Trên thiên đường , tính từ trên xuống dưới có tổng cộng chín đẳng , trong đó lại phân thành ba cấp. Thượng cấp bao gồm thiên thần có sáu cánh Seraphim (Luyến thần), Cherubim (Minh thần), Thrones (Ngai thần), trung cấp gồm Dominion (Quản thần), Virtutes (Dũng thần), Potestates (Quyền thần), hạ cấp là Principatus (Lãnh thần), Archangeli (Tổng lãnh thiên thần), Angeli (Thiên thần).
Do sự tạo phản và sa ngã của các thiên thần, đã làm thay đổi toàn bộ cục diện, cho nên tình hình hiện nay như thế nào, cả Millea và hai người trung lập cũng không giải thích được nguyên cớ. Để có tài liệu tham chiếu, giống như bây giờ “hai anh em đụng mặt”, về cơ bản vẫn tuân theo cấp bậc ngày trước. Nếu tính theo như thế, Millea và Ngô là Dũng thần bậc hai của trung cấp, còn Voit từ trước luôn thấp hơn một bậc, là một vị Quyền thần.
Khi nói đến chính sự, rất nhanh chóng Voit nghiêm túc nói: “Sáng nay chúng tôi đã giết chết một con ác quỷ. Phải lâu lắm rồi chúng tôi chưa gặp những người hỗ trợ như vậy trên đường phố New York”.
Voit vừa dứt lời, Ngô lập tức tiếp lời một cách rất ăn ý: “Chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp riêng biệt, moi được một chút thông tin từ miệng hắn...”, anh ấy dừng lại một lúc.
“Vốn dĩ chúng tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ gặp được Millea, bây giờ cả tôi và Voit đều không biết phải mở lời thế nào...”.
“Rốt cuộc là sao vậy? Hai anh nói tiếp đi chứ, có phải cha tôi hay là anh trai tôi...”, Millea có chút sốt sắng.
Câu nói đó, vẫn là xuất phát từ Voit. Anh ấy nói: “Theo cách nói mà tên ác quỷ đó để lộ ra, Ferrero đang ở tiểu bang New York, hơn nữa rất có khả năng là ngay tại...”, anh ấy chỉ xuống phía dưới chân chúng tôi, “New York City”.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn, chỉ trông thấy biển hiệu quảng cáo to đùng trên phố đối diện, đó là một viên socola hình cầu bị bóc lớp vỏ bọc giấy tráng kim, rất thu hút người nhìn dưới ánh đèn rực rỡ.
Cuộc đối thoại này kết thúc bằng tiếng lẩm bẩm của Millea “Forrero...”. Hai người họ để lại cách liên lạc, sau đó trở về đúng chỗ họ đến. Chúng tôi cũng quay trở về khu nhà trọ. A Tam đẩy Millea vào phòng tắm: “Anh hãy tắm nước nóng trước đi, có chuyện gì đợi đến khi gặp được hẵng nói”.
Millea mặt mày ủ rũ nói: “Trước lúc đi ăn salad tôi đã tắm rồi...”.
“Vậy anh tắm thêm lần nữa đi!”, giọng điệu của A Tam không cần nghi ngờ gì nữa, cho thấy rõ rằng cậu ta quả nhiên rất có tài năng thiên bẩm làm mẹ.
A Tam quay ra phía tôi và nói: “Ngày mai chúng ta phải giúp đỡ truy lùng tung tích của anh trai anh ấy sao?”.
Millea đang ở trong phòng tắm nói vọng ra, xen lẫn với tiếng nước nóng : “Muốn nói gì thì ra xa mà nói, tôi có thể nghe thấy đó!”.
Tôi vuốt vuốt khăn trùm đầu của A Tam, và nói: “Ngoan nào, ngày mai cậu hãy đưa người tình trong mộng Ivy đi chu du khắp chân trời góc bể đi”.
A Tam nốc một hơi hết luôn nửa chai Tiger còn lại đang cầm trong tay, gào khóc thảm thiết: “Trời ơi, ngày mai cô ta đến rồi, chuyến du lịch lần này còn kinh khủng hơn cả ở lại địa ngục”. Nói xong, cậu ấy giận dỗi đi vào trong phòng ngủ.
“Này bạn thân yêu! Tối nay đến lượt tôi ngủ trong phòng!”, tôi vung vẩy con dao găm, xua đuổi thằng bạn Ấn Độ của tôi đi, “Còn nữa, đợi Millea tắm xong, đến lượt tôi tắm trước!”.
Hôm sau, vừa mới sáng sớm tôi đã bị tiếng la hét ở bên ngoài của A Tam đánh thức, tôi mắt ngái ngủ mơ màng bước ra ngoài, lúc này A Tam đã đổi sang giọng nghẹn ngào đang ngồi nài nỉ với Millea: “Trưa nay con quái vật đen như mực đó đến rồi, cô ta còn gọi điện cho tôi suốt ngày nữa chứ. Anh nói đi, tôi có nên nhảy lầu không cơ chứ?”.
“Đây là tầng hai, hơn nữa cậu còn chụp cái khăn dày như vậy, cho dù đầu có cắm xuống trước cũng không chết được đâu, thích thì cứ thử đi!”, tôi phũ phàng chen thêm một câu, sau đó đi vào phòng tắm đánh răng rửa mặt.
Tôi nghe thấy tiếng Millea nói với A Tam: “Người anh em, cậu chịu khó giải quyết một mình đi. Có thể sắp tới tôi còn bận xử lý việc cắt đứt chuyện đoạn tuyệt tình cảm với anh trai song sinh của mình”. Tôi thừa nhận là động từ trong câu nói cuối cùng không phải là như vậy, chỉ là trong lúc dịch lại tôi có hơi biến tấu cho nó nghệ thuật hơn một chút.
Kế hoạch của ngày hôm đó như sau: Sau giờ ăn trưa tôi và A Tam sẽ đón cô nàng Mập Lùn cùng với bạn cô ấy tại cửa tàu điện ngầm ở Grand Central (Bến xe trung tâm), sau đó đi dạo loanh quanh Rockefeller Center; còn Millea đến phố Wall tìm hai người bạn trung lập kia bàn bạc một số chuyện và xử lý “cái xác” con ác quỷ kia.
Trước khi tách nhóm ra, Millea nói với chúng tôi: “Hôm nay các cậu đừng suy nghĩ quá nhiều, cứ đi chơi vui vẻ đi, còn chuyện thiên thần, ác quỷ, tạm thời các cậu chưa đủ năng lực để nhúng tay vào. Nhưng không biết tại sao tôi có một dự cảm là hai ngày tới sẽ có việc để các cậu làm. Tối nay tôi sẽ gọi đặt vé máy bay lùi lại thêm một ngày nữa”. Từng câu nói của Millea dường như nhằm đúng tim đen chúng tôi, còn chúng tôi thì khỏi nói rồi tâm trạng vô cùng sung sướng vì được ở thêm một ngày.
Tôi và A Tam xuống dưới phố mua bánh mỳ ăn sáng, sau đó đi tản bộ về phía Đông. Đường phố New York buổi sáng sớm tinh mơ vẫn chưa bừng tỉnh khỏi giấc ngủ, trái lại đã có rất nhiều xe kéo kiểu cổ điển để chở khách du lịch đang đi lại trên đường. Những con ngựa to khỏe với nhiều màu sắc khác nhau còn cao hơn nhiều so với trong tưởng tượng của tôi, đo bằng mắt thì nó cũng phải cao hơn 2 mét.
Sau khi đi qua mấy ngã tư, chúng tôi đến trước một cầu thang thông vào công viên có đường mòn và cây cầu trên không dành cho người đi bộ. Chúng tôi men theo cầu thang đi lên. Tên của công viên đường mòn đi bộ đó là Highlight, được cải tạo từ đường ray xe lửa, biến thành một lối đi tắt trong thành phố không cần bắc đèn, hai bên đường trồng các loại cây cối thực vật và xếp đặt một số tượng điêu khắc. Trên bức tường ngoài những vật kiến trúc còn có những hình vẽ graffiti, chẳng hạn như bức tranh tường được mô phỏng từ tác phẩm của nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới “Nụ hôn chiến thắng ở Quảng trường Thời Đại”, hơn nữa nét vẽ còn giống y như thật.
Ở phía cuối công viên, đứng từ trên cao với tầm nhìn thoáng đãng có thể trông thấy quận Queens ở bờ bên kia dòng sông. Chỗ này đã rất gần với thành phố trung tâm Manhattan. Men theo cầu thang đi xuống, chúng tôi bước vào một khu chợ mang đậm không khí nghệ thuật, bên trong có một nhà hàng hải sản tươi sống chế biến ngay tại chỗ. Tôi và A Tam góp tiền lại được hơn 40 đô, mua một con tôm hùm nặng 2 pound13, chấm với sốt phô mai bơ độc quyền ở đây, mùi vị quá là ngon.
13 1 pound = 0.454 kg
Còn hơn một tiếng nữa mới đến trưa, nghĩ đến việc tiếp theo phải đến Manhattan, nên chúng tôi quyết định ngồi tàu điện ngầm qua sông đến Brooklyn dạo chơi một lúc. Suốt mấy hôm nay A Tam đã nhắc đến việc đi chợ trời ở Brooklyn rồi, tra cứu thông tin thấy địa chỉ của nó là nằm ở bên trong một tòa nhà lớn, ra khỏi bến tàu điện ngầm có thể nhìn thấy luôn. Cậu ta lấy khăn trùm đầu che nửa mặt, cố tình tỏ vẻ bí hiểm nói với tôi: “Tương truyền rằng những đồ bán ở trong đó, nếu biết chọn và kiêm một chút may mắn, có thể mua được cả pháp khí đó”.
Tôi áp sát bên cạnh cậu ta, khẽ gọi lên tên của cậu ta, rồi bất thình lình nâng cao tông giọng “Ồ” lên một tiếng , chán ghét bỏ đi về phía trước.
Mưu đồ không thành, cậu ta đuổi bám theo nhõng nhẽo, quấy rầy. Cuối cùng tôi đành chịu thua: “Đi thôi, đi thôi”.
Sự việc chính là được “thương lượng” như vậy. Bây giờ tôi có thể biết được tại sao Đường Tăng phiền phức đến thế, nhưng cuối cùng ông ấy vẫn là người đến được Thiên Trúc. Bạn có thấy cái tên hậu duệ Thiên Trúc ngay cạnh tôi, chưa đọc qua kinh đã có công lực như vậy rồi, Đường Tăng vẫn còn có thể lấy được chân kinh đó. Lòng cảm thông của tôi đối với bốn đồ đệ cũng nảy sinh một cách tự nhiên, nhất là Bạch Long Mã và Tôn Ngộ Không , một người càm ràm vì bị người ta cưỡi, một người suốt ngày chịu phạt, thật đúng là đồng cảnh ngộ nên dễ đồng cảm mà.
Lúc sau tôi không nhịn được cười. Địa chỉ chợ trời mà cẩm nang du lịch cung cấp cho, đã chuyển đi rồi. A Tam không bỏ cuộc chạy khắp nơi xung quanh tìm kiếm, hỏi han, cuối cùng cũng tìm được địa chỉ mà khu chợ đó chuyển đến. Chúng tôi lại ngồi thêm hai bến tàu điện ngầm nữa mới mò đến được khu vực chợ trời đó.
Chợ trời mới nằm ở bên trong một nhà xưởng quy mô lớn, cảm giác có chút gì đó giống các khu chợ chuyên ngành ở Quảng Châu, nhưng phong cách ở đây có vẻ nghiêng về kinh doanh đường phố hơn.
Bán sách cũ, đồ dùng dụng cụ cũ, quần áo cũ, trang sức, tất tần tật cái gì cũng có. Tôi cười và hỏi A Tam: “Cậu xem cái nào là áo choàng pháp sư? Trong đống sách cũ kia có cuốn sách ma thuật hắc ám thời Trung cổ không ? Còn cái hình người lego kia nữa, nói không chừng đến tối nó sẽ tự chuyển động đó”.
A Tam bĩu dài môi: “Đồ chua ngoa cay nghiệt”, nói dứt lời, cậu ta tự đi lang thang một mình. Tôi hẹn cậu ta sau bốn mươi lăm phút nữa gặp nhau tại đầu khu chợ, tôi sang khu thực phẩm bên cạnh để giải quyết bữa trưa, để mặc cậu ta tự lo liệu.
Khu thực phẩm hơi giống chợ đêm quy mô nhỏ, chỉ là nó mở vào ban ngày. Tôi gọi một suất cơm thịt cổ heo, vừa ăn vừa lẩm bẩm ca thán người Mỹ làm cơm thật khó nuốt.
Sau khi ăn xong tôi quay trở lại khu tạp hóa. Vốn dĩ tôi không có hứng thú với mấy đồ quần áo, trang sức, khóa thắt lưng này, ngược lại tôi lại thấy rất thu hút bởi quầy sách cũ chiếm diện tích đủ 20 mét vuông bên kia.
Ở đây có đủ các thể loại, từ “Cẩm nang mang thai” đến các cuốn thảo luận nghiên cứu về Atlantis đều có. Tất cả chúng có cùng một đặc điểm, đó là sách cũ. Có cuốn còn bị mối mọt gặm mất một phần, gáy sách mấp mô, lồi lõm. Tôi kinh ngạc khi phát hiện thấy, ở trong này có cuốn “Tự nhiên” (Nature) xuất bản năm 1965, là tập san có uy tín hàng đầu trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Thời đó giá trị chỉ có mấy chục cent, bây giờ chủ cửa hàng bán ra với giá 20 đô la.
Xem qua một lượt, tôi đi đến một kệ để sách bày rất nhiều hộp sắt để đựng các loại bưu thiếp cũ. Tôi tiện tay cầm một xấp lên và bắt đầu xem. Rất nhiều bưu thiếp đều đã ố vàng, có cái còn là viền hoa. Tôi lật giở từng tấm một, có thành phố Koeln (Köln) nước Đức, thành phố Canterbury nước Anh, còn có tấm ảnh đen trắng của McDonald thời mới thành lập.
Lúc tôi trông thấy tấm bưu thiếp chụp dòng sông Hudson ở New York, cảnh tượng trước mắt tôi đột nhiên thay đổi, phía trước xuất hiện bờ sông rộng thênh thang, một quý ông đội mũ vành đi qua ngay cạnh tôi, gậy ba toong gõ nhẹ trên mặt đất phát ra tiếng động “cộp cộp” .
Vẫn cầm tấm bưu thiếp trên tay, hình như tôi đang bước vào thời đại in trên tấm bưu thiếp, giống hồi trước khi tôi bước vào thế giới ký ức của Millea.
Tôi cầm bưu thiếp bên tay trái, rồi nhét nó vào túi áo khoác, cảnh tượng xung quanh liền trở lại là khu chợ trời có bao nhiêu người chen chúc. Do bên trong nhà xưởng bật hệ thống sưởi ấm, nên sau khi vào đây tôi phải cởi áo khoác dài ra vắt lên tay phải, vậy cũng có nghĩa là tấm bưu thiếp hiện tại đang nằm trong áo khoác, và không hề tiếp xúc trực tiếp với da thịt tôi.
Tôi lại thử cầm vào tấm bưu thiếp đó một lần nữa, trước mắt lại tái hiện hình ảnh dòng sông Hudson. Quý ông ban nãy cũng vẫn đi qua ngay cạnh tôi. Để ý thấy điều này, tôi mới an tâm hơn một chút. Trước đây tôi đã từng đọc qua seri truyện “Con mèo Schrödinger” và “Bí mật của kẻ bị chôn sống” của tác giả Trung Vũ, nó khiến tôi tin vào sự tồn tại của vũ trụ song song. Thực sự chỉ trong nháy mắt, tôi cho rằng bản thân đã bước vào vũ trụ song song. Có điều bây giờ nhìn lại, tấm bưu thiếp đó chỉ là chụp lại một cảnh tượng thời kỳ lúc ấy, nhưng trùng hợp là tôi có cơ duyên mở ra hình hộp không gian ba chiều này mà thôi.
Mọi người xung quanh gần như không nhìn ra tôi có điểm gì khác thường, tôi cố gắng giả vờ lặng lẽ tiếp tục lật giở những tấm bưu thiếp. Trí tò mò thôi thúc khiến tôi dự tính muốn mua tất cả những tấm bưu thiếp kỳ lạ này.
Kệ sách đó có bốn tầng , tầng dưới cùng để đĩa hát nhựa vinyl, ba tầng còn lại đều sử dụng hộp gỗ và hộp sắt mở rộng để đựng bưu thiếp. Tôi cố chịu nóng vắt áo khoác ra sau lưng , móc đôi găng tay len trong túi ra đeo vào tay phải, tay trái vẫn để lộ ra làn da trần trụi. Tôi quyết tâm trong vòng nửa tiếng sẽ xem hết toàn bộ đống bưu thiếp này.
Tấm bưu thiếp thứ hai rất có ma lực, cảnh vật trên đó chính là nơi tôi đã nhìn thấy cách đây không lâu, cảnh hoàng hôn trên đảo Key West.
Cảnh vật trên tấm bưu thiếp thứ ba, là kiến trúc chùa chiền phương Đông màu đỏ. Tôi nghĩ rằng mình đã quay về Trung Quốc, nhưng đến khi tôi nhìn ngó khắp xung quanh, lại nghe thấy thứ ngôn ngữ mà tôi không hiểu, cùng với lá cờ Nhật Bản quen thuộc. Trong não bộ của tôi quay lại vị trí của chợ trời, rón rén di chuyển hai bước. Tôi không rõ chỉ là sự thay đổi của thị giác hay là cả cơ thể tôi đều chuyển động xuyên qua. Tôi trông thấy lối hành lang miếu thờ giống như cổng Torii14, phía trước cổng vòm có treo tấm biển gỗ trên đó viết hai chữ lớn: “Lôi Môn” (Kaminari mon: Cổng Sấm). Hóa ra đây là chùa Senso-ji ở Tokyo.
14 (cổng truyền thống của Nhật Bản)
Lật đến tấm thứ tư, lần này tôi cũng nhận ra, đó là cố đô Tây An, Trung Quốc. Trung tâm thành phố Tây An về đêm, những ánh đèn màu lấp lánh màu xanh màu vàng phác họa ra hình dáng đường viền của tháp chuông. Lấy tháp chuông làm điểm gốc, bốn ngả đường lớn Đông, Tây, Nam, Bắc xòe thẳng ra bốn hướng, đèn đường tô điểm thành Trường An sáng lấp lánh. Phía cuối tầm nhìn, khi đó bầu trời vẫn còn xanh biếc, có thể khiến người ta nhìn thấy rõ một góc tường thành phía trước. Năm tôi 16 tuổi, đã từng đến đây cùng với bố mẹ, tôi còn yêu một cô gái ở Tây An nữa.
Thoắt một cái tôi đã xem hết toàn bộ bưu thiếp ở trong hộp sắt, tổng cộng tìm ra được 5 tấm bưu thiếp có ma lực. Tấm cuối cùng là hình ảnh con đường cao tốc thẳng tắp, không giống với công trình kiến trúc mang tính biểu tượng ở quốc đảo và Trung Quốc, tôi không nhận ra đó là chỗ nào. Chỉ biết hai bên đường quốc lộ, một bên là cánh đồng lúa mì, phía bên kia là cánh đồng ngô. Cánh đồng ngô, trước đây tôi có nghe một người bạn sống ở phía Bắc nói rằng, đây là từ khá nhạy cảm ở quê hương của họ. Nhìn từ biển báo đỗ xe phía trước con đường, đây có lẽ là thuộc khu vực Hoa Kỳ.
Trước đó tôi không biết rõ căn nguyên của chủ quầy, nên lại lấy tiếp mấy tấm bưu thiếp bình thường, sau đó đi tính tiền. Chủ quầy là một ông lão có ánh mắt sáng ngời long lanh, mặc bộ âu phục đã hơi bạc màu, dáng vẻ rất đáng kính trọng. Ông ấy nói mỗi tấm 50 cent, bảo tôi tự đếm xem có bao nhiêu tấm. Tôi cầm sang một bên rồi lấy tay rải ra như chia bài poker.
Ông lão chú ý đến mấy tấm khác biệt nổi bật, kêu lên “ô kìa”, âm thanh thốt ra, nghe như ngạc nhiên ngoài sức tưởng tượng. Ông ấy tự lẩm bẩm: “Tôi không nhớ trong hộp sắt đó lại có mấy tấm bưu thiếp này…”. Nhìn biểu cảm của ông ấy không giống như đang nói dối. Sách trong cửa hàng được sắp xếp chỉnh tề ngăn nắp, vừa nhìn đã biết ông chủ ở đây nhất định là một người kỹ lưỡng tỉ mỉ.
“Ôi! Bưu thiếp của tôi! Cảm ơn Thượng Đế, tao có thể tìm thấy chúng mày rồi”. Đúng lúc đó xuất hiện thêm một bà lão nét mặt vui vẻ hòa nhã bước đến. Bà ấy vỗ nhẹ lên mu bàn tay của ông lão, sau đó mỉm cười nói với tôi: “Đây là những tấm bưu thiếp tôi đã tìm rất lâu rồi, thật không ngờ chúng lại lẫn vào cùng những tấm bưu thiếp khác. Thật là xin lỗi cậu, mấy tấm bưu thiếp này có ý nghĩa rất đặc biệt đối với tôi, có thể mời cậu chọn lại được không, xem cậu còn thích cái nào không, tôi sẽ bảo chồng tôi giảm giá một chút cho cậu?”.
Tôi vâng lời đưa lại tập bưu thiếp đó cho bà lão, bà ấy rút ra chuẩn xác 5 tấm. Xong chần chừ phân vân một lúc, rồi lại rút thêm 2 tấm bưu thiếp bình thường khác, cuối cùng nét mặt tràn đầy niềm vui trả cho tôi chỗ bưu thiếp còn lại.
Tôi có cảm giác bà ấy là người biết rõ sự tình, nhưng tôi không thể xác định. Trong lúc tôi đang bần thần lưỡng lự thì bà lão đã quay người đi mất. Tôi cố gọi với theo bà. Tôi nói: “Xin hỏi một chút, những tấm bưu thiếp đó chứa đựng câu chuyện gì hay sao?”.
Bà ấy ngoái đầu lại, nhìn tôi một cách đầy thú vị: “Cậu rất muốn biết phải không ? Thanh niên trẻ tuổi? Đó đều là những nơi tôi đã từng đi qua lúc còn trẻ, chỉ là tôi thấy nó có ý nghĩa kỉ niệm đối với tôi, nên muốn lưu giữ lại”.
Tôi xua tay: “Xin lỗi, tôi không có ý mạo phạm. Nhưng thưa bà, trong mấy tấm bưu thiếp đó có phải có chỗ nào đặc biệt không ?”, tôi đặt quyết tâm, “Ý của tôi là, ví dụ như nó có thể đưa bà đến một đoạn ký ức…”.
Ánh mắt của bà lão hiện lên vẻ ngạc nhiên, môi dưới khẽ mấp máy. Nhưng biểu hiện của bà lão chẳng có nhiều thay đổi, chỉ hơi ngớ người ra, rồi lập tức thay vào đó là một nụ cười: “Đương nhiên rồi, những nơi ta đã đi qua, có thể tìm lại được một vài ký ức trong những cảnh vật đó”. Bà lão quay người tiếp tục chậm rãi bước đi, nhưng so với những bước chân nhịp nhàng lúc nãy, bây giờ có một chút loạng choạng. Lúc bà ấy đi đến khúc rẽ, vẫn liếc mắt nhìn về phía tôi, tôi trông thấy rất rõ ràng.
Cửa hàng sách cách điểm hẹn chỉ khoảng vài bước chân, lúc này A Tam đang đứng đó đợi tôi rồi. Tôi nhanh chân bước đến phía trước. A Tam nói với tôi: “Đi thôi, chúng ta đi đón tiếp địa ngục của chúng ta nào”. Cậu ấy cầm điện thoại lắc lắc, trên đó có tin nhắn của cô nàng Mập Lùn gửi đến, thông báo rằng cô ấy đã đến nơi.
“Đó chỉ là địa ngục của cậu, không phải của tôi. Có khi cô ấy sẽ đáp ứng ước nguyện của tôi, đem đến cho tôi một thiên đường ”.
“Hả? Địch, chẳng nhẽ cậu thích cô ta sao?”, A Tam hốt hoảng, “À phải rồi, ngày trước cậu có nói nếu ở vào triều nhà Đường, cô ta có thể là một đại mỹ nhân”.
“Cút!”, tôi quát cậu ta bằng tiếng Trung. Ở cạnh với tôi lâu như vậy, chắc chắn cậu ta hiểu câu này có ý nghĩa là gì.
Chúng tôi ngồi tàu điện ngầm đến bến xe trung tâm. Lúc gọi cho cô nàng Mập Lùn, ở phía đầu dây bên kia, cô ta vừa nhai thứ gì đó giòn rụm, vừa trả lời: “Tôi và bạn đang ăn trưa ở Oyster Bar, tôi sắp chết đói đến nơi rồi”. Lại là Oyster Bar, cái nhà hàng đó mở các chuỗi cửa hàng từ điểm cực Nam đến tận phía Bắc rồi sao?
Chúng tôi gặp mặt nhau tại Oyster Bar, hóa ra nhà hàng này cao cấp hơn so với ở đảo Key West, ngoài món hàu chiên đặc trưng, còn có sashimi và tám loại hàu đến từ các nơi khác nhau trên thế giới. Cô nàng Mập Lùn và bạn cô ấy chọn một đĩa, xem ra có đến tám loại hàu chắc hình dạng cũng không giống nhau.
Tôi vui tươi hớn hở, vì bạn của cô nàng Mập Lùn cũng khá xinh xắn, quả nhiên là “xấu đẹp luôn luôn đi đôi với nhau”. Nhưng A Tam thì ngược lại, sắc mặt cậu ấy đầy vẻ buồn rầu, nhưng vẫn không thể hiện ra quá rõ ràng. Cô gái ấy chào hỏi chúng tôi, và tự giới thiệu bản thân. Cô ấy là sinh viên năm thứ hai theo học ở bang Indiana, tên là Nishimura (Moe), con lai Nhật - Mỹ. Thoạt nhìn, vẫn thấy là gen Hoa Kỳ của mẹ trội hơn. May mắn thay, cô ấy và tôi học cùng chuyên ngành. Duyên phận ơi là duyên phận.
Để tránh ngồi không cho đỡ lúng túng, tôi cũng chọn hai con hàu Blue Point của đảo Long Island. Còn về da mặt của A Tam, nó đã sớm trở nên dày dặn đến độ dao chẻ súng bắn cũng không xuyên vào được, hơn nữa, cậu ta lấy đâu ra hứng thú ăn uống cơ chứ.
Hàu được bày biện cùng với chanh và đá bào. Thịt hàu vẫn rất thơm ngon, trắng mịn nõn nà, không chỉ vậy còn hơi nhấp nhô, hình như vẫn đang hô hấp. Tôi vắt chanh lên trên, lấy dĩa xúc từ phần dưới lên và cắn một miếng, thật nhiều nước, lại còn mằn mặn, có mùi vị của biển cả. A Tam thì không muốn ăn, nên tôi chén hết cả hai con hàu.
Sau đó, hai cô gái nói rằng họ muốn đến tham quan Nhà thờ Thánh Patrick, ngay gần Rockefeller Center, như vậy có thể cùng đi cả hai nơi. Chúng tôi cũng không có ý kiến gì, cứ thế mà xuất phát thôi.
Trên đường đi tôi hỏi Moe đã tìm được phòng nghỉ chưa. Cô ấy nói tìm được rồi, bên cạnh Quảng trường Thời Đại, bọn họ đã gửi hành lý về đó trước. Cô nàng Mập Lùn có vẻ rất vui khi thấy tôi và bạn cô ấy chủ động bắt chuyện với nhau, rồi nhếch mép cười với tôi. Kẽ răng của cô ấy còn đáng sợ hơn hầu hết các bộ phim kinh dị mà tôi đã từng xem. Tôi thầm cầu nguyện từ đáy lòng : A Tam à, chúc cậu may mắn.
Hệ thống xe buýt ở New York do công ty đường sắt vận hành, do đó thẻ tàu điện ngầm không giới hạn số lần đi xe trong bảy ngày cũng có thể được sử dụng trên xe buýt. Cách quẹt thẻ trên xe buýt cũng rất kỳ lạ, phải quẹt thẻ hướng xuống dưới, từ phía bên trái chếch lên trên cắm thẳng xuống, nó sẽ ngậm vào vài giây rồi nhả ra. Điểm dừng xe buýt ngay bên cạnh nhà thờ. Sừng sững ngay trước mặt chúng tôi là công trình kiến trúc Gothic cao bằng tòa nhà năm tầng, từ tháp nhọn trên mái nhà xuống phía dưới, chạm trổ chi chít những hình tượng nhân vật và hoa văn tôn giáo phức tạp.
Dưới áng sáng rực rỡ của Rockefeller Center, lượng người qua lại trên các khu phố lân cận khiến tôi có cảm giác như mình đang đi ngang qua những con phố ở Kinh Hỗ Tuệ15. Mấy người chúng tôi bước vào nhà thờ.
15 (là cách nói khác của Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu)
Bên trong nhà thờ chỉ có một tầng, thế nên nhìn lên trên đỉnh gần như ở một nơi vô cùng xa cách. Trong này không thấy có nét bút chấm phá của Michelangelo, nên không tráng lệ và lộng lẫy giống như Nhà nguyện Sistina. Mái vòm và cột trụ là kiến trúc Gothic chính thống, phần trên đỉnh nhọn thay bằng kính thủy tinh, dẫn ánh sáng rất tốt, hơn nữa khiến cho toàn bộ không gian nhà thờ tăng thêm ý nghĩa huyền bí và không kém phần thiêng liêng.
Khi chúng tôi vẫn chưa kịp quan sát hết tất cả mọi thứ bên trong như ghế cầu nguyện, ngọn lửa vĩnh cửu và cả những bức tranh kính màu trên các ô cửa sổ xung quanh, thì ánh mắt của tôi vô tình nhìn trúng một người phụ nữ đang ngồi bên trong hàng ghế giữa.
Tôi vừa nhìn đã lập tức nhận ra người ấy.
Người phụ nữ đó, chính là bà lão mà tôi gặp ở quầy sách cũ tại chợ trời sáng nay. Ngay lúc này đây, bà ấy đang ngồi cầu nguyện rất thành kính. Trước mặt bà ấy không phải là Chúa Giê-su, mà là một vách tường với những ống đồng rỗng ngắn dài khác nhau, giống như một chiếc đàn phong cầm khổng lồ, có lẽ là dùng để biểu diễn Thánh ca.
Nếu có thể bước vào trong nhà thờ, vậy chắc chắn không phải là ma quỷ. Tôi cũng thấy yên tâm hơn. Có thể những tấm bưu thiếp đó thực sự là những ký ức của bà ấy, bởi vì lòng tin của bà ấy được Đấng Tạo Hóa rủ lòng thương , nên đã trả lại cho bà ấy một phần ký ức mà thôi.
Tôi cũng không nói gì với A Tam và hai cô nàng đó, cứ tiếp tục quan sát. Phía sau chiếc phong cầm, các tín đồ đến cầu nguyện dần dần ngồi kín chỗ, phía trước là bức tượng Đức Mẹ Maria rất to lớn, đang ôm lấy người con trai Giê-su của mình vào trong lòng (tên của bức tượng là Đức Mẹ Sầu Bi). Có mục sư đang chủ trì làm lễ, sau lưng là một nhóm các em thiếu nhi mặc đồng phục ca đoàn là áo dài trắng chầm chậm bước ra, chắc hẳn đó là dàn hợp xướng.
Vì khu vực của tín đồ Công giáo không mở rộng với bên ngoài, bản thân chúng tôi lại không phải là tín đồ, nên đành phải đi theo đường cũ để ra. Lúc này bà lão đó đã đi rồi. Tại sao bà ấy không vào bên trong nhỉ?
Sau khi tham quan xong Nhà thờ Thánh Patrick, chúng tôi băng qua đường, bước vào trung tâm Rockefeller nổi tiếng thế giới. Tầng một và tầng hầm là khu mua sắm tổng hợp. Tôi với A Tam vừa trông thấy cửa hàng thời trang Banana Republic, liền vội vàng sà vào. Nhưng đến khi nhìn thấy giá in trên mác, hai chúng tôi líu cả lưỡi không nói nên lời, đúng là không thể so sánh với Miami được.
Có một bức tường chắn, trên đó là bức ảnh toàn cảnh New York về đêm được chụp từ tầng trên cùng của Rockefeller Center, ánh đèn vàng rọi chiếu đến tận chân trời, rực rỡ chói mắt. Chúng tôi quyết định tìm một lối lên trên cao để ngắm nhìn cảnh đêm, bất kể là đến tòa nhà Empire State hay ở ngay trong trung tâm Rockefeller này, đều được thăm dò ý kiến của cộng đồng mạng.
Phía sau Rockefeller Center là một sân trượt băng rất rộng, mọi người đi giày trượt băng đang múa máy loạn xạ trên sân băng, có vài người còn đổ ngã thành hàng như những quân bài domino. Bên cạnh sân trượt băng là một cảnh vô cùng quen thuộc. Những thiên thần làm từ dây thép quấn thành được xếp đều hai bên con đường nhỏ, đằng sau là cửa hàng lưu niệm của Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan. Cảnh này xuất hiện rất nhiều lần trong các bộ phim điện ảnh. A Tam chỉ vào những thiên thần đó và lập tức kêu lên tên bộ phim “Ở nhà một mình” (Home Alone).
Tiếp đó chúng tôi đi bộ đến Đại lộ thứ năm trong truyền thuyết, trông thấy tòa nhà Flatiron có lịch sử lâu đời, sau đó lại từ Đại lộ thứ năm đi đến Quảng trường Thời Đại. Xung quanh khắp trời tràn ngập màn hình và áp phích quảng cáo siêu to, tôi nghĩ đến cảnh trong bộ phim: “Người Nhện siêu đẳng, Đại chiến người nhện”, rồi lại nhảy sang cảnh hài hước Huỳnh Hiểu Minh, Đặng Siêu và Đồng Đại Vy đánh hạ Nazdaq tại đây (Phim “Trung Quốc hợp hỏa nhân”). Một ngày du lịch ở Manhattan, khiến người ta có cảm giác như đang sống trong điện ảnh. Phim giống như đời mà, không phải sao?
Tôi và A Tam dẫn hai cô gái đi ăn mỳ ramen ở quán Điểu Nhân. Mới đầu A Tam vẫn thấy có chút lo lắng : “Có khi nào tại tối hôm đó chúng ta đói quá, nên mới cảm thấy nó ngon miệng, ngộ nhỡ hôm nay phá hỏng hết ký ức tốt đẹp trong lòng tôi thì làm thế nào”.
Tôi trả lời cậu ta bằng một câu tiếng Anh chính cống : “Stay at where is cool” (Hãy đến nơi nào mát mẻ).
Khi hai cô gái nuốt miếng mỳ ramen đầu tiên xuống cổ họng, biểu cảm trên mặt chẳng khác gì so với tôi và A Tam tối hôm đó, nhất là Nishimura có huyết thống Nhật Bản. Lúc này A Tam mới thấy nhẹ nhõm. Cuối cùng, dưới sự ngăn cản bằng mọi giá của cậu ta, cô nàng Mập Lùn mới không nuốt trôi cả cái bát đựng mỳ.
Ăn xong, chúng tôi quay trở lại Quảng trường Thời Đại, hai cô gái bỗng dưng nổi hứng muốn đi xem phim. Một nam một nữ, hai người da đen muốn xem “Chim Húng Nhại” (The Hunger Games: Mockingjay), họ hỏi tôi và Nishimura thấy thế nào. Tôi nhận thấy có ám thị từ phía cô nàng Mập Lùn, nên vui vẻ bỏ qua sự thân thiết hàng ngày với cậu bạn thân mến của tôi, cũng coi như là giúp đỡ người anh em của mình.
Tôi nói: “Thực ra tôi chưa xem hai phần trước đó của Đấu trường sinh tử, tôi thấy hay là tôi đi xem xem có bộ phim nào khác không”. Những lời tôi nói đều là thực. Còn Nishimura cũng thể hiện là cô ấy muốn xem phim khác. Câu nói này của cô ấy khiến tim tôi đập nhanh hơn.
Tôi vừa lên trang web tìm phim, vừa đi cùng họ vào rạp chiếu phim AMC. Trong bảng danh sách các bộ phim ngay trang đầu tiên, tôi nhìn thấy poster một bộ phim Trung Quốc là “Năm tháng vội vã”. Tôi hỏi Nishimura có thích xem phim này không, cô ấy mỉm cười gật đầu, nói rằng mình rất tò mò với những dạng phim về tuổi thanh xuân của Trung Quốc.
Chạy đến quầy soát vé, đầu óc tôi còn chưa kịp nảy số, chỉ biết dịch bừa dựa theo mặt chữ, tôi hỏi nhân viên bán vé bộ phim “Rushing Year”, thậm chí còn nói đi nói lại vài lần. Nhưng nhân viên bán vé lắc đầu nói không có. Sau đó Nishimura ấn vào vai tôi, rồi chỉ lên màn hình kỹ thuật số phía trên. Lúc này tôi mới nhìn thấy tên tiếng Anh gốc của bộ phim là “Fleet of Time”, mặt tôi đỏ bừng lên.
Đối thoại giữa các nhân vật trong phim đều là tiếng Trung, bên dưới có in dòng chữ phụ đề tiếng Anh. Tôi quay sang nhìn Nishimura, sợ cô ấy xem không hiểu sẽ thấy nhạt nhẽo vô vị, nào ngờ cô ấy xem còn say mê hơn cả tôi. Có thể là do chú ý đến cốt truyện và dòng chữ phụ đề.
Chúng tôi vào xem muộn hơn phim của cặp đôi cô nàng Mập Lùn và A Tam, nhưng lại kết thúc sớm hơn do thời lượng phim của chúng tôi ngắn, còn thời gian nên chúng tôi vào Starbucks bên cạnh ngồi chờ bọn họ, sau đó nhóm bọn tôi chia tay, ai về nhà nấy. Hai cô gái thuê phòng ở bên ngoài khu phố.
Trong lúc tôi và A Tam bước vào nhà thì đã thấy Millea ngồi trong phòng rồi. Biểu cảm của anh ấy trông hơi dữ tợn, khiến cho sự im lặng trong nhà trở nên tĩnh lặng. Thấy chúng tôi về, Millea chỉ miễn cưỡng cười gượng, gọi chúng tôi lại ghế sofa ngồi, giọng nói của anh ấy uể oải như chẳng còn hơi sức, bộ dạng trông rất mệt mỏi. A Tam nhanh chân bước đến ngồi xuống bên cạnh anh ấy.
A Tam hỏi han rất ân cần: “Đã xảy ra chuyện gì? Có phải cái xác của con ác quỷ đó bị người ta phát hiện rồi ư?”.
Khóe miệng của Millea khéo vểnh lên trên một chút, nói: “Không sao, cái đó tôi đã xử lý xong xuôi rồi”.
Tôi cảm thấy không khí có chút không ổn. Liền vội vàng lôi A Tam về phía mình. A Tam thấy hơi ngạc nhiên, và có chút không vui khi bị tôi túm như vậy nên đứng phắt dậy và nói: “Sao thế, ghế sofa vẫn còn rộng mà, cậu ngồi qua bên kia được không ?”.
Tôi không bận tâm đến A Tam, liền kéo cậu ta ra phía sau lưng mình. Tôi đang quan sát người ngồi trên ghế sofa ngay trước mặt một cách cảnh giác, tay thò vào bên trong áo, lạnh lùng nói: “Anh không phải là Millea”.
A Tam phản ứng chậm chạp thò đầu ra từ phía sau lưng tôi, nhìn lại bóng dáng người ngồi trên ghế sofa đang mỉm cười kia và nói: “Anh… anh là Ferrero?”.
Đối phương trả lời rất bình tĩnh: “Phải, là tôi. Vốn dĩ tôi rất trông đợi vào thực lực của hai người bạn đồng hành với em trai mình. Nhưng không ngờ đến khi gặp mặt lại thấy không như đồn đoán”. Anh ta đưa một tay lên đỡ cằm, “Tôi chỉ không hiểu, tại sao dựa vào mấy người, thì có thể không hề bị chịu ảnh hưởng, khi trông thấy khuôn mặt của thiên thần?”.
Bất thình lình, cả người anh ta tự nhiên tạo ra một lực nổ, vừa mới giây trước vẫn còn ngồi ung dung vắt chân, vậy mà chỉ trong nháy mắt đã bay vút lên, giống như một cung tên kéo căng bật mạnh về phía trên tôi và A Tam.
Ghế sofa không chịu nổi lực tấn công dữ dội, cả chiếc ghế va thẳng vào tường. Tôi và A Tam đối mặt với tốc độ đó vốn dĩ là không thể tránh được. Nhưng bất ngờ, lại xảy ra chính vào thời khắc này.
Cũng giống như lần đầu tiên chạm mặt Belial, một bình phong vô hình đã chặn lại đường đi của Ferrero, chỉ có điều anh ta thê thảm hơn tôi, trên bức tường đó phát ra tiếng âm thanh nghe có vẻ đau đớn. Ghế sofa đập vào tường, khiến bụi tung bay mù mịt, chiếc đèn chùm gắn liền với quạt trần đang lắc lư mạnh đầy nguy hiểm.
Chúng tôi nhìn lại phía sau theo phản xạ có điều kiện. Chắc chắn là có người hỗ trợ, hơn nữa đó có lẽ là Millea. A Tam còn chưa kịp nhìn thấy người, đã kích động kêu lên: “Millea! Anh về rồi!”.
Thế nhưng, không có tiếng mở cửa. Người bước ra từ trong căn phòng duy nhất này. Đó là bóng dáng của một bà lão, tôi nhìn lại, vẫn là bà lão sáng nay.
Tôi không thể suy nghĩ được nhiều, lúc này Ferrero đã bắt đầu giằng lại quyền chủ động, hắn vỗ hai tay lên trên bức tường, từ lòng bàn tay phát ra tia sáng màu đen, hơn nữa càng lúc càng tăng mạnh. Khoảng hư không bắt đầu phát ra tiếng kính nổ, sau đó là một loạt âm thanh rơi xuống vỡ tan tành. Cùng lúc tường phòng ngự bị vỡ toang, Ferrero trầm giọng gào lên: “Hay là ta đánh giá thấp Millea và hai ngươi, nên đã mời cả thiên thần thượng cấp đến để giúp đỡ à”.
Nói khi đó đã muộn, cả người bà lão đã bay lên không trung, hai chân tạo thành góc 60 độ, động tác khoan thai từ từ, nhưng tốc độ cuồn cuộn rất nhanh. Lúc bà ấy đánh xong vòng thứ nhất, bộ quần áo đang mặc rớt xuống, ngay sau đó hiện ra một cô gái trẻ tuổi có dung mạo vô cùng xinh đẹp, khắp toàn thân tỏa ra sức sống mãnh liệt.
Tốc độ của cô ấy nhanh hơn nhiều so với Ferrero, mu bàn chân là vị trí có lực nhất, đạp thẳng vào cổ bên trái của Ferrero. Tôi nghe thấy tiếng xương vỡ, chỉ biết há hốc mồm, nhìn sang A Tam.
Ferrero tê liệt mềm nhũn nằm dưới. Khi đó, bà lão, à không, bây giờ đã là cô gái, chắp hai tay để trước ngực, một vòng ánh sáng trắng dần dần lan rộng từ lòng bàn tay cô ấy, che phủ cả hai người và một con ác quỷ đang có mặt tại hiện trường.
Lúc ánh sáng dần biến mất, đèn trong phòng bừa bộn ngổn ngang, nhưng người thì không thấy một ai.