• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tự do đầu tiên và cuối cùng
  3. Trang 15

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 64
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 64
  • Sau

Chương 11Tính đơn giản

T

ôi muốn thảo luận về tính đơn giản, và có lẽ từ đó đi đến chỗ khám phá tính nhạy cảm. Dường như chúng ta nghĩ rằng đơn giản thuần túy là sự thể hiện ra bên ngoài, một trạng thái ẩn dật: ít sở hữu vật chất, không cần quần áo rườm rà, chỉ đóng khố là đủ, không nhà cửa, tài khoản ngân hàng chỉ có chút ít. Chắc chắn đó không là giản dị mà chỉ thuần túy là biểu hiện bên ngoài mà thôi. Đối với tôi, đơn giản rất cần thiết. Nhưng sự đơn giản chỉ có thể hiện hữu khi nào chúng ta bắt đầu hiểu được ý nghĩa của việc tự biết mình.

Đơn giản không chỉ là sự điều chỉnh theo khuôn mẫu nhất định. Phải rất thông tuệ mới có thể đơn giản hóa, chứ không chỉ là tuân thủ một khuôn mẫu cụ thể nào đó, dù nhìn bên ngoài có đáng giá đi nữa. Nhưng thật không may, đa phần chúng ta đều bắt đầu bằng sự đơn giản bề ngoài, bằng những thứ ngoại tại. Chuyện sở hữu thật ít vật chất và hài lòng với chúng tương đối dễ dàng, cũng chẳng khó để thỏa mãn với những thứ tối thiểu và có lẽ còn chia sẻ những thứ tối thiểu đó với người khác. Nhưng một biểu hiện tính đơn giản thuần túy bề ngoài về đồ đạc, về sự sở hữu thì chắc chắn không chứng tỏ được sự đơn giản của nội tâm. Bởi vì trong thế giới lúc này, ngày càng có nhiều thứ lôi cuốn chúng ta, từ bên ngoài, ngoại tại. Đời sống ngày càng phức tạp. Để thoát khỏi điều đó, chúng ta phải cố gắng từ bỏ hoặc tránh xa vật chất – tránh xa xe cộ, nhà cửa, xa các tổ chức, xa phim ảnh và vô số hoàn cảnh bên ngoài tác động lên chúng ta. Chúng ta nghĩ bằng cách thoát ly khỏi cuộc sống, mình sẽ đơn giản. Rất nhiều vị thánh, rất nhiều tu sĩ, giáo sĩ đã từ bỏ thế gian. Theo ý tôi, việc thoát ly thế tục như vậy đối với bất cứ người nào trong chúng ta đều không giải quyết được vấn đề. Tính đơn giản, vốn rất cơ bản và thực tế, chỉ có thể hiện hữu trong nội tâm, và tự phóng chiếu ra ngoài. Thế nên, việc làm thế nào để đơn giản hóa mới là vấn đề, bởi vì sự chính sự đơn giản khiến cho người ta ngày càng nhạy cảm hơn. Và một tâm trí nhạy cảm, một trái tim nhạy bén là điều cần thiết, vì lúc đó, nó mới có khả năng nhận thức nhanh nhạy, tiếp thu nhanh chóng.

Chắc chắn người ta chỉ có thể đơn giản từ bên trong khi hiểu được vô số trở ngại, ràng buộc, nỗi sợ mà mình bị mắc kẹt trong đó. Song đa phần chúng ta thích bị ràng buộc – bởi con người, bởi tài sản vật chất, bởi những tư tưởng. Chúng ta thích là tù nhân. Từ bên trong, chúng ta là những tù nhân, dù ở bề ngoài, chúng ta có vẻ rất đơn giản. Trong thâm tâm, chúng ta là tù nhân cho những khao khát, những mong muốn của mình, cho các lý tưởng và vô số động cơ thôi thúc. Không thể nào tìm thấy sự đơn giản, trừ phi người ta có được tự do nội tại. Chính vì vậy, chúng ta phải bắt đầu ở nội tâm, chứ không phải từ ngoại giới.

Người ta sẽ có được một sự tự do phi thường khi hiểu toàn bộ diễn tiến của niềm tin, lý do tại sao tâm trí bị dính mắc vào một niềm tin. Khi thoát khỏi niềm tin, sự đơn giản sẽ hiện diện. Nhưng tính đơn giản đòi hỏi sự thông tuệ, và để trở nên thông tuệ, người ta phải nhận ra những trở ngại của riêng mình. Và để nhận thức được điều đó, người ta phải không ngừng tỉnh giác, không rơi vào một lối mòn cụ thể nào, không mắc kẹt vào một khuôn mẫu riêng biệt nào về tư tưởng hay hành động. Suy cho cùng, cái gì ở bên trong sẽ phát tiết ra bên ngoài. Xã hội, hoặc bất cứ dạng hành động nào cũng đều là sự phóng chiếu của chính chúng ta, và nếu không có sự biến chuyển nội tâm, mà chỉ đơn thuần áp dụng luật pháp ở bề ngoài thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Điều đó có thể mang lại những sự cải cách, điều chỉnh nào đó, nhưng những gì trong thâm tâm con người luôn luôn vượt qua ngoại giới. Hay nói cách khác, nếu một người với tâm địa đầy ham muốn, đầy tham vọng, theo đuổi những lý tưởng nào đó, thì sự phức tạp nội tâm đó cuối cùng sẽ làm rối tung, gây hủy hoại xã hội bên ngoài, dù cho họ có thể tính toán cẩn thận đi nữa.

Do đó, người ta phải bắt đầu từ bên trong – mà không độc đoán, không từ chối ngoại giới. Bạn thâm nhập nội tâm chắc chắn là bằng sự hiểu biết thế giới bên ngoài, bằng cách khám phá làm thế nào sự xung đột, tranh chấp, nỗi đau khổ lại hiện hữu ra bên ngoài. Khi càng nghiên cứu nó nhiều hơn, thì tự nhiên người ta càng đi vào trạng thái tâm lý sản sinh ra những xung đột và nỗi đau khổ ngoại tại. Sự thể hiện ra bên ngoài chỉ là một dấu hiệu của trạng thái bên trong chúng ta, nhưng để hiểu trạng thái nội tại đó, người ta phải tiếp cận thông qua ngoại giới. Đa số chúng ta đều làm như vậy. Nếu hiểu nội tâm – không độc đoán, không từ chối ngoại giới, mà bằng cách hiểu thế giới bên ngoài để từ đó thâm nhập nội tâm – thì chúng ta sẽ thấy rằng, khi tiến hành nghiên cứu những phức tạp nội tại của bản thể, chúng ta ngày càng trở nên nhạy cảm và tự do. Sự đơn giản nội tâm này thật sự rất cần thiết, bởi vì sự đơn giản đó tạo nên tính nhạy cảm. Một tâm trí không nhạy bén, không tỉnh giác, không nhận thức được thì không có bất cứ khả năng lãnh hội nào, bất cứ hành động sáng tạo nào. Việc tuân theo khuôn mẫu như là phương tiện làm chúng ta trở nên đơn giản thực ra chỉ khiến tâm trí và trái tim mờ đục, xám xịt, vô cảm. Bất cứ hình thức cưỡng chế chuyên quyền, độc đoán nào của chính phủ, của chính mình, của lý tưởng về sự thành công, vân vân – bất cứ dạng thức tuân thủ nào cũng đều khiến tâm trí trở nên vô cảm, chứ không tạo nên sự đơn giản ở nội tâm. Nếu xét bề ngoài, bạn có thể tuân thủ khuôn mẫu và có vẻ như đơn giản, giống như rất nhiều người có tôn giáo. Họ hành trì nhiều giới luật khác nhau, gia nhập nhiều tổ chức khác nhau, tọa thiền theo kiểu nào đó, vân vân – tất cả điều đó đều tạo nên vẻ ngoài đơn giản, tuy nhiên sự tuân thủ như vậy không tạo nên sự đơn giản. Và sự ép buộc ở bất cứ dạng thức nào cũng không bao giờ có thể dẫn tới sự đơn giản. Ngược lại, bạn càng cấm đoán, càng thay thế, càng cố trở nên trong sạch, thì bạn càng ít đơn giản. Nhưng bạn càng hiểu quá trình cấm đoán, thay thế và trong sạch hóa, thì khả năng đạt tới tính đơn giản càng lớn hơn.

Các vấn đề của chúng ta – về xã hội, môi trường, chính trị, tôn giáo – đều phức tạp tới mức chúng ta chỉ có thể giải quyết chúng bằng cách đơn giản hóa, chứ không phải bằng cách trở nên uyên bác và thông minh phi thường. Một người đơn giản sẽ nhìn vấn đề trực tiếp hơn nhiều, sẽ có trải nghiệm trực tiếp hơn so với một người phức tạp. Trên thực tế, tâm trí của chúng ta bị chất đầy vô vàn kiến thức về các sự kiện, về những gì người khác từng nói, tới mức chúng ta trở nên không còn khả năng đơn giản hóa và tự mình có thể trải nghiệm trực tiếp nữa. Những vấn đề này đòi hỏi một cách tiếp cận mới. Và chúng ta chỉ có thể tiếp cận chúng khi nào trở nên đơn giản, thực sự giản dị từ bên trong. Tính đơn giản đó chỉ xuất hiện thông qua việc tự biết mình, thông qua sự hiểu biết chính mình. Cách tư duy và cảm nhận của chúng ta, các động thái tư duy, những phản ứng của chúng ta, cách chúng ta tuân phục vì sợ hãi với công luận, với những gì người khác nói, những gì Phật, Chúa, các thánh nhân vĩ đại đã dạy – tất cả đều cho thấy chúng ta có bản tính tuân phục để được an toàn, để được bảo đảm, chắc chắn. Khi mưu cầu sự an toàn, người ta hiển nhiên đang ở trong trạng thái sợ sệt, và do đó họ không có sự đơn giản.

Khi không đơn giản thì người ta không thể nhạy cảm – đối với cây cối, đối với chim chóc, đối với núi non, với gió, với vạn vật đang diễn ra quanh ta trên thế giới. Nếu không có tính đơn giản, người ta không thể nhạy cảm trước sự gợi ý thầm kín của các sự vật. Đa phần chúng ta sống rất nông cạn, chỉ sống trên thượng tầng ý thức. Ở đó, chúng ta cố gắng trở nên thâm trầm hoặc thông tuệ, cũng đồng nghĩa với tu hành. Ở đó, chúng ta cố làm cho tâm trí trở nên đơn giản, thông qua sự cưỡng ép, thông qua kỷ luật. Nhưng đó không phải là sự đơn giản. Khi chúng ta bắt buộc tâm trí thượng tầng trở nên đơn giản, thì sự cưỡng chế như vậy chỉ làm tâm trí thêm cứng nhắc, khiến nó không thể uyển chuyển, thanh khiết, tinh nhanh. Đơn giản hóa toàn thể, toàn bộ quá trình ý thức của chúng ta là một điều vô cùng gian nan, bởi vì bạn không được có sự giới hạn bên trong, mà phải hăng hái khám phá, tìm hiểu quá trình của bản thể – nghĩa là tỉnh thức với từng gợi ý, từng manh mối; để nhận thức được những nỗi sợ hãi, niềm hy vọng của chúng ta, để nghiên cứu và càng thoát ra khỏi chúng. Chỉ lúc đó, khi tâm trí và trái tim đều thực sự đơn giản, không bị che phủ, thì chúng ta mới có thể giải quyết nhiều vấn đề mà chúng ta đang đương đầu.

Kiến thức sẽ không giải quyết được những vấn đề của chúng ta. Chẳng hạn, bạn có thể biết rằng liệu có sự tái sinh hay không, rằng có sự tiếp nối sau khi chết hay không. Bạn có thể biết, tôi không nói là bạn biết, hoặc bạn có thể tin chuyện đó. Nhưng điều này không giải quyết được vấn đề. Lý thuyết của bạn, kiến thức hay lòng tin của bạn không thể xếp loại cái chết được. Nó bí ẩn hơn nhiều, sâu sắc hơn nhiều, sáng tạo hơn nhiều so với cách sắp xếp đó.

Người ta phải có khả năng nghiên cứu tất cả những điều này theo một cách mới mẻ. Bởi vì chỉ thông qua sự trải nghiệm trực tiếp thì những vấn đề của chúng ta mới được giải quyết, và để có sự thể nghiệm trực tiếp, thì phải có tính đơn giản, tức là phải có sự nhạy cảm. Tâm trí đã trở nên tăm tối do kiến thức đè nặng. Tâm trí đã trở nên vô minh bởi quá khứ, bởi tương lai. Chỉ tâm trí nào có thể liên tục tự điều chỉnh chính nó hướng về hiện tại trong từng khoảnh khắc mới có thể đáp ứng được những ảnh hưởng và áp lực mạnh mẽ không ngừng tác động lên chúng ta từ môi trường xung quanh.

Do đó, một người tu hành thực ra không phải là người mặc áo tu hay đóng khố, hoặc chỉ ăn một bữa mỗi ngày, hoặc lập vô số thệ nguyện rằng phải thế này và không thế kia, mà cần đơn giản từ bên trong, chứ không cần trở thành bất cứ thứ gì. Một cái tâm như vậy sẽ có khả năng tiếp thu phi thường, bởi vì nó chẳng có chướng ngại nào, chẳng sợ hãi gì, và chẳng hướng tới điều gì cả. Do đó, nó có thể tiếp nhận ân điển, Thượng Đế, chân lý, hoặc bất cứ thứ gì bạn thích. Song một cái tâm đang theo đuổi thực tại thì không phải là tâm trí đơn giản. Một tâm trí đang tìm kiếm, lục soát, mò mẫm, bị kích động thì không phải là tâm trí giản đơn. Một tâm trí tuân thủ bất cứ khuôn mẫu quyền uy nào, dù nội tại hoặc ngoại tại, thì cũng không thể nhạy cảm. Và chỉ khi tâm trí thực sự nhạy cảm, tỉnh giác, nhận thức được tất cả những gì đang vận hành trong chính nó, các phản ứng, tư tưởng của riêng nó, khi nó không còn trở nên, không còn tự định hướng chính nó để trở thành thứ gì đó – chỉ lúc đó, nó mới có khả năng tiếp thu cái được gọi là chân lý. Chỉ lúc đó mới có thể có hạnh phúc, bởi vì hạnh phúc không phải là sự kết thúc – nó là kết quả của thực tại. Khi tâm trí và trái tim trở nên đơn giản, và nhờ đó, trở nên nhạy cảm – không phải thông qua bất cứ dạng thức ép buộc nào, định hướng hoặc áp đặt nào – thì chúng ta sẽ thấy rằng những vấn đề của mình có thể được xử trí rất đơn giản. Tuy nhiên, dù vấn đề có phức tạp đi nữa, chúng ta cũng có thể tiếp cận chúng theo cách mới mẻ và nhìn nhận chúng một cách khác biệt. Đó là điều được mong muốn ở hiện tại: Những người cần có khả năng đương đầu với sự hỗn loạn, bất ổn, phản kháng ở bên ngoài theo một cách khác, sáng tạo và đơn giản – chứ không phải bằng những lý thuyết hay công thức, dù của cánh tả hay cánh hữu. Bạn không thể đối mặt với nó theo cách khác nếu bạn không đơn giản.

Vấn đề chỉ có thể được giải quyết khi chúng ta tiếp cận nó theo cách đó. Chúng ta không thể tiếp cận nó theo một cách khác nếu cứ mải suy nghĩ tới các khuôn mẫu nào đó về tư tưởng, tôn giáo, chính trị hay điều gì khác. Vì vậy, chúng ta phải thoát khỏi tất cả những thứ này để được đơn giản. Đó là lý do tại sao rất cần phải nhận thức, phải hiểu được quá trình tư duy của riêng mình, hiểu rõ toàn diện con người mình; để từ đó, tính đơn giản xuất hiện, sự khiêm tốn xuất hiện, mà không phải là phẩm hạnh hoặc do tập luyện mà có. Sự khiêm tốn mà đạt được, giành được thì không còn là sự khiêm tốn nữa. Một cái tâm tự bắt nó phải khiêm hạ thì không còn là tâm trí khiêm hạ nữa. Chỉ khi nào người ta khiêm hạ một cách tự nhiên, không phải là sự khiêm hạ do trau dồi, tu dưỡng mà có, thì họ mới có thể đối mặt với những điều thúc bách trong cuộc sống, bởi vì lúc đó, bản thân họ không còn quan trọng nữa, họ không nhìn cuộc đời qua những áp lực của riêng mình và qua cảm giác rằng mình quan trọng. Họ nhìn vào chính vấn đề, và khi ấy, họ mới có thể giải quyết nó.