• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Từ nước mắt đến nụ cười
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • 14
  • More pages
  • 18
  • Sau

TámThay đổi chính mình, thay đổi thế giới

Nhiều năm trước, khi đang vô cùng suy sụp, tôi thường cảm thấy một sự hiện diện kỳ lạ, giống như ai đó ngồi bên mép giường mình tầm nửa đêm về sáng – một bóng dáng cao, gầy, ngồi thẳng và rất yên, hướng về phía vuông góc với cơ thể tôi. Tôi biết đó không phải là một thể xác, nhưng tôi biết người ấy ở đó. Và tôi biết người ấy là ai.

Không thể nói thành lời sự có mặt ấy có ý nghĩa với tôi thế nào. Người ấy không nói bất cứ lời nào hoặc gửi tôi bất kỳ thông điệp nào, chỉ ngồi ở đó. Và không chỉ vào ban đêm. Mặc dù cảm nhận được sự hiện diện thực sự ở cuối giường mình vào ban đêm nhưng trong ngày, tôi cũng cảm thấy người ấy dõi theo.

Chán nản và cô đơn, thời điểm đó tôi thật sự là một mớ hỗn độn. Tôi biết mình đã thành ra khá thảm hại. Tôi nhận ra mọi người nhìn tôi thương hại và nghĩ: “Tội Marianne quá”. Em họ của tôi nhiều năm sau kể lại rằng lúc đó cha tôi đã khóc mà nói với cô ấy rằng: “Bác không biết phải làm gì với một đứa trẻ khổ sở”. Tôi thật đã rất khổ sở. Tôi biết mình đã gặp rắc rối rồi. Trong cơn tuyệt vọng, tôi bắt đầu cố gắng thương lượng với Chúa Trời. Nếu Người giúp con – nếu Người nâng con dậy và trả lại con sức sống – con sẽ dâng phần đời còn lại cho Người. Con sẽ làm bất cứ điều gì Người muốn con làm.

Nhiều tháng trôi qua, từ từ nhưng chắc chắn – với sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần xuất sắc, với tình yêu của gia đình và bạn bè, và chắc chắn với cả sự giúp đỡ của Chúa Trời – cuộc sống của tôi bắt đầu ổn định lại. Một ngày nọ ở nơi làm việc, tôi lại một lần nữa cảm nhận được sự hiện diện đã ở quanh mình suốt những tháng ngày đó. Tuy nhiên, lần này, tôi không cảm thấy sự an ủi nhiều như trước nữa mà thay vào đó, thấy hơi bị làm phiền.

Tôi đã nói với Người, trong tâm trí: “Con thực sự biết ơn vì Người đã ở đây lâu đến thế. Người thực sự đã giúp con, con rất biết ơn. Nhưng con thực sự đang làm rất tốt và chắc chắn rằng còn rất nhiều người khác cần giúp đỡ. Con hoàn toàn ổn. Cảm ơn Người rất nhiều, con sẽ không bao giờ quên Người đã tốt với con như thế nào khi con cần đến”.

Tôi đã nói với Chúa rằng Người có thể đi ngay.

Vài tuần sau, tại một bữa tiệc cocktail trang trọng, tôi một mình lang thang trong ngôi nhà rất lớn. Tôi bước vào một căn phòng và thấy một nhóm nhỏ mặc tuxedo đang nói chuyện với nhau, với đồ uống trong tay. Một trong những người ấy quay lại và nhìn tôi. Rõ ràng, tại thời điểm ấy, tôi đã mơ giữa ban ngày. Bởi người ấy là Jesus.

Người nhìn tôi, không cảm xúc, không trách móc, không có bất kỳ thái độ gì, chỉ nói rất đơn giản: “Tôi nghĩ chúng ta có một thỏa thuận”.

Vậy đó. Từ khoảnh khắc đó, tôi bắt đầu hành trình đến một định mệnh hoàn toàn khác với những gì từng tưởng tượng. Bất cứ khi nào có người hỏi tôi: “Sự nghiệp của chị bắt đầu như thế nào?” tôi luôn nghĩ về Chúa Jesus trong bữa tiệc cocktail năm đó.

Trong suốt quãng đời ấy, tôi cảm thấy hộp sọ của mình như một chiếc bình cổ vô giá đã bị đập tan tành. Những mảnh vỡ của nó, quá nhiều đến mức không đếm nổi, đã nổ tung ra ngoài vũ trụ. Và điều này hóa ra lại mở ra một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ cho tôi. Khi hộp sọ của tôi hoàn toàn trở lại đúng vị trí, có vẻ như có thứ gì đó mới mẻ đã lọt vào đầu tôi.

Vâng, đó là khoảng thời gian tôi suy sụp, nhưng cũng là lúc tâm linh tôi học được. Ở phía bên kia đêm tối của tâm hồn, tôi đã biết, đã thấy và hiểu những điều mà tôi chưa từng biết, từng thấy hoặc hiểu trước đó. Tôi biết những người khác cũng trải qua biến đổi tương tự. Đôi khi chúng ta phải rũ bỏ chấp trước của mình với một thế giới trước khi có thể nhận ra một thế giới khác.

KHI KHỔ ĐAU THỨC TỈNH CHÚNG TA

Ngay cả bóng tối thâm sâu nhất cũng có thể lộ ra ánh sáng của Chúa Trời.

Nhiều năm trước, cậu con trai 21 tuổi của Teresa bạn tôi bị sát hại. Khó mà tưởng tượng được nỗi đau nào lớn hơn, nhưng Teresa và gia đình cô đã vượt qua bằng cách hướng ánh mắt về cuộc sống vượt khỏi sự kiện nó. Sau thảm kịch, Teresa giờ là một nhà hoạt động cho quyền lợi của các nạn nhân và một người biện hộ, trò chuyện với các tù nhân nhằm mục đích chữa lành về cảm xúc giữa nạn nhân và thủ phạm. Cô nói với tôi rằng thông qua công việc này, cô tìm thấy sứ mệnh của mình.

Dù sự giận dữ với kẻ thủ ác không tỏ ra hối lỗi sau tội ác gây ra với con trai mình là một cực hình đối với tâm hồn cô, cho đến bây giờ vẫn như vậy, nhưng cơ hội nói chuyện với những người khác bị giam cầm vì tội ác tương tự đã giúp nỗi khổ nguôi ngoai phần nào. Khi nói chuyện với tù nhân bị kết án chung thân vì tội giết người, Teresa thấy nhiều người thực sự ăn năn – và trong lời xin lỗi của họ, trong lời họ đề nghị giúp đỡ cô làm việc, cô tìm thấy sự an ủi.

Một tù nhân chia sẻ rằng đã hoàn toàn hiểu được mức độ đau đớn anh ta gây ra cho cha mẹ nạn nhân. “Cho dù tôi có ở tù bao nhiêu lâu đi chăng nữa”, anh ta nói, “tôi nhận ra mình cũng không thể trả con gái lại cho họ”.

Sự hối hận sâu sắc của anh ta khiến Teresa suy nghĩ về cơn giận của bản thân, cô nói đã nhận ra được rất rõ ràng rằng người tù này giờ đây còn tự do hơn cô – vì sự chuộc tội đã giải thoát anh ta, trong khi cô còn bị trói buộc bởi cơn giận khôn nguôi.

Cô tìm cách tha thứ để có được tự do, dù nhiệm vụ đó khó khăn thế nào thì không cần phải bàn cãi. Chúa Trời làm việc theo những cách không dễ gì giải thích, và Teresa nói công việc đang làm đã giúp chữa lành trái tim cô. Kinh nghiệm của cô khi làm việc với các tù nhân đã thay đổi cuộc đời cô, mở ra cho cô khả năng rằng có ánh sáng giữa bóng tối sâu thẳm nhất. Cô mô tả công việc của mình cả với tù nhân và cả với tư cách biện hộ cho các nạn nhân như một chiếc phao cứu sinh, nói với tôi: “Dù phải nghe về những hành động bạo lực khủng khiếp, đáng sợ nhất, nhưng bây giờ tôi cảm thấy có hy vọng”.

NGƯỜI MÀ TA CHỌN TRỞ THÀNH

Có nhiều nhân vật quyền lực trong lịch sử đã biến đổi tích cực bằng những trải nghiệm tàn phá bên ngoài. Một trong những câu chuyện hấp dẫn nhất trong số đó là cuộc đời của Franklin D. Roosevelt, tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ.

Khi còn là một chàng trai trẻ, Roosevelt là điển hình của một người có tất cả – cao và đẹp trai, thông minh và giàu có, kết hôn rồi sinh nhiều con cái. Anh họ của ông, Theodore, đã từng là tổng thống Hoa Kỳ, và sự nghiệp của chính ông dường như được đảm bảo để ông cũng có thể tiến xa đến vậy, nếu muốn.

Một ngày năm 1921, trong kỳ nghỉ tại ngôi nhà bên hồ của gia đình ở Canada, Roosevelt đã đi bơi. Vài giờ sau khi trở về nhà, ông bị ớn lạnh, vài ngày sau, chân tay ông bắt đầu bị tê, và vài tuần sau, ông bị chẩn đoán mắc bệnh bại liệt.

Bi kịch đến đây chưa kết thúc, thậm chí đó mới chỉ là khởi đầu. Roosevelt không đi lại được nữa nếu không có sự trợ giúp của gậy và khung sắt, nhưng từ trong đau khổ, ông đã thoát ra trở thành một người làm rất nhiều điều để cải thiện, giảm bớt khổ đau cho người khác.

Ba năm sau khi bị chẩn đoán mắc bệnh, Roosevelt đến một khu nghỉ dưỡng ở Warm Springs, Georgia, nơi nổi tiếng với những suối nước nóng tự nhiên. Nước nóng làm dịu đi nỗi đau thể xác, nhưng quan trọng hơn cả, lòng tốt của những người gặp gỡ ở đó đã nâng đỡ tinh thần ông. Hầu như không có ai ở Warm Springs từng nghe nói về nhà Roosevelt ở Hyde Park, New York. Họ không biết gì về sự giàu có mà cũng chẳng quan tâm đến quyền lực của ông. Với những người ở Warm Springs ấy, trong đó có nhiều người nghèo, ông cũng chỉ là một người đang khổ sở, một người buồn bã cần nước nóng để xoa dịu nỗi đau. Họ chăm sóc ông đơn giản vì ông là một con người cùng chia sẻ nỗi khổ với họ. Thông qua trải nghiệm đó, Roosevelt đã biết đến và tin tưởng vào lòng tốt của những người mà có lẽ ông không bao giờ gặp được ở đâu khác.

Đây là một chủ đề phổ biến – một kiểu mẫu thường lặp lại – trên hành trình thoát khổ đau. Người khác đến giúp chúng ta trong những giờ phút đen tối nhất của chúng ta, và họ thường đến dưới những dáng vẻ lạ kỳ. Ai đó mà ta có thể chưa từng gặp, hoặc kính trọng – người mà ta ít trông chờ – cuối cùng lại cho chúng ta sự trợ giúp then chốt không thể có được ở nơi nào khác. Những người tại một khu nghỉ mát xiêu vẹo đã giúp chữa lành Roosevelt theo cách mà tất cả bác sĩ tại các cơ sở y tế tốt nhất đã không thể làm được. Không phải tất cả thiên thần của Chúa Trời đều đeo bảng thông báo rằng họ là thiên thần. Không gì khiến ta nhún nhường bằng việc được giúp đỡ bởi những người mà ta chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ cần đến họ.

Nhiều năm sau, khi đã trở thành tổng thống, Roosevelt phải đối mặt với nỗi khổ của hàng triệu người trở nên nghèo đói vì sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929. Với xuất thân của mình, ông có thể khó mà đồng cảm sâu sắc được với hàng triệu người thất nghiệp đang vật lộn trong cuộc Đại khủng hoảng. Việc là một người rất giàu lớn lên trong một gia đình rất giàu hoàn toàn có thể là bức tường dày ngăn cách cảm xúc của ông với những người đau khổ nhất vào thời điểm đó. Họ không giống những người mang họ Roosevelt ở Hyde Park, nhưng lại rất giống những người mà Roosevelt đã quen biết, và tin tưởng, ở Warm Springs, Georgia.

Và đến lượt Roosevelt đền đáp. Sự đồng cảm của ông đối với khó khăn mà những người Mỹ bình thường phải chịu đựng vào thời điểm đó đã truyền cảm hứng cho Chính sách mới New Deal, một loạt các chương trình kinh tế và xã hội đã cứu trợ hàng triệu người. Roosevelt không phải là người hoàn hảo – còn rất nhiều người bị bỏ lại bên ngoài vòng trắc ẩn của ông – nhưng một người ít đồng cảm hơn sẽ không hoàn thành được New Deal, thậm chí có lẽ còn không buồn thử. Cha tôi lớn lên trong nghèo khó và luôn ngưỡng mộ nói về Roosevelt như người đã cứu gia đình chúng tôi khỏi khốn cùng. Cho đến khi qua đời năm 1995, bất cứ khi nào được hỏi đã bầu cho ai trong Ngày bầu cử, câu trả lời của ông luôn là: “Tôi bỏ phiếu cho Roosevelt”.

Khổ sở của Roosevelt đã giúp ông biến đổi thành con người mà ông cần trở thành để giảm bớt nỗi khổ sở của hàng triệu người. Khi bi kịch xảy ra, không phải lúc nào chúng ta cũng nhận được câu trả lời cho câu hỏi: “Tại sao điều này lại xảy ra với tôi?”. Nhưng chúng ta luôn có thể hỏi rằng mình vẫn nhận được ơn gì từ trải nghiệm này.

Chúng ta không thể quyết định việc mình có phải chịu đau khổ hay không, nhưng có thể quyết định sự đau khổ ấy có vô ích hay không. Từ người mất thị lực và sau đó trở thành người ủng hộ cho người mù; đến những bậc cha mẹ thành lập những tổ chức vận động, tuyên truyền nhân danh đứa con quá cố; đến vận động viên bị mất chân tay về sau thành lập một tổ chức thể thao cho những người khác cũng phải đối mặt với thách thức tương tự – chìa khóa để vượt qua đau khổ của chúng ta là sử dụng nó như phúc lành cho cuộc sống của những người khác.

Lý tưởng hóa đau khổ là sai lầm, nhưng coi nhẹ sự liên quan của đau khổ tới sự hình thành tính cách cũng sai lầm không kém. Theo nhà thơ Khalil Gibran: “Từ khổ đau sinh ra những linh hồn mạnh mẽ nhất, những con người vĩ đại nhất đầy vết sẹo trên thân”.

Quá nhiều người buồn rầu về những điều không quan trọng, có lẽ bởi vì họ không để mình buồn về những bi kịch lớn hơn của cuộc sống. Carl Jung nói: “Chứng loạn thần kinh chức năng luôn là sự thay thế cho những đau khổ chính đáng”. Khi cho phép những đau khổ thực sự, cả trong cuộc sống của chính chúng ta và trong cuộc sống của những người khác, xuyên qua trái tim mình, chúng ta sẽ tinh ý hơn trước nhiều cơ hội tế nhị nhất mà cuộc sống dành cho hạnh phúc.

Không gì khiến chúng ta mạnh mẽ hơn việc trèo từ thung lũng tuyệt vọng thăm thẳm lên đỉnh cao sướng vui, và không gì đẩy lưng chúng ta tốt cho bằng những thiên thần nhắc nhở chúng ta đừng quên những người khác cũng đang leo lên núi cùng mình. Khi đã lên đến đỉnh, ta thấy mình không còn khóc nữa – và thậm chí quan trọng hơn, ta thấy mình không còn cô đơn nữa.

Một khi hiểu rõ được rằng hạnh phúc 24/7 là điều không thể, chúng ta sẽ có được sự chấp nhận trưởng thành hơn về những thăng trầm cuộc sống. Mọi thứ không phải lúc nào cũng như chúng ta mong muốn, không phải lúc nào cũng nằm trong tầm kiểm soát, và bất kể điều gì xảy ra, cuộc sống trên trái đất chỉ là một chuyến đi tạm thời. Khi thành thật với chính mình, chúng ta nhận ra rằng mỗi ngày đều có khả năng đau lòng. Nhưng niềm vui không phụ thuộc vào việc phải tin mỗi ngày sẽ đều như mong muốn; đôi khi nó chỉ đơn giản là đánh giá cao việc ngày hôm nay, đúng ngày hôm nay, mọi thứ đều ổn. Khoảng thời gian khó khăn trong cuộc sống có thể khiến chúng ta cảm thấy biết ơn hơn khi cuộc sống diễn ra tốt đẹp. Mất đi những thứ quý giá, chúng ta học cách hạnh phúc hơn nhiều với những gì còn lại. Đau khổ có thể khiến chúng ta bị sứt sẹo, nhưng dẫu vậy, theo những cách gần như bí ẩn, chúng ta có thể trở thành người tốt hơn nhờ đã trải qua đau khổ. Đôi khi, việc “tôi không còn như trước nữa” không có gì là tệ cả. Chúng ta không còn như đã từng, nhưng sẽ trở thành ai, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta.

    Chúa ơi,

    Xin hãy khiến cho cuộc sống của con

    Trở nên tươi đẹp.

    Dẫn dắt con trên một hành trình soi sáng

    Từ bóng tối của thế giới

    Đến ánh sáng đó là Người.

    Hãy cho con được dẫn

    Điều lành

    Để con có thể giúp thế giới này thay đổi.

    Đặt bàn chân con lên hành trình của một anh hùng

    Và trái tim con trên một con đường giác ngộ.

    Amen

SỰ TRƯỞNG THÀNH VỀ TINH THẦN

Khi đau khổ đã khiến chúng ta hiểu được rằng để tìm ra câu trả lời cuối cùng, chúng ta nên đến với Chúa, thì câu hỏi được đặt ra là: Nhưng phải đi đâu để tìm Chúa?

Trong thế kỷ 21, những câu chuyện tôn giáo vĩ đại đã mang một dáng vẻ mới mẻ và hiện đại. Chúng được ứng dụng vào các vấn đề của cuộc sống đương đại một cách thực tế hơn nhiều so với mọi người vẫn tưởng. Những câu chuyện ấy có thể được giải phóng khỏi những “thùng chứa” vô tri giác của tôn giáo được thể chế hóa hoặc chỉ đơn thuần theo đuổi học thuật – lý do khiến chúng thường xuyên bị bỏ xó. Chúng ta có thể hít thở lấy sự sống của sự xác đáng thực tiễn, ngay lập tức, ở thứ có thể đã bị coi chỉ là thuần ẩn dụ hoặc khái niệm.

Con người ta không cần phải là một giáo sĩ, một nhà sư, một người thầy hay bất kỳ ai đặc biệt để tìm kiếm sự giác ngộ. Tiếng gọi của linh hồn là phổ quát. Nó không yêu cầu niềm tin đặc biệt nào bởi vì nó là một trải nghiệm, một hiểu biết bắt đầu trừu tượng nhưng rồi dẫn đến điều mà A Course in Miracles gọi là “hành trình không khoảng cách” từ đầu đến trái tim.

Thường người ta muốn biết cách thức a-b-c để giác ngộ, như thể chỉ cần một vài bước dễ dàng là đủ. Nhưng sự tha thứ, lòng trắc ẩn, sự chuộc tội và đức tin không phải lúc nào cũng là những bước đi dễ dàng – ngay cả khi chúng ta đã hiểu tầm quan trọng của chúng. Khai sáng đòi hỏi nhiều hơn là một tập hợp dữ liệu siêu hình; nó liên quan đến việc thực hành, ứng dụng và thị hiện thực sự tình yêu.

Mục đích của tôn giáo không những là kể chuyện mà còn thay đổi cuộc sống của chúng ta. Và trải nghiệm tôn giáo chỉ là vậy thôi: một trải nghiệm. Chỉ khi trải nghiệm đó mở ra tình yêu thì nó mới thực sự có liên quan đến Chúa. Và sự thật của Đức Chúa Trời không thể bị độc chiếm bởi bất kỳ nhóm hoặc tổ chức nào, bất kể nhóm đó nói gì và bất kể họ đã nói điều đó qua bao nhiêu thế kỷ.

Mục đích của tôn giáo là đưa chúng ta trở lại với tâm trí đúng đắn của mình, cũng là hiểu biết huyền bí của vũ trụ. A Course in Miracles nói rằng về bản chất, tôn giáo và tâm lý trị liệu là như nhau, bất kể ta dùng từ nào để nói về nó đi nữa thì sự cứu rỗi cũng nằm trong sự chữa lành tâm trí.

Sự giác ngộ, khi đó, áp dụng cho mặt đất cũng nhiều như cho thiên đàng. A Course in Miracles nói rằng câu Kinh thánh “Trời đất sẽ qua đi”* có nghĩa là rồi sẽ đến lúc chúng không còn tồn tại như hai trạng thái riêng biệt nữa. Cõi kinh nghiệm thực tế và ý thức lý tưởng sẽ hợp thành một.

* Kinh Tân ước, Matthew 24:35.

Giác ngộ không phải là học được, mà là quên đi những gì đã học. Đó là một quá trình, thường trải qua với rất nhiều thử và sai, chúng ta dần từ chối sự hướng dẫn của bản ngã và thay vào đó, chấp nhận hướng dẫn của tình yêu. Nó không chỉ là sự khai triển thêm cho ý thức chúng ta là ai, mà còn là sự tan rã của một bản ngã sai lạc đã giả mạo chúng ta. Trạng thái vô ngã của ý thức, nó thực sự là trạng thái tự nhiên của chúng ta. Và tuy rằng chẳng mấy người có thể nói rằng đã đạt được một cách liên tục, nhưng hầu hết đã trải qua những khoảnh khắc khi chúng ta ở đó – những khoảnh khắc mà chúng ta cảm thấy thoải mái khi yêu và được yêu. Chừng nào còn chưa trở thành bậc thầy giác ngộ, chúng ta vẫn sẽ còn phạm sai lầm và vấp ngã cùng mọi người khác. Nhưng chúng ta có thể trở thành người mà những ngày tốt lành, những khoảng thời gian hạnh phúc sẽ là thói quen hơn là ngoại lệ. Và việc ấy cũng chính là một phép màu.

Ánh sáng, theo như trong A Course in Miracles, có nghĩa là “sự hiểu biết”. Tâm trí giác ngộ là tâm trí hiểu biết. Nó hiểu rằng chỉ tình yêu là có thật, ngoài ra không gì khác tồn tại. Nó hiểu rằng những ảo ảnh tan biến trước sự hiện diện của tình yêu. Nó hiểu rằng chúng ta, và mọi thứ liên quan đến cuộc sống của chúng ta, đều có thể thay đổi.

Sự giác ngộ và phép màu tự nhiên đi đôi với nhau, bởi vì tâm trí chữa lành nỗi sợ hãi là một mạch nguồn tình yêu, và tâm trí chính là mạch tình yêu tạo ra phép màu đó. Khi ánh sáng bắt đầu ló rạng trong tâm trí, thì bóng tối của đêm đen sâu thẳm nhất thoái trào.

NẮM LẤY PHÉP MÀU

Khi chúng ta tha thứ, khi chúng ta chuộc lỗi, khi chúng ta xin lỗi, khi chúng ta làm chủ những sai lầm của mình, khi chúng ta mở lòng từ bi, chúng ta không chỉ “tử tế”. Chúng ta đang tuân theo các quy luật bất biến của vũ trụ. Các nguyên tắc tâm linh dựa trên các quy luật bên trong của ý thức, cũng cố định và không thể thay đổi như bất kỳ định luật khoa học nào. Chúng ta biết việc ôm mối bất bình với người khác chắc chắn sẽ ngăn chặn phép màu xảy ra không kém gì việc buông một cuốn sách khỏi tay sẽ khiến nó rơi xuống đất.

Điều này đặc biệt quan trọng khi chúng ta chán nản, bởi đó là lúc ta dễ bị cám dỗ bởi những suy nghĩ vô vọng và tiêu cực. Những suy nghĩ kiểu như: “Mọi thứ sẽ không thể được như xưa” và “Hết hy vọng rồi!” – và đó là chưa nói đến “Tôi ghét những người đó vì cách họ đối xử với tôi” – là sự uốn éo tinh thần làm gián đoạn dòng chảy của phép màu.

Tuần này qua tuần khác, trong hơn 30 năm qua, tôi đã nói chuyện với mọi người về cách tình yêu tạo ra phép màu thế nào. Như thường lệ, luôn có một người nào đó dưới hàng ghế khán giả bật khóc, cố gắng nâng mình khỏi vùng tuyệt vọng – đau lòng vì một mối tình tan vỡ, vì một cuộc ly hôn cay đắng, vì một chẩn đoán bệnh nan y, vì khủng hoảng tài chính, vì sự thật là một người thân yêu nào đó, hay chính họ, nghiện ngập,… Thông điệp của tôi gửi đến họ chưa bao giờ là “đừng khóc” cả, tôi hiểu vì chính tôi cũng đã từng bị rơi xuống đó. Nhưng tôi sẽ nói, như những người khác đã nói với tôi khi tôi đau khổ, rằng Chúa Trời có phép màu. Người không bao giờ hết phép màu.

Trong cuộc sống có những giai đoạn không dễ dàng. Chúng đòi hỏi tự thân bên trong phải nỗ lực hết sức cùng sự nâng đỡ cảm xúc nặng nề. Điều này có thể nghĩa là bạn phải chấp nhận điều tưởng chừng không thể chấp nhận, hoặc tha thứ cho điều tưởng chừng không thể tha thứ, có thể nghĩa là dù đau đớn nhưng bạn vẫn phải nhìn thẳng vào chính mình, hoặc cởi mở để thay đổi những điều mà bạn không thể tưởng tượng là mình sẽ thay đổi. Sự an ủi tinh thần không đến từ việc rọi chút ít ánh sáng quanh một vấn đề nào đó. Không phải bạn cứ nắm được một hoặc hai nguyên tắc tâm linh là a lê hấp, nỗi đau không còn. Thay vào đó, bạn bắt đầu học và áp dụng các nguyên tắc và a lê hấp, bạn cứ thế tiếp tục.

Nỗ lực tinh thần không phải là việc dễ dàng, không phải thứ gì đó được vớ đại lấy để thay thế cho cách chữa bệnh tâm lý thật sự. Đó là một chuyến đi xuyên qua nơi có thể là một khu rừng tâm linh rất sâu và tăm tối, dù biết rằng quái vật đang lẩn khuất giữa những tán cây nhưng vẫn bước đi với lòng quyết tâm chinh phục của người anh hùng. Duy linh không phải là nhãn quan của kẻ yếu đuối, đó là nhãn quan của người can đảm.

Cuộc hành trình tâm linh khuấy bùn lên trong nỗi sợ tiềm thức của chúng ta, nhưng nhằm mục đích loại bỏ chúng. Nói như Carl Jung: “Một người không trở nên giác ngộ bằng cách tưởng tượng ra ánh sáng, mà bằng cách làm cho bóng tối trở nên rõ ràng”. Nỗi sợ hãi và tiêu cực ẩn trong bóng tối của sự vô ý thức có sức mạnh làm tổn thương chúng ta; khi được đưa ra ánh sáng của nhận thức có ý thức, chúng có thể được phó thác cho Chúa Trời và biến đổi một cách diệu kỳ.

Khi tất cả những điều này đang diễn ra, việc chúng ta chán nản cũng là dễ hiểu, nhưng thế không nhất thiết mang nghĩa là có gì không đúng. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là công việc đang được thực hiện: điều gì đó đang được xem xét, đang được chịu đựng, và cuối cùng đang được chữa lành. Nỗi buồn trong quá trình ấy diễn ra tự nhiên; chúng ta đang nhìn những thứ không dễ nhìn và thay đổi theo những cách đòi ta trở nên yếu đuối trước Chúa và đôi khi trước cả những người khác nữa.

Đôi khi chúng ta phải đi trên một con đường đau đớn để vượt qua nó, nhưng trải nghiệm ấy trở thành cuộc thử thách linh thiêng khi chúng ta đi cùng với Chúa.

TRUYỀN THỐNG HUYỀN BÍ VÀ SỰ THẬT THIÊNG LIÊNG

Thuyết thần bí là con đường của trái tim. Nó không phải một tôn giáo, mà là một dòng sông linh thiêng của các chủ đề phổ quát chảy qua các hệ thống tôn giáo và tâm linh vĩ đại của thế giới. Nó không đặt ra cho đời sống tinh thần một nhà môi giới bên ngoài dưới dạng con người hoặc tổ chức nào, mà là sự hiện diện của một hệ thống hướng dẫn linh thiêng trong tất cả chúng ta.

Sự chuyển đổi tâm linh không phải một giáo lý hay giáo điều, mà là một cách nhìn khác. Chúng ta có được đôi mắt mới mẻ khi mở rộng nhận thức vượt qua bóng tối của thế giới đến với ánh sáng nằm phía bên kia. Ánh sáng tâm linh là trường siêu việt của những khả năng vô hạn tồn tại vượt ngoài hoàn cảnh mà bản ngã đòi kiểm soát. Đó là cách sự thật tâm linh thắp sáng con đường thoát khỏi bóng tối. Nó khôi phục lại hy vọng cho chúng ta bằng cách sắp xếp lại những suy nghĩ của chúng ta theo ý tưởng rằng trong Chúa, mọi sự đều có thể.

Bất chấp những sự xuyên tạc khủng khiếp mà bản ngã đã rất ranh mãnh đem truyền bá, những câu chuyện tôn giáo vĩ đại vẫn là chìa khóa mở ra những bí ẩn tâm lý cho chúng ta. Những câu chuyện tôn giáo không chỉ là biểu tượng, chúng là mật mã. Khi được hiểu một cách trừu tượng, chúng loại bỏ tấm màn che giấu ánh sáng mà bản ngã vẫn dùng. Các nhân vật tôn giáo vĩ đại trong lịch sử đều tiết lộ những sự thật không thể chối cãi.

Cho dù các nguyên tắc phổ quát được nói rõ trong Công giáo hay Alcoholics Anonymous, Do Thái giáo hay A Course in Miracles, Islam, Phật giáo, Ấn Độ giáo hay bất cứ nơi nào, chúng đều là của chúng ta, dành để chúng ta khai phá kho báu tâm linh nếu muốn. Một thế hệ những người tìm kiếm đương đại bây giờ tìm đến những sự thật phổ quát đó để được giúp đỡ thoát khỏi bãi lầy đen tối chính là thời điểm này trong lịch sử loài người.

Các truyền thống tôn giáo vĩ đại là những biểu hiện tinh thần của cuộc hành trình anh hùng, cuộc kiếm tìm ý nghĩa của chung chúng ta trong một thế giới thường bị chi phối bởi những điều vô nghĩa. Mục tiêu của đời sống tinh thần là đạt được sự bình an nội tâm thông qua việc áp dụng các nguyên tắc yêu thương vào những mối quan tâm hằng ngày. Những nguyên tắc này là những lực vô hình mà khi được vận dụng sẽ mang lại sức mạnh vô hạn thay đổi cuộc sống của chúng ta.

Những câu chuyện tôn giáo vĩ đại tiết lộ thông tin đời đời xác đáng, dẫn dắt chúng ta qua sự mơ hồ của cuộc tồn tại có sinh có tử để đến với cái rõ ràng của sự thật tâm linh. Có một Chân Lý tâm linh, nhấn mạnh, được nói theo nhiều cách khác nhau và được kể qua nhiều bộ lọc khác nhau, cả thế tục và tôn giáo. Giống như một bài hát cổ điển của Cole Porter mà Frank Sinatra trình diễn vào năm 1943 và sau đó U2 hát vào năm 2010, mọi thời kỳ đều có quyền – và trách nhiệm với chính mình – làm mới hiểu biết về các nguyên tắc tâm linh theo quan điểm và trải nghiệm riêng. Truyền thống Do Thái nói rằng mọi thế hệ phải tái khám phá Chúa Trời, cho chính mình.

Có một điều không thay đổi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đó là con người đau khổ và tìm kiếm cách chấm dứt đau khổ. Đau khổ là cốt lõi trong mọi câu chuyện tôn giáo vĩ đại bởi nó là cốt lõi trải nghiệm của con người. Cuộc đời của Đức Phật, Moses và Jesus là ba cuộc đời đã tạo ra những vụ nổ bùng ánh sáng trong tinh thần toàn nhân loại, họ đều đã chứng kiến, chịu đựng và biến đổi niềm đau của cuộc sống. Từ việc Đức Phật chứng kiến cảnh đau khổ khi lần đầu rời khỏi cung điện của vua cha, Moses dẫn dân Israel thoát khỏi khổ nạn ở Ai Cập, đến nỗi khổ của Chúa Jesus trên thập giá – cả ba đều nhắm đến khổ đau của thế giới và sự giải thoát của chúng ta khỏi đó.

Khám phá Đức Phật, Moses và Chúa Jesus qua lăng kính tư duy phép màu làm tăng thêm chiều hướng hiểu biết cho những sự thật mà họ tiết lộ. Những câu chuyện của họ, sự khổ đau của họ và sự giải thoát mà họ đem đến chiếu sáng kinh nghiệm của chúng ta và mở rộng trái tim cho chúng ta.

Chịu đựng những cực nhọc và phiền phức của thế giới, hoặc đồng cảm với những người phải chịu đựng chúng, khiến tinh thần chúng ta biến đổi. Thông qua nỗi thống khổ của chính họ, những nhân vật tâm linh vĩ đại đã biến đổi và sau đó ban tặng cho đời đời ánh sáng thiêng liêng. Không chỉ đơn giản là Đức Phật, Moses hay Chúa Jesus đã khám phá được hiểu biết trừu tượng bí mật nào đó có thể truyền lại cho chúng ta. Tất nhiên sự việc sâu sắc hơn nhiều. Họ đã được tiếp thu. Họ đã nhận được sự thật thiêng liêng không trừu tượng mà dựa vào bản năng, không chỉ nhờ vào trí tuệ mà qua trải nghiệm, để trở thành ống dẫn truyền những gì mình tiếp thu được vào tâm trí người khác.

Bởi vì toàn bộ tâm trí đều tham gia và bản thân tâm trí là bất diệt, nên khi bất cứ ai, ở bất cứ nơi đâu vào bất cứ lúc nào, đạt được trạng thái ý thức trong đó thế giới tâm linh thâm nhập vào vật chất, cơ hội được tạo ra cho bất kỳ ai, ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, có thể làm điều tương tự. Ý thức của một nhân vật tôn giáo vĩ đại là một đường hầm năng lượng thông suốt – một cánh cửa, một cơn lốc hay bất kỳ từ nào chúng ta sử dụng để mô tả – để qua đó người khác có thể dễ dàng đi vào cùng trạng thái ý thức cao hơn. Cũng giống trong lịch sử tiến hóa, họ đạt được trạng thái mà tất cả chúng ta đang hướng tới, những việc họ đã làm khiến hành trình của chúng ta dễ đạt được hơn. Câu chuyện của họ, nhiệm vụ của họ, trở thành một dấu ấn trong tâm lý của chính chúng ta, mang sức mạnh biến đổi để chúng ta hóa thân như họ đã hóa thân.

Chúng ta không được yêu cầu tái hiện nỗi khổ của các nhân vật tôn giáo vĩ đại, mà chỉ đơn thuần học hỏi từ đó để cũng có thể là hiện thân của những thông điệp mà họ nhận được.

Khi chính chúng ta đang đau khổ – vì sự thờ ơ tâm linh, vì làm nô lệ cho bản ngã, vì bệnh tật hoặc thương tật, hoặc bất kỳ thử thách sâu sắc nào khác – thì ánh sáng tinh thần là bàn tay của Chúa vươn xuống để nâng chúng ta dậy. Những giáo lý tâm linh vĩ đại là ánh sáng xua tan bóng tối khỏi tâm trí chúng ta, là bậc thang ý thức dẫn thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Trải nghiệm tôn giáo – không phải chỉ khư khư bám vào giáo lý hay giáo điều, mà là cuộc gặp gỡ đích thực với Chúa khi chúng ta gọi tên Người trong bất lực và đau đớn – mở ra cánh cửa để chúng ta thoát khỏi cõi tối tăm thuộc linh.

Tôi không nói để tán dương đau khổ, mà để đơn giản nhận ra rằng ngay cả trong đau khổ vẫn có Chúa. Thông thường, những thứ đánh dấu sự kết thúc của một cuộc đời chỉ đơn giản là sự khởi đầu của một cuộc đời mới. Tuy nhiên, trừ khi chúng ta cho phép khổ đau dạy mình những điều nó có thể dạy – tuyệt đối tin tưởng Tình Yêu của Chúa như nguồn cội hạnh phúc duy nhất, không phải chỉ trong một số thứ nào đó mà là trong tất cả – còn không thì nỗi đau mà chúng ta phải chịu sẽ chẳng bao giờ là gì khác ngoài kết quả của sự hỗn loạn ngẫu nhiên vô nghĩa. Giống như mọi thứ khác, nó mang bất kỳ ý nghĩa nào mà chúng ta gán cho. Trên hết, yêu thương là ý nghĩa của cuộc sống – là đặt sự mở rộng lòng từ bi cho chúng sinh khác lên đầu danh sách khi chúng ta xem xét tại sao mình được sinh ra, tại sao mình thức dậy mỗi sáng, tại sao mình làm những gì đang làm, và tại sao mình đến những nơi đang đến. Bất cứ điều gì khác cuối cùng cũng đều là vô nghĩa và sẽ không bao giờ đủ mạnh mẽ để chấm dứt nỗi khổ hoặc đem đến một con đường để bình an thực sự. Chúng ta có thể không bao giờ đạt được, ít nhất là trong cuộc đời này, ý thức giác ngộ của Đức Phật, Moses, hay Jesus, nhưng nỗ lực là thứ khiến cho cuộc sống trở nên đáng sống, giúp chấm dứt đau khổ và làm cho hạnh phúc trở thành mục tiêu cơ bản có thể đạt được.