Nếu tình cờ gặp một người như Dionysius, bất cứ một học giả phương Đông nào cũng sẽ nghĩ rằng hẳn người này đã vay mượn từ phương Đông. Có vẻ như đó là một sự ngầm hiểu: rằng phương Đông độc quyền về tâm linh. Không có sự độc quyền ở đây. Phương Đông và phương Tây không thể tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào trong quá trình phát triển tâm linh của con người. Jesus có thể trở thành Phật ở Jerusalem, Lão Tử có thể trở thành Phật ở Trung Quốc, Dionysius có thể trở thành Phật ở Athens. Không cần phải vay mượn từ bất kỳ ai.
Đúng vậy, trong một cuộc nghiên cứu, người ta phát hiện ra một hiện tượng rất kỳ lạ: rằng bất cứ khi nào một nhà khoa học khám phá ra điều gì đó, thì gần như đồng thời nhiều người khác ở khắp nơi trên thế giới cũng phát hiện ra điều tương tự theo nhiều cách khác nhau. Albert Einstein từng nói: “Nếu tôi không khám phá ra thuyết Tương đối thì trong vòng hai năm, người khác cũng sẽ tìm ra nó”.
Sao chuyện này có thể xảy ra, rằng một nhà khoa học nào đó ở tận nước Nga xa xôi lại phát hiện ra một thứ gần như cùng thời điểm với một nhà khoa học khác đang làm việc tại Anh, Mỹ, hay thậm chí Ấn Độ, Nhật Bản, dù không hề biết về nhau, thậm chí không biết về sự tồn tại của nhau, không biết rằng người kia cũng đang nghiên cứu cùng vấn đề với mình?
Giờ thì mọi thứ càng trở nên rõ ràng, với tất cả những phát minh vĩ đại, mặc dù nỗ lực ban đầu đến từ cái tâm có ý thức, nhưng kết quả cuối cùng luôn đến từ sự vô thức. Và lớp sâu nhất của cái tâm vô thức thì mang tính tập thể. Nếu xét về cái tâm có ý thức, tôi khác với bạn, và bạn khác với tôi. Nhưng nếu đi sâu hơn một chút, chúng ta không thật khác nhau ở cái tâm vô thức. Nếu đi sâu thêm một chút nữa, bạn sẽ thấy rằng chúng ta thậm chí còn giống nhau ở sự vô thức tập thể.
Và các nhà thần bí nói rằng thậm chí còn có cái gì đó hơn cả sự vô thức tập thể; họ gọi nó là sự vô thức chung. Đó chính là cái trung tâm. Chúng ta đều gặp nhau ở cái trung tâm này và tất cả chúng ta là một. Tất cả những trực cảm vĩ đại đều đến từ cái trung tâm đó. Câu hỏi đặt ra chỉ là ai sẽ nhìn nhận theo hướng đó – người ấy sẽ có được trực cảm đầu tiên. Ngược lại, trực cảm bắt đầu xảy ra với nhiều người, những người này có thể không nhìn theo hướng đó nên họ sẽ bỏ lỡ cơ hội.
Trong một luận thuyết về vẻ đẹp phi thường, Theologia Mystica of St. Dionysius, Alan Watts cho rằng mọi người có xu hướng tin Dionysius đã đến phương Đông, hoặc nếu không thì hẳn một nhà thần bí phương Đông nào đó đã đến Athens. Vào thời của Dionysius, nhiều lữ khách phương Tây đã đến Ấn Độ. Với sự xuất hiện của Alexander Đại đế, nhiều bức tường thành đã bị hạ, nhiều cây cầu đã được dựng lên. Và điều này không chỉ diễn ra từ một phía: các nhà thần bí phương Đông cũng bắt đầu hướng tới phương Tây. Ngay cả các tu sĩ Kỳ Na giáo (Jain) đã đến Alexandria, đến Athens, đến cả những vùng đất xa xôi của thế giới. Các tu sĩ Kỳ Na giáo được nhắc đến trong các ghi chép của người Hy Lạp cổ đại là các gymnosophist, trong đó sophist có nghĩa là người tìm kiếm chân lý, còn gymno nghĩa là Jain (Kỳ Na giáo). Gymnosophist là tên gọi dành cho các nhà thần bí Kỳ Na giáo – những người đã thâm nhập vào Athens. Có cả hoạt động giao thương giữa Ấn Độ và Hy Lạp; do đó, cùng với sự xuất hiện của các nhà buôn, các hoạt động trao đổi tư tưởng cũng diễn ra thường xuyên hơn.
Alan Watts cũng cho rằng Dionysius đã đến Ấn Độ, bởi vì cách nói của ông ấy giống hệt phương Đông, những trực cảm mà ông tiết lộ cũng hệt phương Đông. Thậm chí những lời nói của Dionysius cũng khiến ta nghĩ đến Upanishads (Thánh kinh tối cổ của Ấn Độ). Cho nên, Watts nghĩ rằng hoặc Dionysius đã đến phương Đông hoặc ai đó từ phương Đông đã đến phương Tây, hoặc Dionysius đã có cơ hội tiếp cận với các nguồn ảnh hưởng từ phương Đông. Tuy nhiên, tôi không nghĩ theo hướng đó.
Bằng trải nghiệm và hiểu biết của riêng mình, tôi cho rằng chân lý xuất hiện ở nhiều nơi theo cách gần như tương tự. Lão Tử chưa từng đến Ấn Độ và không ai từ Ấn Độ đến gặp Lão Tử. Trung Quốc và Ấn Độ bị ngăn cách bởi dãy Himalaya hùng vĩ; không có bất kỳ hoạt động giao thương nào giữa Ấn Độ và Trung Quốc, không giao tiếp. Tuy nhiên, những gì Lão Tử nói lại quá giống với Upanishads, lại quá tương đồng với lời dạy của Đức Phật đến mức khiến nhiều người có xu hướng tin rằng hẳn đã có sự trao đổi, giao tiếp nào đó, hoặc là Đức Phật đã mượn của Lão Tử, hoặc Lão Tử đã mượn của Đức Phật.
Nhưng tôi nói với bạn rằng không ai vay mượn của ai, tất cả họ đều uống cùng một nguồn nước. Và khi bạn uống nước đại dương, dù là ở bờ biển Ấn Độ hay bờ biển Trung Hoa, chẳng có gì khác, nó vẫn luôn mặn như nhau. Chân lý cũng vậy, nó có cùng mùi vị, cùng hương thơm. Có lẽ có một vài khác biệt về ngôn ngữ trong cách thể hiện, nhưng điều đó cũng không đáng kể. Đôi khi, những khác biệt này cũng không còn nữa.
Dionysius là người Cơ Đốc giáo. Dionysius là một trong những hiện tượng tỏa sáng nhất. Khi đó còn có Meister Eckhart, St. Francis, Jacob Boehme và một vài người khác nữa, dĩ nhiên là không nhiều, bởi vì Cơ Đốc giáo đã trở thành một tôn giáo có tổ chức đến mức không có chỗ cho các nhà thần bí, hoặc nếu có thì họ phải hoạt động ngầm. Họ buộc phải làm như thế, không còn cách nào khác.
Chỉ có hai cách để không bị quấy rầy. Một là hoạt động ngầm hoặc trốn đến vùng sa mạc, núi non hẻo lánh nào đó. Hai là tồn tại như một tín đồ Cơ Đốc giáo thông thường, sử dụng ngôn ngữ Cơ Đốc giáo nhưng tiếp tục hoạt động bí mật. Đó là cách mà Dionysius đã làm.
Bạn sẽ bất ngờ khi biết rằng ông ấy là Giám mục đầu tiên của Athens. Hẳn ông ấy phải là một người có trí tuệ phi thường. Để trở thành giám mục của Athens nhưng vẫn xâm nhập vào đời sống tâm linh huyền bí như Đức Phật, Lão Tử, Zarathustra, hẳn ông ấy phải là người có trí tuệ phi thường.
Công trình của Dionysius không được công bố khi ông ấy còn sống. Hẳn ông ấy đã xoay xở để nó chỉ được công bố sau khi qua đời. Nếu tài liệu đó được công bố khi Dionysius còn sống, hẳn ông ấy đã bị trục xuất, bị tra tấn, hành hạ. Một người hiểu biết, một người không có ý định tự sát dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ không muốn bị quấy rầy một cách không cần thiết. Nếu điều đó là cần thiết, hẳn ông ấy đã chấp nhận nó. Nhưng ông ấy không muốn bị làm phiền; ông ấy không phải là kẻ thèm khát được tửvì đạo. Ông ấy không tự sát, không bạo lực với chính mình. Dionysius là một hiện tượng hiếm có: sống với Cơ Đốc giáo, giữ chức giám mục mà vẫn có thể đạt đến những đỉnh cao của tâm thức là một điều đáng ngợi khen. Hẳn ông ấy phải là người rất trí tuệ; ông ấy đã xoay xở rất tốt. Dionysius đánh lừa cả Vatican, đánh lừa cả các giáo hoàng. Công trình của ông được cho là về Cơ Đốc giáo, nhưng thật ra không phải. Nó chẳng có gì liên quan đến Cơ Đốc giáo. Hẳn Chúa Jesus sẽ đồng ý với điều này, nhưng tổ chức của con người thì không.