với đám phụ nữ dễ dãi.

– Ồ, chết tiệt! – Gã say nói.

Họ im lặng một lúc. Vị linh mục bắt đầu cảm thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh mẽ với một người rõ ràng đang cần lòng trắc ẩn. Ông quay sang gã say nói:

– Ta xin lỗi, con trai. Ta không có ý gay gắt. Con đã chịu đựng những cơn đau khủng khiếp của chứng viêm khớp này bao lâu rồi?

– Cơn đau của con ư? – Gã say hỏi. – Con không bị viêm khớp. Con chỉ đọc thấy trên báo nói rằng Giáo hoàng đang mắc chứng bệnh này.

Giờ thì bạn có thể làm được gì? Một khi bạn đã nói ra điều gì đó, tất cả sẽ phụ thuộc vào người nghe, vào những gì mà anh ta sẽ suy diễn từ đó.

Nhưng Nietzsche có vai trò quan trọng đến mức ông ấy cần phải được gột rửa sạch những thứ rác rưởi mà đảng Quốc xã đã áp đặt lên các ý tưởng của ông ấy. Và điều kỳ lạ nhất là không chỉ đảng Quốc xã mà các nhà triết học khác cũng hiểu sai về Nietzsche. Có lẽ Nietzsche là một thiên tài vĩ đại đến mức những người được gọi là vĩ đại cũng không thể nào hiểu được ông ấy.

Nietzsche đã mang quá nhiều tầm hiểu biết mới vào thế giới tư duy đến mức chỉ cần một tầm hiểu biết thôi cũng đủ để biến ông ấy thành một trong những triết gia vĩ đại của thế giới – và ông ấy có hàng tá hiểu biết hoàn toàn nguyên bản mà con người chưa từng nghĩ đến.

Tôi vô cùng kính trọng người đàn ông này, và cũng rất buồn vì ông ấy đã bị hiểu sai – không những bị hiểu sai, ông ấy còn bị nhốt vào nhà thương điên. Các bác sĩ tuyên bố rằng ông ấy bị điên. Sự hiểu biết của ông ấy vượt quá xa tầm hiểu biết của bộ óc bình thường nên những bộ óc bình thường đó cảm thấy rất hạnh phúc khi tuyên bố rằng ông ấy bị điên: “Nếu ông ấy không bị điên, vậy thì chúng ta quá bình thường”. Ông ấy phải bị điên, ông ấy bị nhốt vào nhà thương điên.

Tôi cảm nhận rằng ông ấy chưa bao giờ bị điên. Ông ấy đi trước thời đại quá nhanh, đồng thời ông ấy cũng quá chân thành, quá thật thà. Ông ấy nói chính xác những gì mình trải nghiệm mà không lo lắng về các chính khách, các linh mục và đám người kém cỏi tầm thường khác. Nhưng đám người kém cỏi này lại quá đông, còn ông ấy lại quá đơn độc, đến mức họ không nghe thấy rằng ông ấy không bị điên. Và bằng chứng chứng minh Nietzsche không bị điên chính là cuốn sách cuối cùng được ông ấy viết trong nhà thương điên.

Cuốn sách mà Nietzsche viết trong nhà thương điên là cuốn sách vĩ đại nhất của ông ấy, và là bằng chứng tuyệt vời khẳng định rằng người điên không thể nào viết được như vậy. Cuốn sách cuối cùng ấy có tên là The will to power. Ông ấy không thể in được sách, bởi vì ai lại đi in sách của một gã điên. Ông ấy gõ cửa nhiều nhà xuất bản nhưng đều bị từ chối, và giờ thì mọi người đều đồng ý rằng đó là tác phẩm vĩ đại nhất của ông ấy. Sau khi Nietzsche qua đời, em gái ông đã bán nhà và nhiều vật dụng khác để xuất bản cuốn sách, bởi vì đó là ước nguyện cuối cùng của Nietzsche và ông ấy chưa bao giờ được nhìn thấy bản in.

Ông ấy bị điên ư? Hay chúng ta đang sống trong một thế giới điên rồ? Nếu một người điên có thể viết một cuốn sách như The will to power, vậy thì thà làm người điên hơn là người tỉnh táo như Ronald Reagan, chỉ tích trữ vũ khí hạt nhân – hàng ngàn người được thuê để chế tạo vũ khí hạt nhân suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Bạn gọi những người này là tỉnh táo, còn Friedrich Nietzsche là điên ư?

***

Friedrich Nietzsche tuyên bố rằng Thượng đế chết rồi. Ông ấy phải công bố điều đó bởi vì Thượng đế đã chết. Thượng đế mà mọi người tôn sùng hàng ngàn năm qua đã chết; đó không phải là Thượng đế thật, mà là Thượng đế do tâm trí con người tạo ra – Thượng đế trong các đền điện, thánh đường, nhà thờ, Thượng đế của kinh Cựu Ước, Thượng đế của kinh Vệ Đà.

Nietzsche chỉ đơn giản tuyên bố một sự kiện. Dĩ nhiên, ông ấy cũng kinh ngạc bởi điều đó như bao người khác. Chính bản thân ông ấy cũng chưa sẵn sàng để chấp nhận nó. Thực tế là ông ấy đã nỗ lực cả đời để tiếp nhận điều đó. Ông ấy tìm cách thuyết phục bản thân bằng cách tranh luận rằng Thượng đế thật sự đã chết, nhưng thật khó khăn cho người đàn ông tội nghiệp đó. Hẳn nó cũng khó khăn với người khác. Nietzsche là một người đàn ông thép; ông ấy không phải là người bình thường, ông ấy thật sự là một người mạnh mẽ, nhưng điều đó vẫn quá sức đối với ông ấy. Nietzsche đã phải chịu đựng rất nhiều bởi vì ông ấy là người đầu tiên tuyên bố điều đó, và người tiên phong luôn gặp nhiều nguy hiểm. Ông ấy bị suy nhược thần kinh. Cuối đời mình, ông ấy như điên loạn. Ông ấy đã chấp nhận quá nhiều rủi ro cho lời tuyên bố đó.

Giờ đây, “Thượng đế chết rồi” gần như là một sáo ngữ. Nhưng thời điểm khi Nietzsche sử dụng cụm từ đó, nó giống như một cơn địa chấn, một đòn sấm sét, nó phá hủy toàn bộ ảo tưởng của con người. Nhưng hãy nhớ, đó chỉ là một nửa của thông điệp, nửa còn lại gần như bị lãng quên. Nietzsche tuyên bố “Thượng đế chết rồi” bởi vì ông ấy muốn tuyên bố về sự xuất hiện của một con người mới. Ông ấy gọi con người mới đó là “con người có quyền lực siêu phàm” hay “siêu nhân”.

Ông ấy nói: “Nếu Thượng đế tiếp tục sống theo cách cũ, con người không thể hoàn toàn tự do khẳng định bản thân. Con người không thể lớn lên, con người không thể trưởng thành. Anh ta sẽ mãi phụ thuộc vào hình tượng của Người cha”. Thượng đế trong vai trò Người cha vĩ đại đã chết: đây là một nửa thông điệp của Nietzsche.

Nửa còn lại là: giờ thì hãy dựa vào chính mình, tự mình đứng lên. Giờ là lúc hãy trưởng thành. Dựa dẫm đủ rồi! Cầu nguyện ngớ ngẩn đủ rồi! Hành lễ đủ rồi! Hãy thôi ngay những trò vô bổ đó!

Con người đã tham gia rất nhiều, rất nhiều trò chơi nhân danh Thượng đế để bóc lột người khác. Nietzsche đã đặt dấu chấm hết cho tất cả; thế giới vĩnh viễn không còn như trước nữa. Mặc dù chịu đựng rất nhiều bởi tuyên bố của mình nhưng Nietzsche đã có công rất lớn với nhân loại: ông ấy đã bắt đầu một thời đại mới.

Thượng đế cũ chết rồi – đó là một điều kiện rất cơ bản để Thượng đế mới xuất hiện, một phiên bản mới của Thượng đế, hòa nhịp hơn với tâm thức hiện đại, đương đại. Thượng đế của kinh Cựu Ước rất hoàn hảo cho những người phát minh ra nó. Nó hoàn hảo cho những người mà nhà tiên tri Moses đã trò chuyện; nó là một thứ ngôn ngữ mà họ hiểu được. Giờ đây, hàng ngàn năm đã trôi qua, Thượng đế cần những chiếc áo mới, còn bạn lại cứ mãi khoác lên Người những bộ đồ cũ kỹ, sờn rách.

Thượng đế không chết. Thượng đế không thể nào chết! Nhưng phiên bản cũ đã chết.

Con người phải được yêu thương, bởi vì chỉ có nguồn dưỡng chất của tình yêu mới giúp con người trưởng thành. Con người phải biết rằng mình đơn độc, rằng anh ta phải dựa vào nguồn lực của chính mình, không phải là một Người cha thiên đường nào đó. Một khi con người nhận lấy trách nhiệm, gách vác toàn bộ trách nhiệm trên đôi vai của mình, một cuộc cách mạng vĩ đại chắc chắn sẽ diễn ra, bởi vì con người có khả năng phát triển vô hạn.

Nếu cứ mãi dựa vào một Thượng đế nào đó, con người hoàn toàn quên mất tiềm năng của mình, tương lai của mình, sự trưởng thành của mình.

Thật tốt khi Thượng đế bị bỏ rơi. Giờ đây, con người phải đón nhận cuộc sống của mình bằng cả hai tay. Và vẻ đẹp nằm ở chỗ, nếu bạn trở nên có trách nhiệm, hãy chịu trách nhiệm với chính mình; nếu muốn tuyên bố sự tự do của bạn, bạn phải tự làm điều đó bởi vì Thượng đế chết rồi; không còn ai cao hơn bạn – nếu bạn chấp nhận rằng giờ đây, bạn phải tìm kiếm con đường của mình, bạn phải tự mình dò dẫm, cuộc sống sẽ bắt đầu một cú nhảy mới vào những tầng sâu thẳm của chốn vô định. Cuộc sống sẽ lại trở thành một chuyến phiêu lưu. Cuộc sống sẽ lại là hành trình tràn ngập niềm vui khám phá những sự kiện mới, chân lý mới, lãnh thổ mới, những đỉnh cao hạnh phúc mới.

Và chỉ bằng cách trở thành người mạo hiểm, bạn mới nhìn thấy khuôn mặt mới của Thượng đế – khuôn mặt ấy sẽ chân thật hơn rất nhiều so với khuôn mặt cũ bởi vì nó trưởng thành hơn rất nhiều so với khuôn mặt cũ.

Nếu Nietzsche gặp Phật, hẳn Phật sẽ hoàn toàn đồng ý. Hẳn Thượng đế sẽ nói: “Ngươi nói đúng. Thượng đế chết rồi, Thượng đế của đám đông. Nhưng có một phiên bản khác, phiên bản của những người giác ngộ. Thượng đế của họ không phải là một cá nhân, Thượng đế của họ vốn dĩ là cuộc sống. Và làm sao cuộc sống có thể chết được? Cây cối vẫn còn xanh, chim chóc vẫn còn reo ca, mặt trời vẫn ở đó, đêm vẫn thơ mộng, tình yêu vẫn tràn đầy. Làm sao Thượng đế có thể chết được?”.

Thượng đế của sự hiện hữu không bao giờ chết. Thượng đế của khái niệm phải chết nhiều lần. Mỗi lần con người trưởng thành, khái niệm cũ phải bị loại bỏ.

***

Nietzsche có quá nhiều điều để nói đến mức không thể đi sâu vào chi tiết của những lý lẽ và cách thức để ông ấy đi đến kết luận đó – ông ấy chỉ đơn giản viết ra kết luận, và đó là một kết luận mang tính cách ngôn. Rồi ông chuyển sang chủ đề khác; và cứ theo cách như vậy.

Nhưng tôi yêu cách viết của ông ấy. Viết như vậy mới là viết. Nếu mọi người đủ thông minh, bạn không cần phải kiểm tra hết tất cả các lý lẽ trước khi đưa ra kết luận; chỉ cần kết luận là đủ. Nếu thông minh và nhạy bén, họ sẽ hiểu ngay các lý lẽ trước đó mà bạn không cần phải trưng ra. Không cần thiết!

Nietzsche không viết cho trẻ con, ông ấy nghĩ mình đang viết cho các nhà triết học. Nhưng ông ấy đã nhầm: những nhà triết học đó cũng chưa đủ trưởng thành. Họ muốn có cả quá trình. Họ không thể nhìn thấy ngay toàn bộ quá trình trong kết luận đó; và ông ấy phải nói quá nhiều đến mức không thể đi sâu vào toàn bộ quá trình. Trong mỗi chiều hướng và phương diện, ông ấy đang chạm đến các nền móng.

Nhưng bất cứ điều gì Nietzsche nói đều chỉ ở dạng hạt giống. Do đó, lẽ tự nhiên là nó sẽ mất cả trăm năm… và giờ đây, mọi người có thể nhìn lại người đàn ông này.

Tôi dành tình yêu vô hạn cho Friedrich Nietzsche, với lòng trắc ẩn sâu sắc, bởi vì người đàn ông này đã chịu đựng cả đời chỉ vì một lý do đơn giản là ông ấy vẫn là một nhà tư tưởng và chưa bao giờ vượt ra khỏi các suy nghĩ; bằng không, ông ấy đã không phải chịu đau khổ.

Đúng ra ông ấy nên ở phương Đông, bởi vì ở phương Đông, bạn rất khó tránh thiền. Sớm muộn gì bạn cũng phải tình cờ bắt gặp nó, và nhất là một nhà tư tưởng lớn như Nietzsche. Nếu có được đặc tính thiền, hẳn ông ấy đã mang đến cho thế giới thêm nhiều báu vật nữa, và ông ấy đã không phải chịu nhiều đau khổ đến thế. Hẳn ông ấy sẽ không cho người khác cơ hội được nói rằng những gì ông ấy viết đều là điên rồ. Sự hóa điên của ông ấy trở thành bằng chứng để người ta khẳng định rằng ông ấy bị điên ngay từ đầu; mọi thứ chỉ là lớn dần, lớn dần, lớn dần và cuối cùng là vượt quá sức chịu đựng.

Chúng ta học được nhiều điều từ Friedrich Nietzsche.

Đối với những ai quan tâm đến Nietzsche, tôi muốn họ hiểu rằng họ không nên bỏ lỡ thiền như cách Nietzsche đã bỏ lỡ; bằng không, họ sẽ trở thành những nhà trí thức vĩ đại, nhưng bên trong trống rỗng, không có cội rễ, không có nền tảng vững chắc.

Và nguy cơ phát điên luôn có ở đó, bởi vì khi tâm trí phát triển hết công suất, nó chỉ có thể dẫn đến sự điên loạn, không có cách nào khác. Nếu tâm trí được phát triển trọn vẹn, người đó sẽ hóa điên, trừ khi anh ta đồng thời phát triển cả vô trí, và vô trí sẽ trở thành nền tảng của anh ta. Khi đó, anh ta có thể sử dụng tâm trí bao nhiêu tùy thích, nó sẽ không để lại dấu vết nào.

Cho nên, đây là thông điệp mà tôi muốn gửi đến những người yêu mến Nietzsche: họ không nên trở thành những nhà trí thức thuần túy. Trước khi đến với Nietzsche, họ cần sự tập trung tốt vào thiền; rồi Nietzsche mới có thể là niềm vui lớn. Chính sự hiểu biết của ông ấy có thể giúp bạn hiểu tường tận về những thứ luôn bị những đám mây vần vũ che khuất.

Những người nệ cổ không muốn những đám mây bị loại bỏ, bởi vì những đám mây này đang giúp họ, để họ có thể tiếp tục nói những gì họ muốn và tiếp tục bóc lột mọi người, biến mọi người thành nô lệ.

Nietzsche có thể là một sự tự do vĩ đại. Nhưng không có thiền, đó là một mối nguy hại lớn.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • More pages
  • 25
  • Sau