Pythagoras là bậc thầy tìm kiếm chân lý. Ông ấy đã đặt cược tất cả những gì mình có cho cuộc tìm kiếm của bản thân. Ông ấy tìm đến mọi chân trời góc biển, gần như khắp thế giới, để tầm sư học đạo. Từ Hy Lạp, ông ấy đến Ai Cập trong nỗ lực tìm kiếm vùng Atlantis đã mất cùng với những bí mật bị chôn vùi của châu lục này.
Tại Ai Cập, thư viện Alexandria vẫn còn nguyên vẹn. Nơi này vẫn còn lưu giữ tất cả những bí mật của quá khứ. Đây là thư viện lớn nhất từng được xây dựng trên trái đất này; về sau, nó đã bị phá hủy bởi một kẻ cuồng tín. Thư viện Alexandria lớn đến mức khi bị cháy, trong suốt sáu tháng, lửa vẫn âm ỉ.
Chỉ hai mươi lăm thế kỷ trước Pythagoras, một châu lục lớn – Atlantis – đã biến mất trong lòng đại dương. Đại dương này có tên là Atlantic (Đại Tây Dương) cũng bởi vì chính tên gọi của châu lục Atlantis.
Atlantis là châu lục cổ nhất trái đất, và nền văn minh ở đây đã đạt đến đỉnh cao nhất. Nhưng bất cứ khi nào một nền văn minh đạt đến đỉnh cao, nó sẽ gặp nguy hiểm: đó là nguy cơ tan rã, nguy cơ tự sát.
Nhân loại cũng đang đối mặt với một kiểu nguy hiểm tương tự. Khi con người trở nên đầy quyền lực, anh ta không biết làm gì với nó. Khi quyền lực quá nhiều và sự hiểu biết quá ít, quyền lực luôn bộc lộ nguy hiểm. Atlantis không bị nhấn chìm dưới đáy đại dương bởi bất kỳ tai ương nào. Trên thực tế, nó giống hệt những gì đang diễn ra hiện nay: chính là ở con người muốn nắm quyền chế ngự thiên nhiên. Atlantis bị nhấn chìm bởi nguồn năng lượng nguyên tử – chính con người đã tự sát. Nhưng tất cả các kinh sách và các bí mật của Atlantis vẫn còn được lưu giữ tại thư viện Alexandria.
Khắp thế giới có vô số giai thoại, câu chuyện về trận Đại hồng thủy. Những câu chuyện này đều bắt nguồn từ việc Atlantis bị nhấn chìm. Tất cả những câu chuyện này – trong Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, Hindu – đều nhắc đến một trận Đại hồng thủy từng xuất hiện một lần và phá hủy gần như toàn bộ nền văn minh. Chỉ có một vài người lão luyện còn sống. Noah là một người lão luyện, một bậc thầy vĩ đại, và con thuyền của ông ấy là một biểu tượng.
Một vài người trốn thoát được thảm họa đó. Cùng với họ, tất cả những bí mật mà nền văn minh đã đạt được cũng sống sót theo. Chúng được lưu giữ tại thư viện Alexandria.
Pythagoras sống ở Alexandria trong nhiều năm. Ông ấy nghiên cứu và bắt đầu làm quen với các trường phái thần bí của Ai Cập, đặc biệt là các bí ẩn về thần Hermes. Về sau, ông ấy đến Ấn Độ, bắt đầu tìm hiểu về tất cả những gì mà các giáo sĩ của xứ sở cổ xưa này đã khám phá, tất cả những gì mà Ấn Độ đã biết về thế giới nội tâm của con người.
Suốt nhiều năm, ông ấy sống tại Ấn Độ, về sau ông ấy đến Tây Tạng và Trung Hoa. Đó là thế giới đã biết. Cả cuộc đời mình, ông ấy là người tìm kiếm, là người hành hương, đi tìm kiếm triết lý – triết lý theo đúng nghĩa đen của từ này: tình yêu minh triết. Ông ấy là một người say mê, là một nhà triết học, không phải theo nghĩa hiện đại của từ này mà theo một nghĩa rất cũ, lâu đời. Bởi vì một người say mê không chỉ nghiên cứu, suy ngẫm về chân lý mà còn phải tìm kiếm, chấp nhận rủi ro, dám mạo hiểm.
Chân lý giống như là người tình. Làm sao bạn có thể chỉ nghĩ về nó? Bạn phải được kết nối bằng trái tim với người mà mình yêu thương. Cuộc tìm kiếm không thể chỉ có trí thông minh; nó phải nằm sâu trong trực giác. Có lẽ, bạn cần đến trí thông minh khi bắt đầu, nhưng chỉ vào lúc bắt đầu thôi. Khởi điểm, hành trình đó cần đến trí thông minh, nhưng cuối cùng nó phải chạm đến tận sâu trong chính bản thể của bạn.
Pythagoras là một trong những người đàn ông hào phóng nhất, tự do, dân chủ nhất, công bằng và cởi mở nhất. Ông ấy được cả thế giới ngưỡng mộ. Từ Hy Lạp đến Trung Hoa, ông ấy đều được tôn kính. Pythagoras được mọi trường phái thần bí tiếp nhận và được chào đón ở khắp nơi. Tên tuổi của ông ấy được biết đến ở khắp mọi vùng đất. Bất cứ nơi nào Pythagoras đến, ông ấy đều được hân hoan chào đón.
Ngay khi đã giác ngộ, ông ấy vẫn tiếp tục tìm kiếm những bí mật bị che giấu, vẫn tiếp tục xin được bắt đầu với những trường phái mới. Ông ấy nỗ lực để hiểu chân lý bằng nhiều khả năng thông thường nhất có thể. Ông ấy muốn biết mọi khía cạnh, mọi phương diện của sự thật. Trong cuộc tìm kiếm của Pythagoras, ông ấy sẵn sàng học hỏi từ mọi người. Ông ấy là một học trò tuyệt vời. Ông ấy luôn cởi mở và học hỏi đến cùng.
Toàn bộ nỗ lực của Pythagoras – đồng thời là nỗ lực to lớn vào thời bấy giờ – là đi từ Hy Lạp đến Trung Hoa. Đó là một hành trình hiểm nguy, đầy gian khó; nó không dễ dàng như ngày nay. Vào thời đó, mọi thứ không đơn giản như vậy. Đó thật sự là một cuộc mạo hiểm; việc di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác phải mất nhiều năm.
Vào thời điểm khi trở về quê hương, Pythagoras đã rất già. Tuy nhiên, những người tìm kiếm chân lý đã tìm đến bên ông và một trường phái vĩ đại ra đời. Và, như vốn dĩ vẫn xảy ra, xã hội bắt đầu gây khó khăn cho ông ấy, cho trường phái và các đồ đệ của ông ấy. Suốt cuộc đời mình, Pythagoras đã tìm kiếm triết lý vĩnh cửu, và ông ấy đã tìm thấy nó! Ông ấy đã tập hợp tất cả những mảnh ghép để kết nối thành một thể thống nhất hài hòa, cân đối. Nhưng ông ấy không được phép thực hiện chi tiết; ông ấy không được phép giảng dạy cho người khác.
Người ta gây khó dễ cho Pythagoras từ nơi này đến nơi khác. Nhiều âm mưu đã được vạch ra. Ông ấy gần như không thể truyền dạy tất cả những gì mình đã thu thập được. Ông ấy sở hữu một kho báu đồ sộ, trên thực tế là chưa có ai từng sở hữu một kho báu như của Pythagoras. Nhưng đây chính là sự ngu ngốc của loài người, và nó vẫn luôn như thế. Người đàn ông này đã làm điều gì đó gần như không thể: ông ấy đã bắc cầu giữa phương Đông và phương Tây. Ông ấy chính là chiếc cầu nối đầu tiên. Ông ấy đã tìm cách hiểu về tâm trí phương Đông sâu sắc như tâm trí phương Tây.
Ông ấy là người Hy Lạp. Ông ấy được nuôi dưỡng bằng logic Hy Lạp cùng với cách tiếp cận khoa học của người Hy Lạp, và rồi ông ấy đến phương Đông. Và ở đó, ông ấy học về cách hiểu qua trực giác. Rồi ông ấy học cách trở thành một nhà thần bí. Bản thân ông ấy là một nhà toán học vĩ đại được thế giới công nhận. Và việc một nhà toán học trở thành một nhà thần bí là một cuộc cách mạng, bởi vì đây là hai cực đối lập.
Pythagoras là người đầu tiên nỗ lực đạt đến điều không thể, và ông ấy đã thành công! Ở Pythagoras, phương Đông và phương Tây trở thành một. Ông ấy là một thể thống nhất trọn vẹn của những cực đối lập. Trí tuệ tuyệt đỉnh và trực giác thâm sâu. Pythagoras là đỉnh cao, đỉnh cao sáng chói, và cũng là thung lũng sâu thẳm. Đó là một sự kết hợp vô cùng hiếm có.
Nhưng nỗ lực cả đời của ông ấy đã bị phá hủy bởi những kẻ ngu ngốc, bởi đám đông xoàng xĩnh. Chỉ còn sót lại vài câu thơ và những câu thơ này cũng chỉ đủ để ghi trên một tấm bưu thiếp. Đây là tất cả những gì còn lại của người đàn ông vĩ đại đó. Và nó cũng không phải do chính ông ấy viết ra; dường như tất cả những gì ông ấy viết đều đã bị tiêu hủy.
Vào ngày Pythagoras chết, hàng ngàn đồ đệ của ông ấy bị thảm sát, bị thiêu sống. Chỉ có một đồ đệ duy nhất trốn thoát được, người ấy tên là Lysis. Và người này trốn thoát không phải vì sợ chết mà chỉ muốn cứu lấy lời dạy của thầy. Cuốn sách Golden verses of Pythagoras được viết bởi Lysis, đồ đệ duy nhất còn sống sót.
Toàn bộ trường phái bị thiêu trụi, hàng ngàn đồ đệ bị mưu sát và phanh thây. Và tất cả những gì Pythagoras đã góp nhặt được trong các cuộc hành trình của mình – những kho báu vĩ đại, những kinh sách vĩ đại từ Trung Hoa, Ấn Độ, Tây Tạng, Ai Cập, những công trình qua nhiều năm tích lũy – đã bị thiêu trụi.
Lysis có viết một vài bài thơ. Theo truyền thống cổ xưa thì một đồ đệ thực sự sẽ không có tên gọi nào khác ngoài tên của thầy, những bài thơ này không được gọi là Lysis’ verses, chúng được gọi là Golden verses of Pythagoras. Người này không viết tên mình lên những bài thơ.
Pythagoras chính là thử nghiệm đầu tiên về việc tạo ra sự tổng hợp. Hai mươi lăm thế kỷ đã trôi qua kể từ thời điểm đó và chưa có ai khác nỗ lực làm điều tương tự một lần nữa. Chưa có ai trước đó và cũng chưa có ai sau đó. Việc này cần đến một tâm trí vừa có tính khoa học vừa có tính thần bí. Đó là một hiện tượng hiếm thấy, chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra.
Đã có những nhà thần bí vĩ đại – Phật, Lão Tử, Zarathustra. Và đã có những nhà khoa học vĩ đại – Newton, Edison, Einstein. Nhưng thật khó để tìm thấy một người cảm thấy thoải mái với cả hai thế giới, Pythagoras chính là kiểu người đó, tự mình là một đẳng cấp. Ông ấy không thể bị phân loại bởi bất kỳ ai.
***
Triết lý của Pythagoras được chia thành ba phần, gồm: chuẩn bị (preparation), thanh lọc (purification), hoàn thiện (perfection).
Chuẩn bị có nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng, bước vào trạng thái sẵn sàng, có sẵn, để mở. Chuẩn bị có nghĩa là tạo ra cơn khát, khát khao chân lý. Chuẩn bị có nghĩa là không chỉ hiếu kỳ, không chỉ thấy thích thú muốn biết chân lý là gì, mà còn phải dấn thân vào cuộc tìm kiếm chân lý đó. Không chỉ là người quan sát đứng bên ngoài mà là người tham gia vào bên trong.
Chuẩn bị là phần giới thiệu, nhằm tạo ra cơn khát trong bạn. Bất cứ khi nào bạn đến gần với một bậc thầy, việc đầu tiên người đó trao cho bạn là cơn khát mãnh liệt. Người đó sẽ trao cho bạn sự khao khát mãnh liệt; người đó sẽ gieo hạt giống khao khát.
Có lẽ bạn tìm đến thầy nhằm tìm kiếm sự mãn nguyện, có lẽ bạn tìm đến ông ấy để được an ủi, nhưng người đó sẽ khiến bạn bùng cháy, như một ngọn lửa, với khao khát mới mà bạn chưa từng mơ đến, về những điều mà bạn chưa từng nhận biết. Có lẽ nó lẩn trốn đâu đó ở những góc khuất trong bản thể của bạn, hoặc ẩn mình ở một nơi sâu kín nào bên dưới, ông ấy sẽ mang nó ra ánh sáng, ông ấy sẽ thổi bùng nó thành một ngọn lửa lớn. Ông ấy sẽ rót hết năng lượng của ông ấy vào bạn, để khiến bạn thật khát khao, thật bất mãn đến mức bắt đầu cuộc tìm kiếm và bạn trở nên sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro, đến mức bạn quên hết mọi khát khao còn lại, đến mức bạn dồn hết mọi khát khao vào một dòng, đến mức khát khao duy nhất mà bạn mong mỏi ngày đêm sẽ trở thành chân lý – hoặc là Thượng đế, hoặc nirvana. Đây chỉ là những tên gọi khác nhau cho cùng một hiện tượng.
Chuẩn bị có nghĩa là môn đồ được đánh thức, thức tỉnh để nhận ra sự thật rằng chúng ta đang tồn tại trong bóng tối và cần phải tìm thấy ánh sáng, rằng chúng ta đã lãng phí cuộc đời mình, rằng đây không phải là cách sống đúng. Chừng nào người đó chưa bắt đầu di chuyển hướng về Thượng đế, cuộc sống vẫn cứ trống rỗng, vẫn cứ bất lực. Môn đồ đó phải sửng sốt, phải run rẩy, phải bị lôi ra khỏi giấc mơ của anh ta – giấc mơ tiền bạc, quyền lực, địa vị – và anh ta phải được trao cho một giấc mơ mới, giấc mơ tối thượng, trong đó tất cả các giấc mơ khác đều tiêu tan. Giấc mơ tối thượng là biết được chân lý, biết được mình đến từ đâu, biết được khởi nguồn và biết được mục tiêu mà mình đang đi tới.
Thứ hai là thanh lọc. Khi nảy sinh khao khát, bạn phải được thanh lọc, bởi vì để đạt đến chân lý tối thượng, bạn sẽ phải từ bỏ những gánh nặng không cần thiết, những hành lý mà bạn đã luôn mang vác. Bạn đã mang vác nó bởi vì bạn nghĩ rằng nó rất có giá trị. Hệ thống của bạn phải được lọc sạch tất cả các chất độc hại mà bạn đã hấp thụ trên đường đi. Và chúng ta đã uống thuốc độc, nhiều loại độc dược. Tôn giáo thường mang định kiến. Chúng khiến bạn bị ràng buộc vào xã hội, vào các ước định của xã hội.
Thanh lọc có nghĩa là bạn phải từ bỏ toàn bộ các ước định, các lý tưởng, các định kiến, các khái niệm, các triết lý… tất cả những gì bạn đã được dạy bảo. Bạn phải trở thành một phiến đá sạch, một tabula rasa*. Bạn phải trở nên hoàn toàn sạch sẽ. Chỉ khi bạn hoàn toàn sạch sẽ, khi không còn gì được viết lên bạn, Thượng đế mới có thể viết được. Chỉ khi bạn tuyệt đối im lặng, mọi lời lẽ mà xã hội đã trao cho bạn đều biến mất, Thượng đế mới có thể nói với bạn. Chân lý chỉ thì thầm vào tai bạn những điều bí ẩn của nó khi bạn tuyệt đối trống rỗng – sự trống rỗng chính là thanh lọc, là thuần khiết.
* Tabula rasa có nghĩa là một tấm thẻ gỗ nhẵn bóng hay tấm bảng trắng, thuật ngữ được dùng trong lý thuyết về nhận thức luận để chỉ việc con người sinh ra chưa hề biết gì về thế giới, còn trắng trong và toàn bộ nguồn tri thức được xây dựng dần dần từ trải nghiệm và nhận thức về thế giới bên ngoài.
Thanh lọc là phần được tẩy sạch. Con người phải từ bỏ nhiều thứ. Trên thực tế, chân lý không cách bạn quá xa, chỉ vì bạn đã tích lũy quá nhiều thứ quanh mình. Bạn đã phủ nhiều lớp quanh mình, nhiều tính cách quanh mình, bạn đeo nhiều chiếc mặt nạ. Do đó, bạn không thể nhìn thấy khuôn mặt thật. Tất cả những chiếc mặt nạ này phải bị gỡ xuống. Bạn phải trở nên nguyên bản, chân thật như chính bạn, hoàn toàn trần trụi.
Thanh lọc có nghĩa là ngừng che giấu, ngừng dối trá, ngừng giả tạo.
Thứ ba là hoàn thiện. Khi bạn không còn giả dối, khi bạn đã từ bỏ mọi độc dược tích góp trên đường, khi bụi đã được lau sạch khỏi gương, sự hoàn thiện sẽ tự nó bắt đầu xuất hiện.
***
Pythagoras là người đầu tiên đặt ra và sử dụng từ “triết học” (philosophy) và “nhà triết học” (philosopher). “Triết học” có nghĩa là tình yêu minh triết, còn “nhà triết học” có nghĩa là người bạn thông thái.
Trước Pythagoras, một số từ khác đã được sử dụng với cùng mục đích. Đối với từ “triết học”, từ “sophia” được sử dụng – “sophia” có nghĩa là sự thông thái; và đối với từ “nhà triết học”, từ “sophos” được sử dụng – “sophos” có nghĩa là người thông thái, nhà hiền triết. Đây là những từ ngữ đẹp, nhưng chúng đã thất bại, đã bị gắn nhầm đối tượng. Chúng đã thất bại vào những lúc không may. Từ ngữ cũng có ngày tốt và ngày xấu, những ngày huy hoàng và những ngày tủi nhục.
Sophos là một từ đẹp – nhà hiền triết. Hãy nhớ, nhà hiền triết không có nghĩa là thánh nhân. Thánh nhân ngược lại với kẻ tội đồ. Thánh nhân đã chọn trở thành người có đạo đức. Kẻ tội đồ chọn những gì trái với đạo đức. Họ là hai cực đối lập, như âm và dương. Thánh nhân không thể tồn tại nếu thiếu kẻ tội đồ; kẻ tội đồ không thể tồn tại nếu thiếu thánh nhân – họ là đối tác, chỉ có thể cùng tồn tại. Một thế giới không có thánh nhân cũng sẽ là thế giới không có kẻ tội đồ. Nếu bạn thật sự muốn những kẻ tội đồ biến mất khỏi thế giới này, hãy để các thánh nhân biến mất trước – và ngay lập tức, sẽ không còn tội đồ.
Sự tồn tại của thánh nhân tạo ra kẻ tội đồ. Và càng kính trọng thánh nhân, bạn sẽ càng lên án kẻ tội đồ, và mối rạn nứt đó sẽ càng ngày càng lớn. Và thật mỉa mai là họ tồn tại cùng nhau, như hai mặt của cùng một đồng xu. Họ không khác nhau, logic của họ không khác nhau – chỉ có lựa chọn là khác nhau. Một bên chọn phần đêm của cuộc sống, còn một bên chọn phần ngày của cuộc sống. Nhưng cuộc sống bao gồm cả ngày lẫn đêm; nó không chỉ có ngày hoặc chỉ có đêm. Cả hai là hai nửa của một tổng thể, do đó cả hai đều đau khổ.
Những kẻ tội đồ đau khổ bởi vì họ cứ mãi bỏ lỡ vẻ đẹp của đức hạnh, vẻ đẹp của phần mà họ không chọn. Còn thánh nhân cũng đau khổ bởi vì họ đã kìm nén điều gì đó không thể hủy diệt được, thứ vô cùng thiết yếu trong bản thể của họ.
Nếu nhìn sâu vào phần thánh nhân của bạn, bạn sẽ tìm thấy kẻ tội đồ đang ẩn nấp đâu đó trong vô thức. Và tương tự với kẻ tội đồ, hãy nhìn sâu vào và bạn sẽ tìm thấy một thánh nhân đang ẩn nấp đâu đó trong vô thức. Tâm thức của thánh nhân là vô thức của kẻ tội đồ, còn tâm thức của kẻ tội đồ là vô thức của thánh nhân.
Nhà hiền triết không phải là thánh nhân, cũng không phải là kẻ tội đồ. Ông ấy không là ai cả. Ông ấy không chọn ai cả.
Ông ấy chấp nhận tất cả; ông ấy là trọn vẹn, ngày cũng như đêm. Ông ấy đã từ bỏ việc không ngừng lựa chọn cái tôi. Ông ấy chỉ đơn giản chấp nhận bất cứ điều gì. Ông ấy sống trong sự thật trần trụi, cho dù đó là gì ông ấy đều không can thiệp vào dòng chảy của cuộc sống.
Nhà hiền triết là một hiện tượng vô cùng tuyệt đẹp bởi vì sự nguyên vẹn của người đó. Nhà hiền triết là một vòng tròn hoàn hảo. Ông ấy chứa đựng tất cả, ông ấy không từ chối điều gì. Đó chính là ý nghĩa của sophos; đó là một từ đẹp. Nhưng nó đã đánh mất danh tiếng của mình. Nó thất bại bởi vì nó còn là một từ nguy hiểm: có thể dễ dàng được sử dụng bởi những kẻ xảo trá.
Bởi vì nhà hiền triết là nguyên vẹn, ông ấy là cả hai, nên giờ kẻ tội đồ có thể sử dụng nó. Người này có thể nói: “Ta là cả hai. Ta không lựa chọn dù đó là gì…”. Giờ thì kẻ tội đồ có thể giả làm nhà hiền triết. Hắn ta có thể nói: “Bởi vì nó là thế, khoảnh khắc này tôi giống như thế này. Điều này đang xảy ra, tôi có thể làm được gì? Tôi đã từ bỏ lựa chọn. Tôi đã chấp nhận cuộc sống với sự trọn vẹn của nó”.
Giờ đây, nhà hiền triết là một hiện tượng hoàn toàn khác với con người xảo trá này. Người này sử dụng lời lẽ và lời lẽ đó kết nối với tâm trí xảo trá. Nó trở thành một lớp ngụy trang để làm bất cứ điều gì bạn muốn. Tận sâu bên trong vẫn có lựa chọn, nhưng bạn có thể giả vờ ngoài mặt rằng mình không phải là người kén chọn, và bạn sống trong sự tỉnh thức không lựa chọn. Đó là một sự xảo trá rất tinh vi.
Do đó, từ “sophos” rơi ra khỏi bệ đỡ của nó và trở thành “sophist”. Từ “sophist” là một từ xấu xí, nó có nghĩa là “kẻ giả vờ”. Nó có nghĩa là ai đó đang giả làm nhà hiền triết nhưng thực chất không phải, ai đó đang giả làm nhà hiền triết nhưng thực tế còn không phải là một thánh nhân. Người đó chỉ là một kẻ tội đồ nhưng đã tìm thấy được cách để hợp lý hóa việc mình vẫn là kẻ tội đồ.
Kẻ sát nhân có thể nói: “Tôi có thể làm được gì? Thượng đế muốn giết người thông qua tôi”. Tên trộm có thể nói: “Tôi có thể làm được gì? Đó là cách Thượng đế ra lệnh cho tôi. Tôi chỉ tuân lệnh thôi”. Và thật khó để tranh luận với anh ta; anh ta có lý do vô cùng hợp lý.
Do đó, sophos thất bại và trở thành sophist. Và điều tương tự cũng xảy ra với sophia: sự thông thái không phải là kiến thức, nhưng chúng giống nhau. Kiến thức chỉ làm ra vẻ thông thái; nó chỉ là cực đối lập với sự thông thái. Kiến thức luôn được vay mượn, và bởi vì được vay mượn nên về cơ bản nó không thật.
Sự thông thái nảy sinh trong bạn. Nó là quá trình bung nở của bạn, nó là hương thơm của bạn. Nó là quá trình tự hiểu, tự biết.
Bạn trở nên tỏa sáng trong đêm; bạn đạt đến sự hiện diện vững chắc. Bạn có trọng tâm, bạn cảm thấy bén rễ, hợp nhất; bạn không còn là một mảnh ghép, bạn là một.
Sự thông thái là một cuộc cách mạng trong bản thể của bạn, kiến thức chỉ là thứ rác rưởi. Bạn có thể thu thập kiến thức từ người khác; nó không thay đổi bạn, bạn vẫn là bạn. Dĩ nhiên, bạn trở nên thật lộng lẫy, bạn có nhiều chiếc mặt nạ xinh đẹp, nhưng khuôn mặt thật của bạn vẫn như cũ. Bạn cứ mãi tích lũy kiến thức, bộ nhớ của bạn trở nên ngày càng giàu có, nhưng bản thể của bạn vẫn nghèo nàn. Kiến thức có thể giả vờ mình thông thái; cả hai đều sử dụng cùng một ngôn ngữ. Sophia là sự thông thái. Sự thông thái diễn ra ngay bên trong nội tâm của bản thể. Sự thông thái không bao giờ là vay mượn, nó không có liên quan gì đến kiến thức, thông tin, không liên quan gì đến kinh sách, học thuyết, các hệ thống tư tưởng. Nó là trải nghiệm của riêng bạn, cá nhân và nguyên bản. Bạn đã biết. Bạn đã đến. Do đó, nó là sophos, nó là sự thông thái.
Nếu bạn chỉ đơn giản lặp lại trải nghiệm của người khác, đó là sophistry, đó là kiến thức – không còn dùng được nữa, vô nghĩa, chẳng là gì ngoài những câu nói lắp bắp. Bạn có thể dùng nó để trang trí cho mình, bạn có thể củng cố cái tôi của mình thông qua nó, nhưng bạn sẽ không biết được sự thật.
Sophos thất bại và xuất hiện một hiện tượng xấu xí – sophist. Sophia thất bại và sophistry đến thay thế. Sophistry (phép ngụy biện) là tranh luận, không quan tâm đến sự thật. Nó chỉ là một kiểu phân tích thuộc ngôn ngữ, dĩ nhiên là logic, hợp lý, nhưng không mang tính trực giác, không mang tính trải nghiệm.
Bạn có thể tiếp tục tranh luận và phỏng đoán, nhưng cho dù có tranh luận hàng ngàn năm, bạn sẽ không đến được với sự thật, bởi vì sự thật không bao giờ là một kết luận, một kết luận của bất kỳ quy trình logic nào. Sự thật không phải là thứ được phát minh bởi logic: sự thật phải được khám phá bằng tình yêu. Con đường đến với sự thật không phải bằng logic mà bằng tình yêu. Sự thông thái là tình yêu, kiến thức là logic.
Và bất cứ khi nào logic bắt đầu làm ra vẻ “Tôi là cánh cửa, tôi là con đường đến với sự thật”, sự thật sẽ biến mất khỏi thế giới.
***
Pythagoras phải đặt ra những từ mới, và ông ấy đã tạo ra những từ thật đẹp. “Philosophy” có nghĩa là tình yêu minh triết, không phải tình yêu kiến thức. Hãy nhớ, đó là tình yêu minh triết. Kiến thức thuộc về trí tuệ, còn sự thông thái thuộc về trực giác. Kiến thức thuộc về cái đầu, sự thông thái thuộc về trái tim. Do đó mới có tình yêu, không phải logic mà là tình yêu, không phải tính toán mà là sự trong sáng, không phải xảo trá mà là trí thông minh, không phải khả năng trí óc mà là khả năng hiểu biết.
Và ông ấy cũng đã tạo ra từ “philosopher”, một người bạn của thông thái. Bạn đã từng quan sát chưa? Bất cứ khi nào bắt đầu tranh luận với ai đó, bạn quan tâm đến cái tôi của mình nhiều hơn là sự thật. Đôi khi, bạn thậm chí nhìn thấy cả chỗ sai trong tranh luận của mình nhưng bạn không chấp nhận bởi vì nó làm tổn thương cái tôi của bạn. Bạn tranh luận bởi vì đó là ý kiến của bạn, không phải nó đúng. Bạn phản bác ý kiến của người khác bởi vì nó là ý kiến của anh ta, không phải vì nó không đúng. Tranh luận nảy sinh không phải vì sự thật mà vì hành trình của cái tôi. Khi đó, nó sẽ là lời ngụy biện. Khi đó, nó sẽ là một hiện tượng rất xấu.
Bạn yêu một người phụ nữ, đó là một trải nghiệm tuyệt vời. Tình yêu giữa một người đàn ông và một người phụ nữ chứa đựng sự thật to lớn – một loại hương thơm của riêng nó, một kiểu hạnh phúc. Đó là một trong những bí ẩn kỳ diệu nhất của cuộc sống. Nhưng việc tìm đến gái mại dâm, nó không còn là điều kỳ diệu nữa. Về mặt thể xác thì giống nhau nhưng hoàn toàn khác nhau về tinh thần. Mại dâm là một hiện tượng xấu xí: người yêu thương của bạn phải là thứ gì đó thiêng liêng.
Triết học cũng giống như người yêu thương của bạn, còn sophistry (sự ngụy biện) chẳng khác nào kẻ mại dâm.
***
Pythagoras cũng giới thiệu từ “cosmos”. “Cosmos” có nghĩa là vũ trụ, trật tự, nhịp điệu, sự hòa hợp. Hiện hữu không phải là trạng thái hỗn loạn mà là một trật tự. Pythagoras đã có nhiều đóng góp cho tư tưởng của nhân loại, cho sự tiến hóa của con người. Tầm nhìn của ông ấy về một cosmos đã trở thành nền tảng cho nghiên cứu khoa học.
Khoa học chỉ có thể tồn tại nếu sự hiện hữu là một hệ thống hài hòa, trật tự. Nếu nó là một trạng thái hỗn loạn, sẽ không có cơ sở nào cho khoa học. Nếu các quy luật thay đổi mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc – có ngày nước bốc hơi ở 1000C, có ngày nước bốc hơi ở 5000C – nếu nước vận hành theo cách kỳ quái và không tuân theo trật tự nào, vậy làm sao có khoa học được?
Khoa học giả định rằng sự hiện hữu hoạt động theo cách nhất quán, hợp lý, rằng sự hiện hữu không bị điên, rằng nếu đi sâu vào bên trong sự hiện hữu, chúng ta sẽ tìm thấy các quy luật – và những quy luật này chính là chìa khóa cho mọi bí ẩn.
Điều này đúng với khoa học, nên cũng đúng với tôn giáo, bởi vì tôn giáo không là gì khác ngoài khoa học nội tâm. Khoa học bên ngoài được gọi là khoa học; còn khoa học bên trong được gọi là tôn giáo – nhưng cả hai chỉ có thể tồn tại trong một hệ thống hài hòa, trật tự.
Có những quy luật trong thế giới nội tâm. Những quy luật này đã được khám phá như là quy luật khoa học. Cả quy luật khoa học và quy luật tôn giáo đều không được phát minh. Sự thật là bạn không cần phải phát minh ra nó. Bất cứ thứ gì bạn phát minh ra đều không thật.
Sự thật phải được khám phá, không phải được phát minh. Einstein khám phá ra một quy luật; Patanjali cũng khám phá ra một quy luật; Newton khám phá ra lực hấp dẫn; Krishna khám phá ra sự duyên dáng. Cả hai đều là quy luật – một thuộc về trái đất, một thuộc về bầu trời; một thuộc về thế giới tất yếu, một thuộc về thế giới quyền lực; một thuộc về cái hữu hình, một thuộc về cái vô hình.
Chính trong tầm nhìn về một cosmos mà Pythagoras đã trở thành người tạo ra khái niệm khoa học của thế giới. Ông ấy là nhà khoa học đầu tiên bởi vì ông ấy đã cung cấp nền tảng của nó. Ý nghĩ của ông ấy về cosmos phải được hiểu bởi vì nếu không hiểu, bạn sẽ không thể nào hiểu được ông ấy đang nói về điều gì.
Thế giới nội tâm, thế giới của tinh thần, tuân theo các quy luật nhất định, và những quy luật này không thay đổi, chúng là bất diệt. Những quy luật này không theo nguyên tắc thời gian, chúng vượt lên trên thời gian. Thời gian sẽ vận hành bên trong những quy luật này. Nếu muốn làm điều gì đó ở thế giới bên ngoài, bạn cần phải biết cách vận hành của sự hiện hữu bên ngoài, bởi vì nếu không biết cách vận hành của nó, bạn chắc chắn sẽ thất bại.
Thiên nhiên không có nghĩa vụ điều chỉnh theo bạn, bạn sẽ phải điều chỉnh theo thiên nhiên. Bạn chỉ có thể chiến thắng thiên nhiên khi điều chỉnh bản thân theo thiên nhiên. Bạn cũng có thể trở thành kẻ chinh phục, nhưng không chống lại thiên nhiên, phải theo thiên nhiên, đồng điệu với thiên nhiên. Bạn có thể trở thành bậc thầy của vương quốc nội tâm, nhưng không chống lại các quy luật mà phải hòa nhịp với các quy luật đó.
Chính nhờ tầm nhìn thần bí này – rằng thế giới không phải diễn ra ngẫu nhiên, không hỗn loạn, mà là một thế giới vô cùng hòa hợp, trật tự – mà Pythagoras đã khám phá ra nhiều điều cho những người tìm kiếm chân lý.
***
Đối với Pythagoras, khoa học là cuộc tìm kiếm chân lý trong thế giới khách quan, còn tôn giáo là cuộc tìm kiếm chân lý trong thế giới chủ quan. Do đó, khoa học và tôn giáo giống như hai cánh tay hoặc đôi cánh. Chúng không đối lập nhau mà bổ trợ cho nhau. Và thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu chúng ta lại được nhắc nhở về điều đó.
Nhà thờ, đền chùa và phòng thí nghiệm không nhất thiết phải là kẻ thù của nhau. Chúng nên tồn tại trong mối quan hệ bè bạn. Con người khi đó sẽ càng giàu có hơn. Lúc này, nếu chọn khoa học, anh ta sẽ trở nên giàu có bên ngoài và tiếp tục nghèo nàn bên trong. Nếu chọn tôn giáo, anh ta sẽ trở nên giàu có bên trong nhưng ngày càng nghèo nàn ở bên ngoài. Và cả hai trường hợp này đều xấu xí.
Phương Tây đã chọn khoa học; nó sở hữu tất cả của cải của thế giới, nhưng con người hoàn toàn lạc lối, cảm thấy vô nghĩa, muốn tự sát. Con người, khi nhìn vào bên trong, chẳng thấy gì ngoài sự trống rỗng. Thế giới nội tâm trở nên rất nghèo nàn ở phương Tây.
Ở phương Đông, tình huống ngược lại đã xảy ra: người ta chọn tôn giáo và chống lại khoa học. Thế giới nội tâm của họ ngày càng tĩnh lặng, phong phú, nhưng ở thế giới bên ngoài, họ đói khát, sắp chết – không có thực phẩm, không có thuốc men, không có đủ tiện nghi để sống một cuộc sống con người.
Đây chính là hậu quả của việc không nghe theo lời Pythagoras. Toàn bộ lịch sử nhân loại hẳn đã rất khác nếu người ta chịu lắng nghe Pythagoras, chịu hiểu ông ấy. Không cần phải phân biệt phương Đông là phương Đông, còn phương Tây là phương Tây. Không cần phải chọn là người theo chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm. Nếu cơ thể và tâm hồn có thể tồn tại cùng nhau – chúng có tồn tại cùng nhau bên trong bạn, bên trong mọi người – vậy sao chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không thể tồn tại cùng nhau? Chúng nên như thế! Một người phải vừa duy vật vừa duy tâm. Chọn lựa là chết. Không cần phải lựa chọn; bạn có thể có cả hai thế giới – bạn nên có cả hai thế giới; đó là quyền mà bạn có được từ lúc mới chào đời.