Callum
Gosford cách thành phố một tiếng rưỡi chạy xe. Chúng tôi đi trên những con đường cao tốc chật cứng xe cộ, xung quanh phong cảnh tươi đẹp. Mất vài tuần để tổ chức chuyến đi chơi xa cuối tuần vì chúng tôi cần nghỉ thứ Sáu để có thể lái xe sớm tránh giờ cao điểm. Dù chúng tôi dùng xe của Lilah (đương nhiên là động cơ có thể sử dụng hai loại nhiên liệu, xăng và điện), nàng muốn tôi lái.
“Anh lái thì em mới tranh thủ làm việc được,” Lilah cố nài, thế nhưng suốt chuyến đi iPad và laptop nằm yên dưới chân nàng không hề được đụng tới. Thay vì thế, Lilah nhìn ra cửa sổ và nói về công viên quốc gia mà chúng tôi đi ngang qua và những con kênh chúng tôi nhìn thấy.
Mối liên hệ giữa Lilah với thiên nhiên thật mãnh liệt và niềm vui của nàng khi chúng tôi rời khỏi thành phố đến miền biển có thể cảm nhận được. Nàng biết tên nhiều loại cây, loại rừng và loài vật nào sống ở khu vực nào. Nàng kể cho tôi nghe về những mỏ cát khi chúng tôi đi về phía Bắc và về vụ nàng chống lại sự mở rộng đường cao tốc tại một địa điểm.
Hết lần này đến lần khác tôi biết rằng nếu sống ở nông thôn Lilah chắc chắn sẽ dễ dàng tự cấp tự túc, tự trồng trọt lấy cái ăn và thấy vui vì mình thuộc về mẹ đất hoặc đại loại như thế. Theo cách đó, chúng tôi khác biệt đến mức thật khó hình dung làm thế nào chúng tôi có thể hợp nhau. Hiện tại tôi dùng bữa với Lilah thường xuyên đến mức tôi khá quen với những thức ăn của nàng, nhưng mỗi lần cắn vào một món gì đó là thực vật giả thịt, tôi cảm thấy mình bị lừa dối. Tôi yêu những bữa ăn tiện lợi, công nghệ và vô tuyến. Lilah dùng tất cả những thứ đó, nhưng là để giúp nàng có thể làm việc nhiều hơn - đó là cách nàng kết nối với thế giới.
“Nông trại,” như cách nàng hay gọi, nằm ngay bên ngoài Gosford. Ngay khi chúng tôi ra khỏi đường cao tốc, những con đường dần trở nên hẹp hơn và gồ ghề hơn, cho đến khi đi vào một con đường đất nhỏ chạy song song với biển.
“Kia rồi,” Lilah nói nhỏ khi những cánh cổng sắt rèn xuất hiện ngay trước một ngả rẽ. Tôi có thể nhìn thấy một ngôi nhà gạch nhỏ bên kia đường, xung quanh mọc um tùm những cây bụi và cây lớn. “Và đây là nhà của Leon và Nancy.”
Tôi rẽ vào cổng và chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình cẩn trọng dọc theo con đường đất dài dẫn vào nhà, hai bên trồng bạch đàn.
Ngôi nhà bờ biển của Lilah là ngôi nhà bờ biển kiểu Úc thuần túy, không trau chuốt hay phô trương. Nét nổi bật của ngôi nhà là, như Lilah đã miêu tả đến chi li, vườn cây ăn trái và vườn rau trồng để bán mà Leon và Nancy coi sóc giúp nàng.
“Hai người họ bao nhiêu tuổi rồi?” Tôi hỏi khi hai đứa bước ra khỏi xe. Tôi đã đánh giá quá thấp diện tích đất và lượng công việc ở đây.
“Sáu mươi, nhưng còn lao động hăng say lắm,” Lilah cười toe. “Nhờ khu vườn họ có đủ tiền cho thằng cháu đi học hết đại học đấy.”
“Ồ.” Tôi bước tới vài bước và nhìn ra xa về phía ngôi nhà nhỏ. “Một căn nhìn ra biển nữa à?”
“Ừ.”
“Lương của em được bao nhiêu?” Tôi hỏi, đột ngột quay sang nàng.
“Em thừa kế cái này, đồ ngốc ạ.” Lilah cười. “Thu nhập của em cũng tạm ổn. Nhưng nếu em không thay đổi chuyên môn, thì giờ giàu to rồi.”
Tôi biết Lilah có cổ phần ở công ty. Và tôi đã chứng kiến nàng làm việc nhiều như thế nào. Lilah có thể làm việc mười tám tiếng, ngủ ba tiếng và chạy bộ trước khi lại bắt đầu vòng lặp đó.
“Đến xem ngôi nhà đi,” Lilah nửa đi nửa chạy về phía tôi, nắm lấy tay tôi và đưa tôi lên bậc tam cấp về phía hiên nhà. Sau khi nàng mở tấm chắn an toàn rồi đến cánh cửa trước nặng trịch, chúng tôi bước vào bên trong.
Giống như ngôi nhà của nàng ở Manly, không gian mang đậm nét đặc trưng của Lilah. Tôi đã thấy những tấm ảnh của ông bà Lilah ở căn hộ của nàng, nhưng ở đây những bức ảnh này chiếm ưu thế – dễ dàng nhận thấy là họ đã sống ở đây lúc sinh thời. Lilah chỉ cho tôi phòng ngủ của nàng hồi bé, phòng ngủ lớn nàng hiện dùng và phòng làm việc do nàng sắp xếp. Toàn bộ ngôi nhà được trang trí bằng tông màu xanh nhạt, với những vật dụng theo chủ đề biển nổi bật và những bức rèm trắng nửa mờ treo ở mỗi ô cửa sổ để làm giảm độ chói của ánh sáng bên ngoài. Đó là ngôi nhà đón nhiều ánh nắng, được bao quanh bởi tiếng sóng biển suốt đêm ngày vỗ ầm ì vào những vách đá và những cây bạch đàn xào xạc trong làn gió từ ngoài đại dương thổi vào.
“Sau khi ông bà mất em gỡ hết thảm nhung ra, đánh bóng lại ván sàn và sơn lại hết,” Lilah nói. “Ngoài ra, tất cả được giữ nguyên như cũ. Lẽ ra em có thể cải tạo sửa sang nhiều thứ nữa, nhưng đối với em thế này là… hoàn hảo rồi.”
Chúng tôi bước ra hàng hiên rộng trông ra đại dương mênh mông. Phía Bắc và Nam được bao bọc bởi những bức tường kính, nhưng phía Đông để trống và có một tay vịn thấp.
Một bên hàng hiên kê một chiếc bàn gỗ dài, bên kia là chiếc trường kỉ bằng mây loại dùng ngoài trời. Lilah mở chân một chiếc ghế lấy ra một bộ gối trắng và xanh hải quân, cẩn thận đặt lên trên mấy chiếc ghế, rồi đặt lên bàn vài chiếc đèn bão. Sau đó, nàng nắm lấy tay tôi dẫn tôi xuống những bậc tam cấp về phía vách đá.
Chừng vài chục mét chỉ có cỏ mọc lơ thơ và những bụi cây trải dài từ ngôi nhà và rồi cái hàng rào lung lay trước một cái dốc, thẳng đến mép nước dập dờn bên dưới. Chúng tôi đi tha thẩn đến hàng rào và tôi dè dặt tựa vào nó. Một dải cát nép giữa hai phần đá trồi lên nhưng không có đường đi xuống rõ ràng hoặc bãi biển chen ngang.
“Ừm… thực ra, Callum, đây là nhà em. Đây mới thực sự là nhà em.”
“Rất đẹp.” Căn nhà kỳ thực không có gì đặc biệt so với căn hộ của Lilah ở Manly. Điều khác thường là trông nàng vui hơn hẳn khi ở đây. Tôi cảm thấy hãnh diện khi được nàng đưa về đây chơi.
Peta MacDonald đến.
Bà có phong thái của một nữ danh ca luống tuổi, đương nhiên không thành công hoặc nổi tiếng. Mẹ của Lilah đẹp, theo kiểu đẹp lão. Bà để tóc ngắn gọn ghẽ, nhuộm màu rượu chát và đôi mắt xanh biếc giống như Lilah. Trong khi mắt Lilah được kẻ viền phớt, thì mắt mẹ nàng vẽ màu xanh đậm và đánh bóng màu nâu thiếu tinh tế. Tôi không thể không chú ý đến bộ móng tay được sơn kỹ lưỡng của bà và tự hỏi Lilah sẽ nghĩ gì khi thấy mẹ nàng tiếp xúc với hóa chất để làm đẹp. Peta rõ ràng là không biết trước Lilah đưa khách về chơi và không thể giấu được sửng sốt.
“Ăn tối gì đây, con yêu? Ồ, khỉ thật.”
Tôi đứng lên khỏi ghế. Tôi đã bóc xong vỏ đậu tươi để làm món salad và vừa thưởng thức một ly vang đỏ. Lilah không chậm lấy một nhịp.
“Mẹ, đây là Callum. Callum, đây là Peta. Mình dùng bữa đi.”
“Callum, rất hân hạnh. Rốt cuộc cũng được gặp cháu,” Peta nói. Bà nắm bàn tay tôi đã chìa ra, mong đợi một cái bắt tay và một cái ôm. “Cô đoán đây là một tình huống thú vị, dù cô chưa từng nghe nói về cháu.”
“Rất vui được gặp cô, Peta,” tôi nói. “Cháu có thể nhận thấy Lilah thừa hưởng cả nét đẹp và sự tinh tế từ ai.”
“Con làm món xào đấy, mẹ. Với cả sốt thịt nướng xiên mẹ thích. Callum làm cho mẹ món salad. Còn có gạo lức và xoài tráng miệng nữa.” Lilah đã đốt mấy cây nến lớn bên trong những cây đèn bão và cẩn thận đặt một lọ hoa ở giữa. Lilah lăng xăng rộn ràng suốt cả buổi chiều khiến tôi bất ngờ và cả hồi hộp ghê gớm. Nàng rõ ràng là không có ý định nhắc lại hay thậm chí giải thích sự có mặt của tôi và ngay cả khi Peta và tôi đang rời ra khỏi cái ôm, Lilah đã làm xong món xào và chuẩn bị ra ngoài.
“Cô hiểu thế có nghĩa là cô không được hỏi cháu có phải là bạn trai của nó không,” Peta hạ thấp giọng.
“Cháu nghĩ là cô nên tự quyết định việc đó,” Peta và tôi cùng cười rộng miệng.
“Vậy thì, Callum, cháu tốt nhất là lấy cho cô ít rượu vang;
cô không phải là một gà mái mẹ dễ chịu để gây ấn tượng.” Tôi nhanh chóng làm theo yêu cầu của bà, rồi Peta và tôi theo Lilah ra ngoài hiên. Nàng đang nhìn chằm chằm vào bát rau xào và rõ ràng đang cố tránh ánh mắt của mẹ. Tôi ngồi bên cạnh Lilah và đặt tay lên đầu gối nàng dưới bàn. Peta ngồi phía đối diện và quan sát hai đứa một lúc.
“Con thoải mái đi, Lilah,” Peta nói. “Mẹ không buồn khi con không kể cho mẹ nghe con đang hẹn hò đâu. Mẹ tin chắc là con có lý do riêng, dù mẹ thậm chí không thể hình dung chúng có thể là gì.”
“Cháu nghe Lilah kể cô hát rất hay?” Tôi gợi chuyện. “Ồ, đúng rồi. Cháu có thích nhạc không?”
Tôi mơ hồ nhận thấy rằng Peta sẽ bị phân tâm một cách dễ dàng và tôi không biết mình nên đóng vai trò gì nếu hai mẹ con họ tranh luận về lý do nàng không hề nhắc về tôi với Peta. Và hóa ra tôi lo hão, vì giờ đồng hồ kế tiếp Peta chỉ đề cập đến những mối quan tâm và trải nghiệm âm nhạc của bà.
Peta trên sân khấu chắc chắn sẽ giống rất nhiều với Peta tại bữa tối: sôi nổi và hoạt bát, khuôn mặt sáng bừng đầy sinh khí và sức hút khiến mọi ánh mắt đổ dồn cả vào bà. Bà là người thú vị, cho dù chỉ biết đến bản thân và tôi có thể dễ dàng hình dung việc bà lôi gia đình nhỏ của mình đi khắp chốn để tìm kiếm danh vọng. Không hiểu sao bà chưa bao giờ thành công vang dội. Bà trông có vẻ là một ứng cử viên phù hợp cho sự nổi tiếng.
“Cả nhà cô sống ở London một năm, Callum, trong khi cô làm việc ở hãng West End.”
“Lúc đó em lên mấy, Ly?” Tôi hỏi.
“À, mười thì phải. Cha làm việc cho thành phố London, nên điều con nhớ nhất về những tháng ngày ấy là việc lang thang khắp London mà không có ai giám sát, trong khi mẹ suốt ngày ở nhà hát, còn cha thì mải lo chăm sóc vườn tược cho nhà người ta.” Lilah phì cười rồi đảo mắt. “Hai người quả là bậc cha mẹ bỏ bê con cái số một.”
“Chúng ta biết con tự chăm sóc bản thân được, Lilah. Con luôn có thể tự lo lấy mình, ngay cả lúc mới biết đi chập chững. Trời ạ, con mà không muốn làm gì thì có chết cha mẹ cũng không ép được. Mẹ mất gần một năm để tập cho con đi vệ sinh.”
“Lúc nào mẹ cũng nói vậy.”
“Gần ba tuổi con bé mới chịu bỏ bú đấy, Callum. Cô hết lần này đến lần khác cố cai sữa con bé; con bé cứ đợi lúc cô đi ngủ là…”
“Cô đang nói đến vở hài nhạc kịch nào đấy ạ? Cô có đóng vai chính không?”
“Cô nằm trong trong dàn hợp ca vở kịch đầu tiên của Cats.” Peta so vai. Và tôi đoán đó chỉ là sự hờ hững giả vờ. Tôi có cảm tưởng là bà thả cái mẩu thông tin bé tí đấy vào những cuộc nói chuyện cả chục lần mỗi ngày. “Đáng lẽ là cô đóng vai chính rồi đấy nhưng vũ đạo của cô không đáp ứng được yêu cầu.”
“Sau đó cả nhà em đến New York với Cats,” Lilah nói.
“Rồi Ấn Độ.”
“Cats đến Ấn Độ sau khi rời New York?”
“Ồ không, cô rời Cats. Cả nhà đi Ấn Độ để ẩn dật một thời gian cho cô nghỉ ngơi. Cô đã kiệt sức. Đó cũng là nơi Lilah ra đời, nên cũng hợp lý.”
“Callum chỉ có độc một phòng ngủ cho đến khi anh ấy rời nhà học đại học đấy,” Lilah thông tin cho Peta.
“Vâng ạ, chán chết đi được,” tôi đồng tình.
“Trời đất. Tội cho cháu quá.” Peta với tay lấy ly rượu. “Thế bây giờ cháu làm nghề gì?”
Đó là câu hỏi đầu tiên bà đã hỏi về tôi suốt buổi tối đầu tiên gặp nhau, thay vì hỏi tôi là thế nào với Lilah. Tôi thấy bất ngờ ghê gớm.
“Cháu làm bên tiếp thị.”
“Có thời điểm cô cũng tính dấn thân vào lĩnh vực quảng cáo đấy. À, cô ấp ủ ước muốn đó trong một thời gian. Cô có những ý tưởng thú vị và cô nghĩ lẽ ra cô đã có thể thực hiện được chúng.”
Tình trạng đối kháng giữa Lilah và mẹ nàng thật thú vị. Tôi thấy hình như trong chuyện nào Lilah cũng có rất nhiều lý do để không bằng lòng với mẹ về cuộc sống nay đây mai đó của gia đình họ. Thay vì thế, nàng hoàn toàn hạnh phúc và mãn nguyện với nó và tình thương yêu trong ánh mắt nàng dành cho Peta là thực sự.
Khi làn gió từ đại dương thổi vào trở lạnh, chúng tôi vào lại bên trong. Peta và tôi ngồi trên trường kỉ trong khi Lilah chuẩn bị đồ tráng miệng và cà phê.
“Này, thế nghiêm túc đấy à?” Peta hỏi tôi, ngay khi Lilah rời khỏi phòng. Bà lại hạ giọng, nhưng hối hả và nghiêm túc. Tôi ngập ngừng.
“Cháu nghĩ cô và Lilah nên nói về chuyện đó, Peta.”
“Lilah hẳn đã nói với cô rồi nếu nó định thế. Cô không hiểu tại sao nó lại giữ bí mật về cháu với cô nữa.”
“Bọn cháu mới quen nhau thôi ạ. Có thể cô ấy sợ cô hối thúc bọn cháu.”
Peta nghĩ về điều đó một lúc và mỉm cười gần như là biết ơn.
“Cảm ơn, Callum. Cô sẽ không xen vào.” Trước khi tôi kịp thở ra nhẹ nhõm, bà trói chặt tôi vào ghế bằng một cái cau mày lạnh lùng. “Chỉ có điều, cháu nên biết rằng nếu cháu làm con bé tổn thương, cô sẽ tìm gặp cháu và cô sẽ làm cho cháu ao ước giá như mình chết đi rồi.”
“Lilah, em cần giúp gì không?” Tôi dợm đứng lên, nhưng Peta nắm lấy tay tôi kéo tôi ngồi xuống lại và nét mặt bà lại ngay lập tức giãn ra và ấm áp trở lại.
“Không cần bỏ chạy đâu. Chỉ cần xem như đó là một lời nhắc nhở.”