Cửa hàng mỳ ramen nằm trong một con phố nhỏ, không có nhiều người qua lại, ngay cả biển hiệu đèn neon cũng không có. Nhưng trong quán lại vô cùng nhộn nhịp. Bây giờ đã là giữa tháng 12, phần mềm dự báo thời tiết trên điện thoại báo nhiệt độ ở New York ở khoảng -3 độ C.
Cửa hàng mỳ không rộng lắm, có một chiếc bàn dài kiểu quầy bar với vài chiếc ghế gỗ, ở ngay cửa có một chiếc lều kín để mọi người đứng xếp hàng chờ có thể tránh gió lạnh và sưởi ấm, có rất đông người xếp hàng, vốn dĩ cái lều nhỏ đó không đủ sức chứa, nên một số người đành phải xếp hàng ra tận bên ngoài. Trong số những người đang xếp hàng có hai phần ba là dân châu Á, đa số họ nói tiếng Nhật, tôi xém chút nữa cũng nghĩ mình là người Nhật. Đợi khoảng hơn bốn mươi phút, cuối cùng cũng được xếp một ngồi bên trong.
Đến lúc này tôi mới nhìn thấy rõ biển hiệu của cửa hàng, dòng chữ tiếng Nhật to tướng (viết bằng chữ Hán: “Điểu Nhân”, bên cạnh là chữ dịch sang tiếng Anh “Totto Ramen”. Trong cửa hàng chỉ có hai loại mỳ và một số món ăn vặt, món ăn kèm, tôi chọn mỳ canh gà thịt cổ heo, vì đói nên tôi yêu cầu cho thêm mỳ.
Một lát sau mỳ được bưng lên bàn. Khi tôi ăn miếng đầu tiên, khẩu vị cảm nhận của tôi phải nói là thật tuyệt vời: từ nước dùng, chất lượng mì, thịt... quả thật hấp dẫn và ngon vô cùng. Gia vị nước canh gà rất vừa vặn, đậm đặc gần như không còn là chất lỏng nữa. Tất cả chúng tôi ai nấy đều tấm tắc khen ngon, thậm chí A Tam còn ăn liền ba bát. Cuối cùng khi thanh toán hóa đơn, tôi còn bo thêm 20% tiền tip.
Chúng tôi háo hức dạo quanh trên phố một vòng, rồi mới về phòng trọ nghỉ ngơi. Phố xá đông vui náo nhiệt, khung cảnh vô cùng nhộn nhịp. Đây mới gọi là thành phố chứ, Miami thì chỉ được xếp hạng là vùng “nhà quê” thôi, có ra ngoài mới được mở mang thêm tầm mắt.
Trong căn phòng thuê trọ chỉ có một chiếc giường lớn. Tôi và A Tam thảo luận sẽ thay nhau nằm ngủ trên giường. Tôi ra dáng đàn anh và tỏ vẻ ga lăng nhường cho cậu ấy ngủ trên giường đêm đầu tiên, còn mình ngủ trên đệm hơi trong phòng khách do chủ nhà cho mượn. Millea thì đã nằm ở ghế sofa, anh ta thích lăn qua lăn lại thế nào thì kệ.
Tôi là người rất hẹp hòi đối với khoảng thời gian đi du lịch, vì tôi không muốn lãng phí bất cứ một giây một phút nào. Hôm sau tôi thức dậy từ sáng sớm làm vệ sinh cá nhân xong tôi mới gọi A Tam dậy. Hai chúng tôi ăn sáng bằng pizza xúc xích hun khói tiêu xanh, rồi bắt đầu khởi động lịch trình của một ngày du lịch.
Lúc ra khỏi nhà A Tam hỏi tôi: “Ơ, còn Millea đâu? Anh ấy không đi sao?”.
“Sáng sớm dậy tôi đã không nhìn thấy anh ấy rồi, cũng không biết là đi từ lúc nào. Dù sao lần này anh ấy cũng không đi du lịch cùng chúng ta mà. Anh ấy sống suốt mấy nghìn năm, chỗ này anh ấy phải đến cũng mấy chục lần rồi”. Tôi vừa cắn pizza vừa trả lời A Tam.
Vừa dứt lời thì Millea gửi tin nhắn đến cho tôi, nói rằng anh ấy đang ở thư viện công cộng tìm kiếm tài liệu. Hơn nữa chiều nay anh ấy còn có việc riêng, đến tối không cần đợi anh ấy quay về, cứ khóa trái cửa là được.
Hôm nay cả tôi và A Tam muốn đi ngắm biểu tượng đặc trưng của New York - đó là tượng Nữ Thần Tự Do. Bức tượng Nữ Thần Tự Do được đặt trên một hòn đảo nhỏ, nếu muốn tham quan bắt buộc phải đến bến phà ở phía Nam đảo lớn để mua vé.
Chúng tôi ra quầy bán vé tự động mua vé liên vận dùng trong bảy ngày của công ty đường sắt ngầm, trên vé in logo kỷ niệm tròn 110 năm của tàu điện ngầm. Ấn tượng đầu tiên của tôi đối với tàu điện ngầm ở New York là: bẩn, loạn, kém. Tất nhiên phương tiện giao thông đã trải qua hơn một thế kỷ mà vẫn vận hành tốt, phải nói là đáng khen ngợi. Chỉ là không có bảo vệ ở phía trước chỗ đứng chờ, rác chất thành đống trên đường ray và một mùi khai khú “thấm vào ruột gan”, nếu đem so với một gian hàng vỉa hè ở Trung Quốc bán hàng lúc rạng sáng thì cũng chẳng khác biệt gì mặc dù nước Mỹ trong tâm trí tôi là hiện đại hóa hơn nhiều so với Trung Quốc.
Người ngồi trên tàu điện ngầm không quá đông đúc, không giống như tuyến tàu điện ngầm ở thành phố Quảng Châu, Trung Quốc vào giờ tan tầm thì đông như nêm như cối. Lúc đi qua trạm, bảng tên của trạm dừng quá bé dường như không nhìn thấy, nhưng trên tường lại có đồ sứ treo gắn vào, đây là điểm đặc sắc có một không hai, thậm chí khi các toa xe vỏ sắt bắt đầu rung lắc, một số thứ trong toa cũng dao động theo. Nghĩ đến điều này, trong đầu tôi chợt nảy ra một câu hát, là của một ca sĩ nào đó rất muốn được lên top đầu. Mặc dù bây giờ mọi người đều chế nhạo anh ta, nhưng tôi vẫn thích bài hát đó.
Sau khi đến trạm dừng liền có một vài người trông giống như dân phe vé chạy đến mời mua vé, xem ra dịch vụ này đã tiên phong toàn cầu hóa rồi, điều khác biệt ở đây là họ nhìn bạn bằng khuôn mặt đầy mong chờ, đợi nhận được tiền tip từ khách du lịch. Chỉ vì muốn nhanh chóng thuận tiện, nên chúng tôi mua lại vé từ dân phe, thực tế đây cũng là vé chính thống, chẳng qua được mua lại từ dân phe vé mà thôi. Trên vé còn in cả tiếng Trung Quốc, đó là tên một công ty “Tàu biển chở khách Merchants”, tôi thấy khâm phục việc kinh doanh của Trung Quốc mở rộng ra khắp nơi trên thế giới đều khiến người ta phải ngạc nhiên đến mức này.
Chúng tôi đến bến phà tìm số hiệu con tàu ghi trên vé, chiếc chiến thuyền hình con rắn nhìn đồ sộ hơn cả Vạn Lý Trường Thành. Cứ một tiếng lại có một chuyến, bảng giờ tàu chạy đã thông báo rõ ràng, cần phải xếp hàng theo trật tự và thời gian quy định. Cứ theo tình hình này, chắc phải hai tiếng nữa chúng tôi mới có thể chen được lên tàu.
Mở Google Maps ra tìm kiếm, tôi và A Tam ngạc nhiên phát hiện ra rằng, hóa ra cây cầu bắc ngang qua sông ở phía bên trái trước mặt chúng tôi, chính là cây cầu Brooklyn nổi tiếng. Còn sau lưng chúng tôi, lại là con phố được nhắc đến rất nhiều lần, con phố Wall nổi tiếng trên thế giới. Tra bản đồ các điểm du lịch xung quanh, chúng tôi quyết định đi dạo vòng quanh con phố gọi là “trung tâm tài chính toàn cầu” trước.
Vì thời tiết hôm nay khá lạnh, tôi kéo A Tam vào Starbucks mua đồ uống nóng. Ai dè cà phê ở cái phố quái quỷ này đắt hơn nhiều so với bên ngoài, đã thế ở Empire State còn đánh thuế 9%, phải gọi là đánh thẳng vào trái tim tan nát vì tiếc tiền của tôi thì có. Cái đó gọi là “bản thân giả vờ ngu ngốc, thì quỳ gối cũng phải làm cho giống kẻ ngốc”, tôi vẫn chọn một đồ uống mới - Toffee Nut Latte.
A Tam lại chẳng có hào hứng, cậu ấy không mua gì hết, chỉ ủ rũ chán chường đi theo tôi. Cậu ấy chỉ ra nhà nghỉ chân ở phía trước và nói: “Nè nhìn đi, không phải vẫn còn chỗ bán nước sao, tôi ra mua chai Snapple”.
A Tam lấy từ trong tủ lạnh một chai trà đào không đường, hỏi chủ quán bao nhiêu tiền.
“Hai đô năm mươi cent”, chủ quán đáp. Không biết có phải vì chủ quán là người Tây Ban Nha nên khẩu âm hơi nặng, hay là vì A Tam đang mải tìm tiền trong ba lô chứa đầy thứ nên không nghe rõ, cậu ấy hỏi lại hai lần, mới xác nhận được chính xác giá tiền. Chủ quán bắt đầu cảm thấy khó chịu, tôi nghe thấy ông ta lẩm bẩm một câu, trong đó có chữ “lợn châu Á”.
A Tam thật thà chất phác chưa nghe thấy gì, nhưng tai tôi rất thính, sau khi nghe xong tôi có cảm giác giận dữ muốn nổi trận lôi đình. A Tam vẫn vui vẻ cười khì khì và kéo tôi đi xem con bò vàng trên phố Wall, tôi hất tay cậu ấy ra, nén tức giận vào trong bụng chỉ thẳng vào chủ quán nói một câu: “Eres un hijo perra” (đồng nghĩa nội hàm với phát âm tiếng Anh câu “Ánh nắng bãi biển”, nghĩa gốc là: Ông là tên khốn khiếp), người qua đường không rõ thực hư đều liếc nhìn. Những câu chửi đất nước kiểu này làm sao có thể nín nhịn chịu đựng được, ông mày cũng từng học qua tiếng Tây Ban Nha, còn chuyên luyện âm rung lưỡi nữa cơ. (Sau này về tra lại từ điển, câu tôi nói cũng đúng, nhưng câu thường thấy nhất là đổi một từ đơn ở cuối câu thành “puta”).
Tôi quay người lôi A Tam đi thật nhanh, thậm chí còn ngó nghiêng sáu phương tám hướng, để tránh bị truy đuổi. Đột nhiên A Tam dừng lại, dùng mũi hít lấy hít để như muốn ngửi ngửi cái gì đó. Tôi đang chuẩn bị chửi lây sang cả cái tên đầu gỗ này, thì ngay sau đó tôi cũng ngửi thấy một mùi thoảng qua. Đó chính là mùi của lưu huỳnh.
Có lưu huỳnh xuất hiện ở chỗ này, tuyệt đối không thể nào dùng để đuổi rắn. Trong lòng tôi và A Tam đều biết rõ, có ác quỷ xuất hiện trên phố Wall, hay nói là ác quỷ đã từng đến chỗ này.
Ý chí chiến đấu của A Tam lại bùng lên. Về điểm này của cậu ấy rất đáng được tuyên dương. Đến thời khắc quan trọng, cậu ấy sẽ không vụng về mà làm hỏng chuyện. Cậu ấy cố gắng thay đổi tay áo, nhưng kết thúc vẫn là thất bại, cuối cùng lớp trong lớp ngoài mặc tận ba lớp.
Phố Wall gần một đoạn phố vắng người qua lại ở ven biển, ngược lại phía sau là các sàn giao dịch chứng khoán và địa điểm du lịch Bò vàng luôn nườm nượp biển người. Cả tôi và A Tam đều tập trung nhìn về phía trạm nghỉ chân ban nãy chúng tôi mua đồ và chửi bới với chủ quán. Trước đây khi đối phó với con thú ma hình mèo, tôi và A Tam buộc phải học thuộc lòng một đoạn chú trừ ma.
Nghe Millea nói, đoạn chú trừ ma đó chỉ có tác dụng với loài ma quỷ cấp thấp. Nếu nó không chỉ vô hiệu với thứ chúng tôi đang phải đối phó lúc này, thậm chí thay vào đó lại càng khiến nó bực tức, vậy cái mạng nhỏ bé của chúng tôi không lẽ...
Tôi sờ vào phần hông theo tiềm thức bản năng, sau đó nhận ra hiện tại chúng tôi không ở vùng Miami quanh năm chỉ có mùa hè, rồi sờ vào túi áo bên trong áo khoác, con dao găm bằng bạc để trừ ma mà Millea đưa cho chúng tôi vẫn còn. A Tam quay sang tôi gật đầu. Sau khi tập trung lại tinh thần, hai người đàn ông châu Á chúng tôi đi thẳng về phía trạm nghỉ chân, lại bị rắc rối để tìm người ta theo kiểu được đằng chân lên đằng đầu.
Trạm dừng chân được làm từ vật liệu cao phân tử, bên cạnh có một cánh cửa để cửa hàng đi ra đi vào, do tôi và A Tam đang đi ngược hướng gió, hơn nữa phải cố gắng hành động thật nhẹ nhàng, để gã chủ quán đó không nhận ra được. Thực tế A Tam cũng có những sở trường đặc biệt của mình, cậu ấy móc từ trong túi ra chiếc bút đánh dấu, nhanh chóng vẽ mấy hình lên trên mặt cánh cửa.
Tôi vừa nhìn liền lập tức nhớ ra, đó là hình bùa chú bắt ma mà chúng tôi nhìn thấy trong căn hầm ở bên dưới nhà thờ ma quỷ. Tôi thầm khâm phục khả năng ghi nhớ của A Tam. Bây giờ trông thấy tôi mới có ấn tượng, nếu ban nãy bảo tôi vẽ, tôi sẽ nhất thời không nhớ ra được hình dáng khái quát. Có lẽ nào vì thường ngày A Tam luôn mang bộ mặt đần độn, ngốc nghếch, nên tôi đã đánh giá thấp cậu ấy chăng.
Đây là sự quyết định quan trọng, lối thoát thân thường lệ của con quỷ lúc này, chỉ còn lại chỗ chính diện khu vực bán hàng và thu tiền ở nhà nghỉ chân này.
Lúc chúng tôi đang chuẩn bị tiến hành bước tiếp theo, không ai ngờ đến, chỉ một hành động này đã đưa sự việc sang một cục diện hoàn toàn mới.
Để đảm bảo chắc chắn, A Tam vòng ra phía sau cửa hàng, chỗ không có cửa ra vào, lần lượt vẽ tiếp một hình giống như vậy. Tôi trông thấy bộ mặt của bảo vệ tòa nhà văn phòng đối diện có vẻ nghi ngờ khi nhìn bộ dạng của hai chúng tôi, trong khi anh ta vẫn chưa thốt ra lời nào, tôi đoán ngôn từ chắc không có gì quá khác biệt so với ông chủ quán vừa chửi chúng tôi hồi nãy.
Lúc này, tôi và A Tam chia nhau lần lượt đứng phía trước trạm nghỉ chân, chúng tôi cho rằng dù tài giỏi đến đâu thì ánh mắt của hắn sẽ không thể bao quát hết hai bên. Chúng tôi gật đầu ra ám hiệu, A Tam miệng lẩm nhẩm niệm chú và tiến lại gần tầm mắt của chủ quán, còn tôi thuận tay trái đang rút con dao găm cầm chắc trong tay, rồi lấy vạt áo bên phải để che nó lại.
Chúng tôi đã đoán trúng, chủ cửa hàng đó quả nhiên là một con ác quỷ, cấp bậc không cao hơn con thú ma lần trước là mấy. Dưới tác động của câu thần chú đuổi ma mà A Tam đã khổ luyện phát âm, hai tay hắn tự bóp chặt cổ mình, toàn thân bắt đầu co giật, hai mắt đỏ rực lên vì huyết khí dâng trào.
Khuôn mặt A Tam hơi tỏ vẻ đắc ý, rồi cậu ấy tiếp tục niệm chú với âm lượng cao hơn. Một vài người đi bộ ngang qua phía sau cửa hàng tỏ vẻ hoảng hốt sợ sệt, sau đó chạy vắt chân lên cổ. Tại sao họ không dám lại gần chứ?
Tôi biết, người Mỹ không thích tụ tập xem đám đông ồn ào như người Trung Quốc, nhưng thích chõ mũi vào việc người khác cũng là chuyện vang danh khắp nước ngoài rồi. Còn nhớ trước khi sang Mỹ du học, tôi có xem một số mẩu chuyện và vài cuốn sách, nhưng không nhớ rõ tôi đọc từ đâu một câu chuyện như thế này: một đôi trai gái cãi nhau trên đường phố Hoa Kỳ. Có vẻ là vì cô gái đang ngắm nghía một chiếc túi nào đó, nhưng chàng trai lại không có tiền để mua, nên cô gái cáu giận, hờn dỗi, vừa mắng vừa chửi chàng trai như một bà cô già Trung Hoa. Cô gái cầm chiếc ví tiền kiểu dáng dài đánh chàng trai mấy cái, còn chàng trai chỉ âm thầm chịu đựng mà không ra tay lại. Kết cục của câu chuyện là có người qua đường đã báo cho cảnh sát, nhưng cảnh sát không quan tâm lời giải thích của đôi nam nữ, còng tay họ lôi về đồn.
Sau này tôi mới biết, mấy ngày chúng tôi đi New York, không kịp cập nhật tin tức, ở Ấn Độ vừa xảy ra chuyện lớn. Một đoạn video về cuộc diễu binh của Ấn Độ bị người ta đăng tải lên các trang mạng trực tuyến, gây ra sự bùng nổ trên toàn thế giới, từ người già tóc bạc phơ đến con nít mặc quần yếm đều bàn tán xôn xao. Những bạn bè mới chỉ xem qua đoạn video chắc chắn đồng loạt cho rằng, những gì người Ấn Độ làm ra đều không có gì là lạ.
Đề tài tôi vừa nói có vẻ đi quá xa với thực tế hiện giờ rồi. Quay trở về chuyện A Tam niệm chú trừ ma, lúc này tôi mới phát hiện thấy có chút bất bình thường. Tôi cảm giác chú trừ ma cấp thấp này về căn bản không có tác dụng với ông chủ quán đang đối diện trước mặt kia. Phải rồi, hắn đâu có giống với con thú ma ngày trước, không rò rỉ chất màu đen từ mặt mũi.
Một tiếng “vù” cất lên, đầu óc tôi trở nên trống rỗng. Bởi vì tôi đã từng xem qua ký ức của Millea, cũng từng xem cuộc đấu đá ngắn ngủi giữa hai cha con Millea và Belial ngay tại hiện trường. Lần đó chắc chắn họ chưa dùng hết toàn bộ sức lực, còn tôi chỉ là một người bình thường , mặc dù tôi cũng có sức lực không tồi, nhưng khi đó tôi chỉ có cảm giác bất lực bao trùm khắp toàn thân. Bọn họ không giống như những vụ ẩu đả cỏn con của chúng tôi ngày trước, họ là sự tồn tại có sức mạnh ghê gớm.
Gã chủ cửa hàng không còn biểu diễn nữa, nụ cười của hắn mang ý tứ sâu xa, giống như đang xem hai tên hề là tôi và A Tam biểu diễn như thế nào. Phản ứng của tôi chỉ có một chữ duy nhất: “Chạy”.
Tôi và A Tam chạy thục mạng về phía trước. Tôi che con dao trong ngực mà vẫn chưa kịp cất đi, suýt chút nữa còn tự đâm vào mình một nhát. Thái độ của con quỷ đó quả là không tồi, hắn vẫn chưa đuổi theo chúng tôi.
Vì lý do an toàn, hai chúng tôi chạy thẳng về đoàn tàu khách đang xếp hàng đi đến đảo có tượng Nữ Thần Tự Do. Có nhóm người làm lá chắn yểm hộ, tôi và A Tam mới dần dần định thần lại. Chú trừ ma không thể làm tổn thương tên khốn vô sỉ đó, quan trọng nhất là hắn còn diễn trò một lúc với chúng tôi, rõ ràng đã biết thân phận người diệt quỷ của chúng tôi rồi. Cách thể hiện của chúng tôi quá liều lĩnh. Hy vọng hắn sẽ không đuổi theo nữa.
Chúng tôi làm sao có thể nhìn thấu được ý đồ xảo quyệt của lũ ác ma cơ chứ. Có điều, nói cho cùng, cả tôi và A Tam đều có tính cách lạc quan, vẫn không lo sợ chuyện gì không hay xảy ra nên chúng tôi vẫn xếp hàng để đi thăm địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới này, dù thế nào cũng đã bỏ ra 30 đô để mua vé, còn bo thêm 5 đô tiền tip rồi. Bởi vì tàu mới vừa đi được một chuyến, đội xếp hàng đã giảm bớt số lượng người đáng kể.
Thực tế thì số người xếp hàng còn ngắn hơn chúng tôi tưởng tượng, vì ở đây thực chất có hai hàng, trong đó một hàng là muốn lên đảo, tất nhiên bạn sẽ phải trả thêm tiền mua vé lên chỗ tượng Nữ Thần Tự Do, rồi tha hồ mà đứng trên đó để chụp ảnh mang về khoe trên Wechat. Chúng tôi nhìn lại tấm vé đang cầm trong tay, phân vân không biết có lên đó hay không, dù gì vé tàu cũng đã mua rồi. Thôi đứng từ xa ngắm là được rồi, lên đó mất thời gian nhiều quá.
Cuối cùng cũng đến lượt chúng tôi lên tàu. Các hành khách trên tàu chen lấn chiếm đoạt chỗ bên trong ca bin, để có thể ngắm cảnh sắc bên ngoài qua ô cửa kính đã hơi ngả màu trà. Tôi thấy rất khó hiểu, lẽ nào đứng trên boong tàu không nhìn thấy rõ hơn sao?
Tôi bám vào lan can leo lên cầu thang, ngay sau đó cũng hiểu tại sao mọi người thà rằng đứng chật chội ở bên dưới còn hơn leo lên tầng trên. Gió thổi phải gọi là có thể rạch thành sẹo trên mặt. Tôi đóng chặt các khuy trên áo khoác dài, điều này có nghĩa là sẽ rất bất tiện khi tôi muốn rút vũ khí ra. Lúc chụp ảnh, tôi liều mạng tóm lấy cái điện thoại mỏng manh, chỉ sợ “bốp” một cái, nó mà bay xuống biển thì thôi rồi, sẽ khiến cho tôi chẳng có cơ hội để khoe những tấm ảnh riêng tư của mình nữa.
Thân tàu phát ra tiếng máy kêu vang, dần dần tàu rời khỏi bến, lúc này từ trong loa phát ra giọng phát thanh viên, nói hai ngôn ngữ Anh - Trung. Tôi chẳng có tâm trạng để lọt tai một chữ nào vào đầu, và tin chắc A Tam cũng như vậy. Chúng tôi còn mải bận chụp lại cảnh đẹp trước mặt vào trong ống kính: cây cầu Brooklyn chuẩn bị lên đèn, lần lượt ở hai đầu cầu là đảo Manhattan cùng với quận Brooklyn và quận Queens ở bờ bên kia. Mặt Trời vừa đỏ vừa to, chân trời rực cháy những đám mây hồng. Hình ảnh bức tượng Nữ Thần Tự Do đã hiện ra trong tầm mắt của chúng tôi, đó là một hòn đảo nhỏ đơn độc, trên những hòn đảo nhỏ rải rác nằm bên cạnh còn cho xây dựng các căn biệt thự.
Tượng Nữ Thần đứng sừng sững bất chấp mưa gió cũng không lật đổ, tay giơ cao ngọn đuốc bất diệt. Ánh chiều tà chầm chậm chìm xuống phía bên phải nữ thần, vì một phần bị ngược sáng, khiến cho toàn bộ bức tượng toát lên vẻ thần bí. Tôi và A Tam đều cầm máy chụp tự sướng, tôi còn nhờ cậu ấy quay cho tôi một clip ngắn để đăng lên trên nhật ký của Wechat khoe khoang với bạn bè của mình.
Tôi nhanh trí lấy chiếc ống nhòm từ trong ba lô ra. A Tam bắt chước theo tôi, cũng lấy chiếc ống nhòm chuyên dùng để nhìn lén cô nàng Mập Lùn, à không, là nhìn lén Valeria mới phải, cùng đứng ngắm với tôi. Tôi trông thấy trên bả vai của Nữ Thần, có những bóng người nhỏ li ti đang chuyển động. Có vẻ như họ đang kéo một sợi dây thừng khổng lồ trong khi đi bộ.
Đó chính là ở đoạn kết phần một bộ “Anh hùng Trung Hoa”, là cảnh anh hùng Trung Hoa và trận đấu vô địch chăng? Tôi thầm nghĩ. Bỗng nhiên, sống lưng của tôi như có một luồng điện bất ngờ, đó là phản ứng tự nhiên khi tôi bị người khác nhìn chằm chằm. Tôi hạ ống nhòm xuống, bám sát vào lan can tàu rồi quay đầu lại nhìn một cách tỉnh bơ như không. Tôi giả vờ vô tình nhìn một lượt khắp xung quanh, thì không thấy bất cứ động tĩnh gì, khách du lịch người cười người nói, đi qua đi lại. Nhưng quan trọng là những người có thể chịu đựng được sự rét buốt để lên trên boong tàu đứng là không nhiều, nên xác suất kẻ rình rập bị bại lộ chân tướng là tương đối lớn.
Tôi cởi hai nút khuy áo ở phần trước ngực, chừa ra vị trí đủ để tôi thò tay vào cầm con dao. Những cơn gió tê cóng thấu xương xuyên thủng qua áo len chạm lên da của tôi, khiến cơ thể tôi bị cảm giác lạnh thấu xương, tôi cắn răng chịu đựng rét buốt. Chết tiệt, ngoài mỗi việc quần áo không che giấu được vũ khí ra, thì thời tiết ở Miami đối với người bình thường mà nói còn tuyệt vời hơn nhiều.
Chuyện này có thể là do tôi nghĩ quá nhiều. Nếu thực sự là con quỷ vừa nãy, hắn cũng không thể trà trộn lên tàu một cách dễ dàng như vậy được, ít nhất hắn còn phải mua vé. Cho dù hắn có thể đánh cắp thân thể của một người nào đó, dựa theo hàng lối hắn phải bắt đầu xếp hàng từ phía sau thì tuyệt đối không thể lên kịp chuyến tàu này bởi có rất nhiều người Mỹ sẽ lên án kịch liệt hành vi chen ngang.
Tôi vạch sẵn chủ ý, vỗ vai A Tam và nói: “Tôi phải vào nhà vệ sinh trong ca bin, cậu ở đây chụp ảnh, chụp được cái nào đẹp nhớ gửi cho tôi nữa”, A Tam hào hứng gật đầu.
Tôi men theo cầu thang đi xuống ca bin, ngó nghiêng xung quanh để có thể bao quát được nhiều khuôn mặt trên tàu. Tôi tuần tra một lượt, và không phát hiện thấy gương mặt thân quen nào. Trừ phi hắn lẩn trốn, nếu không tôi không thể bỏ sót. Hai tầng trên tàu đã bao gồm tất cả các hành khách lên tàu, tôi còn nhớ như in khuôn mặt hắn khi hắn vừa mở miệng chửi rủa người khác, gương mặt đó in hằn vào trong não bộ của tôi. Với những người sinh ra vào cuối tháng 10 đến tháng 11, ngoài tính háo sắc ra thì họ còn thù lâu nhớ dai nữa, còn có cả đạo lý như vậy đó. Xem ra, đúng là tôi suy nghĩ hơi quá rồi.
Nhà vệ sinh lại có nhóm người xếp hàng bởi trên tàu chỉ có đúng một nhà vệ sinh đơn. Tôi nhận thức được sâu hơn về tính quan trọng của kế hoạch hóa gia đình: Người đâu mà lắm đến vậy, sốt ruột đến chết mất thôi.
Trong sách giáo khoa có nói đến sáu yếu tố du lịch gì gì đó bao gồm ăn, ở, đi lại, tham quan, mua sắm, vui chơi giải trí, đó đơn thuần chỉ là chuyện tán gẫu lung tung. Chụp ảnh, ăn ngủ và tiểu tiện mới là ba chủ đề vĩnh cửu xuyên suốt toàn bộ tuyến chính của ngành du lịch.
Sau khi rời bến thuyền, tôi và A Tam gọi điện cho Millea. Đầu dây bên kia tự động chuyển đến hộp thư thoại, thông báo Millea đã tắt máy. Anh ta đang làm cái gì vậy? A Tam rút máy điện thoại ghi chép lại hành trình du lịch trong phần ghi nhớ, rồi cậu ấy lẩm bẩm đọc: “Nhất định phải đến khu phố Tàu, nhất định phải đến khu chợ trời, còn có…”.
“Ha ha, hai chỗ cậu nói tôi đều thấy rất có hứng thú. Cậu có đói không ?”.
A Tam xoa xoa bụng, trả lời dứt khoát: “Đói!”.
“Vậy chúng ta đi thôi, đến khu phố Trung Quốc ăn cái gì đó thật ngon”. A Tam vô cùng thích thú khi nghe thấy điều này, có hẳn một người Trung Quốc đích thực chỉ dẫn thì chuẩn không cần chỉnh.
Thực ra ở New York có hai khu phố Trung Quốc, một cái nằm ở cuối phía Nam Manhattan, rất gần chỗ chúng tôi. Cái còn lại quy mô lớn hơn, nhưng phải ngồi xe ít nhất bốn mươi phút nữa mới tới, nên tôi quyết định chọn khu phố gần chỗ chúng tôi nhất. Về sau nghe nói ở bên kia khu phố Trung Quốc náo nhiệt và sinh động hơn rất nhiều, làm cho tôi hối hận mãi không thôi.
Đi qua mấy trạm tàu điện ngầm, lúc bước ra đã đến khu phố Trung Quốc. Hóa ra nó không chỉ cách có một con phố, mà có thể coi là một khu phố thì đúng hơn, nhưng nó cũ kỹ và nhếch nhác hơn nhiều so với những gì tôi tưởng tượng. Những biển hiệu quảng cáo bằng đèn neon đơn điệu không rực rỡ lộng lẫy như ở Hồng Kông, đèn điện bên trong các hàng quán nhỏ không đủ chiếu sáng, mức độ như dừng lại ở niên đại Trung Quốc vừa mới giải phóng. Có điều cũng phải thôi, phong trào di dân sục sôi đã qua rồi, lớp người nhiệt liệt xây dựng lên chỗ này hồi đầu tiên, hầu hết đã ở độ tuổi gần đất xa trời.
Tôi và A Tam vác bụng đói lượn quanh một vòng. Nhà hàng Tứ Xuyên, nhà hàng Hồ Nam, quán vịt Bắc Kinh, cửa hàng trà sữa,… thậm chí ở đây còn có cửa hàng bánh ngọt phương Tây bán bánh trứng (egg tart) và bánh mỳ dứa (pineapple bun) (Gọi là cửa hàng bánh ngọt phương Tây, nhưng không biết vì sao tôi lại chưa từng nhìn thấy ở chỗ nào khác ngoài khu vực phố Trung Quốc ra). Tôi nhìn các quán ăn thèm đến nỗi hai con mắt cứ vươn thẳng ra, nuốt nước bọt ừng ực.
Sau khi đi dạo một lượt, chúng tôi quyết định dừng chân tại một nhà hàng lẩu tự chọn có tên là “Nhà hàng 99”. Mặc dù bây giờ A Tam đã dần quen với cách sử dụng bộ đồ ăn, nhưng nét đặc sắc của dân tộc là dùng tay để ăn bốc thi thoảng vẫn tái diễn chứng nào tật nấy. Nghĩ đến việc tôi phải khó khăn lắm để chống chọi với cái rét ở đây, lại còn dẫn theo A Tam - một người luôn sẵn sàng ăn bốc nếu không có sự giám sát của tôi nên tôi tự tin đi thẳng vào nhà hàng lẩu không chút do dự.
Tôi chọn cho A Tam nước lẩu cà ri, còn tôi chọn nước lẩu uyên ương. Chỉ trong vòng vài phút tôi đi pha nước tương, không có thời gian để mắt tới A Tam thế là cậu ta đã nhanh mắt gọi tất cả các món có trong menu mỗi món hai suất. Sau khi quay lại tôi trông thấy bốn năm cái đĩa như những cái chậu nhỏ bày trên bàn, thức ăn trong đó chất lên thành ngọn núi nhỏ. Trên đỉnh đầu tôi hiện ra một đám mây đen chuẩn bị sấm chớp đến nơi.
Gần hai tiếng tiếp theo, tôi và cậu ta đều đang cố tiêu diệt mấy ngọn núi nhỏ kia. Đến khi tôi bê cái bụng tròn vo như quả bóng đẩy cửa bước ra, trong bụng thầm nghĩ bữa ăn no nên hết 58 đô cộng với tiền tip quá là có giá trị. Nhìn sang A Tam đi với bộ dạng kiểu không hối tiếc, bây giờ mặt mũi tươi tỉnh hạnh phúc rồi, dù chỉ có một chiếc giường để ngủ, tôi cũng không còn trách cậu ấy nữa. Haizz, câu này nghe thế nào cũng thấy kỳ kỳ.
Người Mỹ rất lười, người Hoa sống trên đất Mỹ cũng vậy, giờ vẫn còn sớm, vậy mà đã kéo cầu dao đóng cửa rồi. Tôi nhìn qua mới thấy hơn 9 giờ. Tôi thúc giục A Tam đang lết từng bước một rất khó khăn, mau chóng đến cửa hàng trà sữa mua trà bí đao trước khi họ đóng cửa. Dân lấy thức ăn làm trời, cái này sao có thể trách tôi đây. Chúng tôi cầm hai cốc trà nhanh chóng đi đến cửa ga tàu điện ngầm, chợt có một bóng người xuất hiện, chặn trước mặt chúng tôi. Đèn đường ở phố bên này cũng đồng thời nhấp nháy vài cái, sau đó mới trở về trạng thái bình thường. Tôi phả ra một hơi thở lạnh, tay phải kéo A Tam lùi lại hai bước, tay trái thò vào trong ngực.
Bóng người đó, chính là chủ cửa hàng ở trạm dừng chân đã chửi rủa chúng tôi hôm nay, và cũng là người bị tôi nhục mạ lại, con ác quỷ đó. Hắn vẫy tay về phía chúng tôi, rồi lại chỉ chỏ ở phía sau lưng chúng tôi. Tôi không nhúc nhích, ngược lại A Tam nhanh chóng ngoái đầu lại. Tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang kéo tay áo tôi xuống dưới, tôi quay một nửa đầu, chỉ thấy phía đằng sau cũng có một bóng người đang đứng như thế.
Cái người đó dường như xuất ra vài bước chân về phía trước một cách rất lịch sự, dịch chuyển đến chỗ đèn đường có thể chiếu tới. Tôi lập tức nhận ra hắn, chính là người đã ở trên tàu chiều nay.
Đó là một khuôn mặt người Trung Quốc.
Hắn khi đó cũng ở tầng trên boong tàu, liên tục dùng khăn giấy để xì mũi, đến nỗi mũi đỏ ửng lên như người bị bệnh đỏ mũi, dáng vẻ mệt mỏi suy nhược, hơn nữa còn có một cô gái vỗ về sau lưng hắn rất nhẹ nhàng. Lúc đi lên cầu thang, người đầu tiên tôi nhìn thấy chính là hắn, nhưng tôi lại hoàn toàn không để ý đến, chỉ nghĩ rằng nên lịch thiệp tránh xa nếu không lại sợ bị lây nhiễm. Là tôi quá sơ suất rồi. Hắn lúc này đây, đâu có vẻ gì là ốm đau dặt dẹo.
Thật không ngờ chúng tôi thiếu kinh nghiệm sống, nên chẳng mấy chốc đã bị hai con quỷ bao vây. A Tam khẽ nói bên tai tôi: “Ban nãy tôi còn trông thấy trên phố có vài người đi lại, chỉ trong thời gian ngắn như vậy, mà tất cả các hàng quán đều đóng cửa, ngoài chúng ta ra, còn lại không có một ai”. Tôi nhìn lại, quả đúng là như vậy.
Tôi dựng hết cả tóc gáy, lần trước từng thấy Millea đối phó với con thú ma, nhưng ác quỷ thì đây là lần đầu tiên chạm mặt. Ban ngày chúng tôi đã quá lỗ mãng, trái lại còn làm hỏng chuyện lớn. Sự việc đến ngày hôm nay, chúng tôi chỉ biết khẩn cầu thứ duy nhất trên người có thể nương tựa - con dao bạc của Millea đưa cho, chí ít cũng chống đỡ được một lúc.
Tôi nhanh chóng móc con dao từ trong túi, nhét vào bên trong cổ tay áo khoác. A Tam thấy tôi không có vũ khí phát sáng, nhìn đối diện mặt tôi một lúc, và đã hiểu dụng ý của tôi. Đối phương có thể không biết chúng tôi có cái này, khi chúng tôi đột phá vòng vây trong thời khắc quan trọng, có thể nó sẽ trở thành một con chíp đánh bài hữu dụng. Bây giờ đánh cược, chính là nó có hiệu quả hay không. Mẹ kiếp, giữ con dao trong tay bao lâu nay, tại sao tôi không tìm hiểu rõ xem trên con dao rốt cuộc là hoa văn hình gì? Tôi tự chửi bản thân.
Về mặt biểu hiện, tôi vẫn giả bộ điềm tĩnh như thường. Hai tên một trước một sau đều cách chúng tôi xấp xỉ 10 mét, ánh đèn lại tối dần đi, cho dù tôi giả bộ không giống đi chăng nữa, bóng tối cũng có thể giúp tôi che đậy. Chỉ là nếu như bọn chúng giở trò, cộng với khả năng nhìn trong bóng đêm, vậy thì tôi không còn gì để nói, chỉ có thể nghe theo số phận ông trời đã định.
Trong chốc lát, tôi và A Tam không biết phải đối mặt với phía nào, mà trên con phố này không có cái hẻm nào cắt ngang qua để chúng tôi chui vào đó tẩu thoát. Chúng tôi dần dần dựa vào cánh cửa cuốn của một cửa hàng, sau đó lần lượt nhìn về từng phía. Bọn chúng cũng dần dần tiến lại chỗ chúng tôi, lại có vẻ như hơi lo lắng.
Không có lý do gì, trái tim vốn đang đập nhanh liên hồi “thùm thụp thùm thụp” lại dần chậm nhịp trở lại. Tên bệnh tật có khuôn mặt người Hoa kia sải bước, chỉ trong nháy mắt đã gần một nửa khoảng cách với chúng tôi. Gã chủ cửa hàng người Tây Ban Nha cũng y như vậy. Sau khi rút ngắn lại khoảng cách, bọn chúng lại tiếp tục tiến đến gần chúng tôi nhưng với vận tốc của người đi bộ bình thường.
Vóc dáng gã chủ cửa hàng hơi lùn và béo, tóc xoăn đen, mắt như hai hạt đậu, mũi giống y như đúc nhân vật Super Mario. Là mẫu người Nam Mỹ điển hình. Ngón tay ở bàn tay phải của gã đang gõ nhẹ lên đùi mình, cả người trông có vẻ ngắn ngủi với nét mặt hằm hằm đăm chiêu. Tên bệnh tật thì cao cao gầy gầy, bàn tay to như quạt lá cọ. Hai chân của hắn hơi giạng ra, chắp tay để trước háng, trông giống như vệ sĩ, lại vừa giống cầu thủ bóng đá đang làm hàng rào chắn.
Tôi tin nếu chúng tôi không ở vào tình cảnh như thế này, A Tam chắc chắn sẽ nói: “Hai người này đúng là một cặp trời sinh”.
Tuy tôi và A Tam chỉ là học sinh nghèo, nhưng học sinh nghèo không phải là đại từ thay thế cho sợ chết sợ phiền phức. Tôi liếc xuống dưới thấy tay của A Tam đang đút tùi quần, cánh tay khẽ run run. Chắc hẳn cậu ấy đang dùng sức để nắm chặt cán dao, chuẩn bị bộc phát bất cứ lúc nào. Bọn chúng đã tiến sát đến phạm vi tấn công của chúng tôi.
Lần này ông liều với hai tên chúng mày. Tôi huých củi chỏ vào A Tam, cậu ấy lẳng lặng hiểu ý, cả hai chúng tôi cùng lúc vung dao khua khoắng loạn lên. Là một người Trung Quốc có tâm huyết, tôi sẽ không bao giờ sát hại đồng bào của mình, thế nên đối thủ của tôi là kẻ thù cũ - lão chủ quán mập lùn.
Nhớ lại một số chiêu kungfu ngày trước từng học cùng chị Hiểu Hiểu, hồi đó cũng đã từng phát huy được tác dụng. Ngày đó có một thằng nhóc tên là Doãn Thành Nghiệp dám đến tè bậy vào cái giếng nước mà nhà tôi và mấy hộ gia đình khác sử dụng chung , bị tôi bắt gặp tại chỗ, và tôi đã đánh cho nó một trận. Thằng nhóc đó về gọi sáu bảy thằng khác đến báo thù, kết quả bị tôi và cô em gái Du Vân Vân nhà bên cạnh song kiếm hợp bích, xử lý đám nhãi con ngoan ngoãn phục tùng.
Còn về A Tam, nếu cậu ấy nói từng học qua võ thuật sẽ không phải là nói khoác, chúng tôi vẫn có hy vọng giết được bọn chúng. Nhát dao của tôi sượt qua cái bụng bia của lão chủ cửa hàng Mập Lùn kia. Gã đó trông nặng nề cồng kềnh, thực chất lại rất nhẹ nhàng linh hoạt, hắn rút về phía sau, rồi lẩn tránh. Chị Hiểu Hiểu nói: “Đánh nhau là đầu tiên hăng hái xung trận, rồi suy yếu, sau đó kiệt sức, nắm bắt cơ hội dồn kẻ thù vào chỗ chết và đánh”. Tôi ra đòn lia lịa, hắn né tránh tất cả. Dần dần, tôi cảm nhận được có gì đó không ổn, rõ ràng tốc độ ban nãy của bọn chúng nhanh như vậy, còn chúng tôi ngoài việc xuất chiêu một đòn giết chết bất ngờ ra, về căn bản là không thể thắng được bọn họ. Có khi nào hắn nhường chúng tôi? Tôi thầm nghĩ: Hứ, nếu bây giờ ông mày có thanh gươm Frostmourne trong tay, nhất định sẽ chém chết mày.
Tôi thử lui về phía sau. Quả nhiên, lúc tôi phản công để phòng thủ, hắn cũng không tranh đua lại. Tôi hết kiên nhẫn hét lên: “Scene, dừng tay lại”. Lúc quay đầu lại nhìn, bọn họ đều đã dừng lại rồi.
Sau mười mấy giây giằng co nhau, tên ác quỷ có bàn tay to như quạt lá cọ phá vỡ tình thế căng thẳng. Hắn gật đầu với chúng tôi, nói một câu: “Xin chào, rất vui được biết các cậu”.
Bầu không khí bỗng chốc trở nên vô cùng lạ thường. Tôi cảm thấy lòng rối như tơ vò, rốt cuộc là chuyện gì đây?
A Tam ngây thơ mở miệng : “Các người không phải là ác quỷ sao?”, thậm chí khi thấy gã tay to như quạt lá cọ tỏ ý vẫy tay, cậu ta cũng giơ bàn tay đeo đầy vòng của mình lên vẫy lại vài cái, gây ra tiếng kêu leng keng.
Tên tay to cười, lắc đầu phủ nhận. Hắn bước từ từ đến cạnh gã chủ cửa hàng, và nói: “Xin lỗi, trước đó chúng tôi cũng hơi mê muội, không biết các cậu là thuộc loại người gì”. Hắn vỗ lên vai bạn hắn và nói tiếp: “Lúc Voit gặp các cậu, đúng lúc tôi vừa ra ngoài mua đồ ăn cho anh ấy. Tính tình của anh ấy hơi nóng nảy, có thể lúc đó đã vô tình đắc tội với các cậu, tôi thay mặt anh ấy xin lỗi các cậu”.
“Hứ, bọn họ cũng chửi lại tôi rồi, chúng ta coi như hòa, Ngô à, anh không cần xin lỗi”, những người béo hầu hết đều có mặt mũi phúc hậu, hiền từ, nhưng gã Voit này không phải là người kiểu thế.
Ngô cười trừ: “Nghe Voit nói, các cậu còn trừ ma cho anh ấy nữa. Vốn dĩ anh ấy chỉ muốn đùa vui để xóa bỏ hiểu lầm, nhưng xem ra anh ấy thất bại rồi”. Phát âm Anh - Mỹ của Ngô nghe rất chuẩn, không biết anh ấy có biết nói tiếng Trung Quốc không.
Ngô nói tiếp: “Tôi trông thấy các cậu đọc chú trừ ma bên ngoài cửa hàng của chúng tôi, mặc dù chỉ có thể xua đuổi được những ma quỷ thông thường, nhưng đó là chính thống. Vùng lục địa Bắc Mỹ có rất nhiều người được gọi là pháp sư trừ ma, nhưng nói cho cùng cũng chỉ là đuổi ma mà thôi, còn hoàn toàn không tiếp xúc được với ác quỷ. Còn nữa, bọn chúng thực sự không xuất đầu lộ diện ở trên này rất lâu rồi”. Tôi và A Tam tự nhiên đều biết, ở trên này mà anh ấy nói đến chính là nhân gian.
Tôi nói: “Anh nói các anh không phải ác quỷ, vậy các anh là cái gì? Chẳng lẽ lại là thiên thần?”.
Voit lắc đầu, trả lời bằng giọng lớn tiếng cục cằn: “Thiên thần? Chúng tôi chỉ mới không phải thôi, còn đã từng”, gã đó chỉ vào chúng tôi, “Nhưng tôi không ngửi thấy mùi thiên thần trên cơ thể các cậu. Mặc dù anh ấy cố che giấu rất kỹ càng , hoặc bản thân anh ấy có đi qua trước mặt tôi cũng không thể nhận ra được, thế nhưng trên con dao của các cậu lại tỏa ra rất rõ”, quả nhiên là đã quan sát rất kỹ càng mới nói.
Lúc này Ngô lại cười phá lên. Tính cách vui vẻ lạc quan này, sao lại chẳng hợp chút nào so với ngoại hình cao gầy của anh ta chứ? Chậc, tính cách của hai người họ đáng lẽ phải chuyển đổi cho nhau, vậy thì chuyển đổi đi. Ngô nói: “Khứu giác của Voit có thể nói là siêu hạng rồi, cho nên các cậu không cần bận tâm. Thông thường thiên thần, ác quỷ… và cả chúng tôi đều rất khó để phát hiện ra. Giống như tôi, không thể nhận ra con dao đó của cậu có mùi lông vũ của loài chim”, tôi nhận ra anh ấy không thích thiên thần và ác quỷ.
Khi đó tôi và A Tam đều ngẩn người ra. Bởi vì sau khi khen ngợi Voit, bàn tay to của Ngô dụi dụi mái tóc xoăn của đối phương một cách đầy yêu chiều. Oh my god, lượng thông tin này quá lớn. A Tam ghé sát vào tôi và nói: “Hai người này đúng là một cặp trời sinh”. Quả nhiên, đứa trẻ chịu ảnh hưởng sâu sắc của đất nước mình, thì sẽ có đức hạnh này.
Tôi lại khơi ra vấn đề ban nãy một lần nữa: “Đừng nói đông nói tây nữa. Cuối cùng thì các anh là cái gì?”, tôi sử dụng từ nghi vấn, là What (cái gì), chứ không phải Who (ai).
“Dẫn chúng tôi đến gặp thiên thần mà cậu đang gặp gỡ, đến lúc đó tôi sẽ nói”, bàn tay to nở nụ cười thiện chí, khiến người ta khó lòng từ chối.
Vừa hay đúng lúc đó, chuông điện thoại trong túi tôi vang lên. Tôi cầm điện thoại lên xem, chính là Millea. Tôi nheo mắt nhìn thời gian bên góc phải màn hình, đã là 10 giờ 30 phút muộn như vậy rồi. Tôi nhìn tiếp sang hai bóng dáng khác hẳn nhau, sau đó nhận điện thoại.
Ở đầu dây bên kia Millea có vẻ đang rất thích thú nói: “Các tiểu đệ, muộn rồi vẫn chưa về sao. Tàu điện ngầm sắp đóng cửa rồi đó, tôi phải nói trước, các cậu ăn chơi quá đà, nếu quá tiền bắt taxi là tôi không thanh toán cho đâu”.
Tôi không biết phải nói gì với anh ấy. Tôi cũng không biết nếu để họ gặp Millea có phải là lựa chọn đúng đắn không. Nếu chúng tôi từ chối yêu cầu của đối phương, có phải chúng tôi sẽ tự đặt mình vào tình huống nguy hiểm không ? Trong lúc tôi đang suy nghĩ cân nhắc, A Tam giằng lấy điện thoại, nói: “Millea, ở đây có hai người đang cản trở chúng tôi, họ nói muốn gặp anh”.
Kẻ phá hỏng chuyện lớn, chính là A Tam. Nhưng dù gì cậu ấy cũng nói rồi, cũng đành phải như vậy thôi. Hiệu quả cách âm ở điện thoại của tôi không tốt lắm, tôi đứng cách đó, mà vẫn nghe thấy Millea hỏi A Tam về vị trí hiện tại chỗ chúng tôi đang đứng.
“Dẫn họ về trước đi. Phần còn lại để tôi xử lý. Nếu họ đã muốn gặp tôi, thì trước khi không biết vị trí của tôi, chắc chắn sẽ không làm hại đến các cậu”, mặc dù giọng điệu của anh ấy rất nghiêm túc, nhưng cái từ “chắc chắn” nghe như đang lôi chúng tôi ra làm trò đùa.
Tôi đang định ngoác mồm lên chửi thì A Tam đã tắt máy. Ngô vẫn giữ dáng vẻ nho nhã lịch sự, đợi chờ câu trả lời của chúng tôi. Voit có phần hơi sốt ruột, gõ mũi chân xuống đất, anh ta nhìn Ngô, nhưng không nói gì. Tôi thở dài: “Đi theo chúng tôi đi, tàu điện ngầm sắp đóng cửa rồi, chúng ta phải tranh thủ thời gian”. Bọn họ gật đầu, đi theo sau chúng tôi. A Tam đi đằng trước ngoái đầu lại nói một câu: “Thiên thần mà các anh muốn gặp, nhưng lại là con quỷ keo kiệt không muốn thanh toán ngay cả tiền taxi”.
Tất cả cười ầm lên. Lên đến tàu điện ngầm, trong toa xe đã rất vắng người, lúc gần đến điểm dừng , thi thoảng lại có tiếng kêu “chít chít” và tiếng chuột chạy đạp lên túi ni lông. Rõ ràng chúng tôi ngồi đúng tàu đi về hướng Bắc, vậy mà chuyến tàu chết tiệt này lại đổi đường ray, vượt qua bến dừng nhỏ ở 103rd St gần chỗ chúng tôi nhất. Lúc xuống điểm dừng , chúng tôi còn phải đi bộ thêm một bến nữa, nhưng bàn tay to và chủ cửa hàng mập lùn Voit vẫn đi theo sau chúng tôi như ban đầu, và không hề oán thán câu nào. Voit có vẻ im ắng , còn Ngô thân thiết góp thêm vài câu tràng giang đại hải về chuyện gia đình với chúng tôi.
Tôi nghĩ lại tình hình lúc chiều, quay ra vừa đi vừa hỏi Voit: “Phải rồi, anh nói các anh không phải ác quỷ, nhưng lúc chiều cả tôi và A Tam đều ngửi thấy mùi lưu huỳnh, tại sao vậy?”, hỏi xong tôi mới nhớ ra, thôi chết, vẫn còn chưa thấy chỗ dựa vững chắc, đã lại chọc ghẹo hai thứ chưa rõ thân phận đang đi phía sau, chúng tôi có thể sẽ thành xác chết đầu đường mất thôi.
Nào ngờ Voit lại lên tiếng rất nhẹ nhàng : “Không sao, lúc sáng sớm tôi vừa mới giết chết một con cánh đen rồi, chỉ là tôi vứt cái vỏ bọc bên ngoài của nó dưới tủ quầy thôi”, sau đó, không khí im ắng càng trở nên khó xử.
Lúc đi qua ngã tư, tôi trông thấy Millea đang ngồi ăn salad macaroni ở quán Deli cạnh nhà trọ, rõ ràng là đang đợi chúng tôi. Tôi vừa nhìn đã thấy, ở phía bên phải cổ của Millea, anh ấy đã xăm lại hình hai chữ “bầu trời xanh”, tuy lần này chữ có xấu hơn. Millea tương đối bình tĩnh, dường như đã sớm có dự tính sẵn đối với hai người đến thăm này. Ngược lại, hai vị khách kinh ngạc sửng sốt đến nỗi thất thần. Ánh mắt của tôi vô tình lướt qua gương mặt của họ, tôi gần như trông thấy chỉ trong thời gian ngắn, mà họ đã trải qua hàng loạt những hoạt động tâm lý. Vừa bắt đầu chỉ trong nháy mắt, thậm chí tôi còn nhìn thấy một chút sự oán hận trong ánh mắt của Voit.
Millea giơ chiếc dĩa nhựa ra hiệu cho hai người phía sau chúng tôi, sau đó cúi đầu ăn nhanh đĩa salad. Lúc anh ấy vẫn nhồm nhoàm miếng cuối cùng, bảo chúng tôi đi mua bia. A Tam ra tủ lạnh lấy bia Tiger.
Có vẻ Millea không lấy làm lạ khi gặp hai người kia, anh ấy lịch sự bắt tay giống như người bình thường lần đầu gặp mặt, rồi chỉ về phía Đông và nói: “Ngã tư trước mặt có một công viên tên là Hell Kitchen (Phòng bếp địa ngục), chúng ta đến đó ngồi uống chút gì và nói chuyện”.
Công viên quy mô nhỏ vốn dĩ là thuộc quyền sở hữu của tư nhân, bây giờ đã đóng cửa rồi. A Tam đành phải lấy bia đặt vào trong từ gióng rỗng có viền sắt, sau đó từng người một trèo tường vào. Lúc chúng tôi còn chưa kịp phản ứng gì, Millea đã nhanh như chớp đá vào huyệt thái dương của Ngô từ một góc cao.
Ngô lập tức một tay đưa lên chặn lại từ bên mặt, Millea đột nhiên rút chân lại, nhẹ nhàng chạm xuống đất, cả người bổ nhào về phía Voit như ngôi sao băng. Lần này anh ấy tung nắm đấm, anh ấy và Voit mặt đối mặt, hướng tấn công lại vòng ra sau lưng.
Cả người Voit trọng tâm đứng vững , thân thể mập lùn nhanh chóng né qua hướng bên kia của nắm đấm. Millea lùi lại thu chiêu về, cười thoải mái. Anh ấy hỏi kiểu thăm dò: “Các anh là người trung lập ư?”.
Ngô và Voit dường như không để tâm chuyện vừa nãy, Ngô tươi cười khen ngợi, rồi gật đầu.
Trong câu chuyện của họ, tôi và A Tam cũng dần hiểu ra một số vấn đề. Hóa ra, hai người trước mặt chúng tôi, cũng được tính là thiên thần.
Nghiêm túc mà nói, họ không được tính là phe thiên đường, cũng không phải thuộc phe địa ngục. Millea giảng cho chúng tôi, bọn họ được coi là “Angels without wings” (Thiên thần không có cánh), cho nên nói tiếng Anh vẫn là phức tạp rườm rà, nếu dùng tiếng Trung để biểu đạt, gọi là “thiên thần gãy cánh” là đúng nhất.
Hồi đó thiên đường xảy ra biến đổi, có một phần ba số thiên thần đi theo Lucifer trở thành ác quỷ, nhưng cuối cùng, số thiên thần trải qua sự sa ngã không chỉ dừng ở con số đó. Thiên đường gọi tất cả những thiên thần sa ngã là kẻ phản thần. Tuy nhiên trên thực tế, ngoài những thiên thần đi theo Lucifer ra, vẫn có những kẻ phản thần như Voit và Ngô, trở thành một phần thế lực trung lập lỏng lẻo.
Hai người họ kéo quần xuống một chút, để chúng tôi nhìn thấy bên eo trái gần xương chậu có khắc phù hiệu trung lập. Trông nó hơi giống logo đăng ký thương hiệu trên góc phải của nhãn hiệu sản phẩm nào đó, chỉ là chữ R bên trong đổi thành chữ N, có người ở đầu ngón trỏ và ngón cái khép vòng lại thành hình tròn. Đó là cách viết tắt chữ “trung lập” tiếng Latin. Tôi không quản được tư duy của mình, lập tức liên tưởng đến cái gióng N bên trong xe ô tô để tự động ngăn cản.
Ngô cười và nói: “Phù hiệu này mỗi người trong đồng bào của chúng tôi đều có, là dấu khắc in sâu vào xương tuỷ. Nếu linh hồn của kẻ phản thần nào đó trong số chúng tôi quay trở về địa ngục, dấu khắc này sẽ bị bóc xóa trong cơn đau như xé tim rách phổi. Còn nếu trở lại thiên đường thì…”, anh ấy thở dài, “có lẽ là quá khả năng mất…”, theo như tôi thấy, nên gọi họ là người trung lập thì thích hợp hơn.
Ngô và Voit là những người trung lập đơn lẻ một mình, trên thực tế hầu hết những người trung lập trên Trái Đất đều đi bộ, cách này nhằm che giấu trong đám đông. Họ tự thành một nhóm, nhưng vẫn dựa theo tính chất thiên thần của mình, để diệt ác trị gian duy trì trật tự thế giới.
Những mối quan hệ phức tạp trên thiên giới, khiến tôi không khỏi nghĩ thầm trong bụng : “Vòng tròn hỗn loạn”.